Từ phạm trù “nhân” của nho giáo đến phạm trù “nhân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Bài viết phân tích “Nhân” của Nho giáo và “Nhân” trong tư tưởng

đạo đức Hồ Chí Minh. Theo tác giả, trong Nho giáo Trung Quốc sơ kỳ, nhân

được hiểu là yêu thương con người, là đạo làm người mà cốt lõi là trung - thứ,

là một phẩm chất của người quân tử. Trong Nho giáo Việt Nam, ngoài những

nội dung trên, nhân còn là yêu nước, thương dân; là khoan dung độ lượng, là

yêu chuộng hòa bình. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân không hoàn toàn

giống quan niệm của Nho giáo về nhân. Đối với Hồ Chí Minh, nhân còn là tình

yêu thương đối với Tổ quốc, đồng bào, nhân loại cần lao, là sự đấu tranh xóa

bỏ áp bức và bất công, giải phóng con người.

pdf 8 trang kimcuc 4600
Bạn đang xem tài liệu "Từ phạm trù “nhân” của nho giáo đến phạm trù “nhân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ phạm trù “nhân” của nho giáo đến phạm trù “nhân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh

Từ phạm trù “nhân” của nho giáo đến phạm trù “nhân” trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh
Từ phạm trù "Nhân" của Nho giáo... 
 47 
TỪ PHẠM TRÙ “NHÂN” CỦA NHO GIÁO ĐẾN PHẠM TRÙ 
“NHÂN” TRONG TƯ TƯỞNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH 
PHAN MẠNH TOÀN* 
Tóm tắt: Bài viết phân tích “Nhân” của Nho giáo và “Nhân” trong tư tưởng 
đạo đức Hồ Chí Minh. Theo tác giả, trong Nho giáo Trung Quốc sơ kỳ, nhân 
được hiểu là yêu thương con người, là đạo làm người mà cốt lõi là trung - thứ, 
là một phẩm chất của người quân tử. Trong Nho giáo Việt Nam, ngoài những 
nội dung trên, nhân còn là yêu nước, thương dân; là khoan dung độ lượng, là 
yêu chuộng hòa bình. Quan niệm của Hồ Chí Minh về nhân không hoàn toàn 
giống quan niệm của Nho giáo về nhân. Đối với Hồ Chí Minh, nhân còn là tình 
yêu thương đối với Tổ quốc, đồng bào, nhân loại cần lao, là sự đấu tranh xóa 
bỏ áp bức và bất công, giải phóng con người. 
Từ khóa: Nhân, Nho giáo sơ kỳ, Nho giáo Việt Nam, Hồ Chí Minh. 
1. “Nhân” là một trong những phạm 
trù cơ bản của Nho giáo Trung Quốc, có 
nội dung rất phong phú, đa dạng, nhiều 
vẻ. Trong Luận ngữ, hơn một trăm lần 
Khổng Tử nói về “Nhân”, coi đó là một 
trong những phẩm chất đạo đức cao 
nhất. Mặc dù vậy, bản thân người sáng 
lập Nho giáo cũng không đưa ra một 
định nghĩa nhất quán về phạm trù này, 
mà thông thường tùy lúc, tùy nơi, tùy 
từng hoàn cảnh và đối tượng học trò mà 
ông giảng giải về “Nhân” theo những 
nghĩa, những cách khác nhau. Nội dung 
bao quát của “Nhân” trong Nho giáo sơ 
kỳ được thể hiện trên những ý nghĩa cơ 
bản sau: 
Thứ nhất, “Nhân” là lòng yêu thương 
con người. Đây là nội dung cơ bản đầu 
tiên, có tính khái quát của phạm trù 
“Nhân”. Ý nghĩa này được thể hiện rất 
rõ trong sách Luận ngữ. Khi học trò là 
Phàn Trì hỏi về “Nhân”, Khổng Tử đáp: 
“Nhân là thương người”.(*) 
Thứ hai, “Nhân” là đạo làm người mà 
cốt lõi là trung - thứ. Ở trên đã cho thấy, 
“Nhân” trước hết mang nghĩa là yêu 
người, nhưng thế nào là yêu người? Trả 
lời cho vấn đề đó, Khổng Tử chỉ ra con 
đường để thực hiện - đó là phải trung - 
thứ, yêu người là phải “trung” và “thứ”. 
Theo nghĩa này, “Nhân” thể hiện rõ rệt 
mối quan hệ giữa người với người - là 
đạo làm người. 
“Trung” tức là “Mình muốn lập thân 
thì cũng lo giúp người lập thân, mình 
muốn thông đạt thì cũng lo giúp người 
thông đạt” (Kỷ dục lập nhi lập nhân, kỷ 
dục đạt nhi đạt nhân). Đó là đức tính 
(*) Tiến sĩ, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(77) - 2014 
 48 
thẳng thắn, tận tâm đối với người. Nói 
cách khác, đó là một tiêu chuẩn về hành 
vi giữa người với người chứ không chỉ 
là đạo đức của kẻ bề tôi. “Thứ” tức là 
“Điều gì mình không muốn thì chớ đem 
đối xử với người khác” (Kỷ sở bất dục, 
vật thi ư nhân). Chủ tịch Hồ Chí Minh 
nhận xét rằng, triết lý đạo Khổng và triết 
lý phương Tây đều tán dương một 
nguyên tắc đạo đức “Kỷ sở bất dục, vật 
thi ư nhân”. 
Thứ ba, “Nhân” là một đức, một phẩm 
chất của người quân tử. Nhà Nho đặt ra 
yêu cầu “người quân tử trong khoảng 
bữa ăn cũng không trái nhân, vội vàng 
cũng phải theo nhân, hoạn nạn cũng phải 
theo nhân”. “Nhân” không phải là phẩm 
chất của một lực lượng thần thánh siêu 
nhiên, mà là phẩm chất của con người 
trần tục, nhưng trong Nho giáo “Nhân” 
lại được hiểu là một đức, một thuộc tính 
chỉ có ở người quân tử mà thôi. 
Nội dung của phạm trù “Nhân” ngày 
càng được mở rộng theo sự phát triển 
của Nho giáo trong tiến trình lịch sử. 
Hán Nho, Đổng Trọng Thư đã mở rộng 
phạm vi của chữ “Nhân” từ lòng yêu 
người đến lòng yêu vạn vật như điểu 
thú, côn trùng: “Từ cái cốt yếu là yêu 
dân mà suy xuống dưới như điểu thú, 
côn trùng, không loài nào không yêu, 
không yêu sao đủ gọi là nhân?”(1). Quan 
niệm về “Nhân” tiếp tục được mở rộng 
ở Tống Nho. Thời kỳ này, do sự ảnh 
hưởng mạnh mẽ của đạo Phật, đạo Lão, 
các nhà nho (tiêu biểu như Trương 
Hoành Cừ, Trình Minh Đạo...) coi thiên 
địa, vạn vật đều là một thể, đều từ một 
khí mà biến hóa ra, không phân biệt ta 
với vật, đã yêu thì yêu hết thảy muôn 
loài, muôn vật không cần tính toán, và 
yêu muôn loài muôn vật như chính bản 
thân ta. Theo họ như vậy mới thực sự là 
“Nhân”. Về lý thuyết, Hán Nho và 
Tống Nho mở rộng nội dung của 
“Nhân” đến cả điểu thú, côn trùng, đến 
muôn vật, muôn loài, nhưng trên thực 
tế, Hán Nho và Tống Nho đã tước bớt 
những yếu tố nhân văn, nhân bản của 
Nho giáo sơ kỳ và đưa vào đó nhiều 
quan điểm thần bí duy tâm, nhấn mạnh 
quan hệ ràng buộc trên - dưới một cách 
khắt khe đến nghiệt ngã.(1) 
Có thể nói, quan niệm về “Nhân” của 
Nho giáo mang tính hai mặt, chứa đựng 
cả yếu tố tích cực lẫn tiêu cực, cả yếu tố 
nhân bản lẫn những yếu tố phi nhân bản. 
Mặt tích cực là nó góp phần giáo dục 
con người quan hệ với nhau trên cơ sở 
của tình thương yêu, lòng nhân ái, sống 
với nhau có tình có nghĩa. Nó kêu gọi 
con người không làm điều tàn ác, bất 
nhân, vô đạo. So với các học thuyết 
đương thời, nó thể hiện một tinh thần 
nhân văn, nhân đạo rõ rệt. Tuy nhiên, 
quan niệm về “Nhân” của Nho giáo 
cũng bộc lộ những mặt hạn chế, tiêu 
cực. Quan niệm đó chủ trương yêu 
thương con người, nhưng không phải 
con người trong quan hệ bình đẳng, mà 
phải nằm trong trật tự “luân thường”. 
Nho giáo tỏ thái độ phân biệt rất rõ ràng 
(1) Giản Chi - Nguyễn Hiến Lê (2004), Đại 
cương triết học Trung Quốc, tập 2, Nxb Thanh 
niên, tr. 410-411. 
Từ phạm trù "Nhân" của Nho giáo... 
 49 
về đối tượng của sự yêu thương. Đối 
tượng đó không giống nhau, mà có sự 
sai đẳng, phải phân biệt theo sự thân sơ, 
đẳng cấp, tước vị. Nó quá đề cao quan 
hệ huyết thống, tuyệt đối hóa các quan 
hệ gia đình, dòng tộc, quan hệ máu mủ. 
Khẳng định “Nhân” là phẩm chất đạo 
đức cao quí, là mục đích cao nhất của sự 
tu dưỡng, nhưng coi đó không phải là 
phẩm chất chung của những con người 
bình thường, mà chỉ là phẩm chất của 
người quân tử, là đức của người cầm 
quyền. Chữ “Nhân” chỉ là phẩm chất 
của người bề trên, nó mang tính chiếu 
cố ban ơn đối với người dưới. Nhân 
trong đạo đức Nho giáo chỉ dừng lại ở 
chỗ kêu gọi người ta an phận chờ thời, 
khiêm nhường cung kính; nó không kích 
thích, không cổ vũ cho sự phẫn nộ trước 
những bất công xã hội, sự đấu tranh đòi 
quyền được sống trong độc lập, tự do, 
dân chủ, mà chỉ là chờ đợi sự yêu 
thương từ kẻ khác, từ thế lực cầm quyền 
cai trị (“Trị đạo Nho giáo dựa vào lòng 
nhân của vua, quan là chính”(2)). Hơn 
nữa, nó đối lập nhân nghĩa với đời sống 
vật chất, với việc làm giàu, phát triển 
kinh tế. Nho giáo đặt vấn đề “vi nhân” 
với “vi phú” trong quan hệ loại trừ nhau. 
Trong quan niệm của Nho giáo về 
“Nhân”, con người ít được nhìn nhận từ 
phương diện con người tự nhiên - sinh 
học với những nhu cầu sống và kiếm tìm 
hạnh phúc cá nhân. Cũng do không xuất 
phát từ nền tảng tự nhiên của con người 
nên quan niệm về lòng thương người 
của Nho giáo không phát triển thành chủ 
nghĩa nhân đạo cao cả - giải phóng con 
người, nhìn nhận con người với tư cách 
chủ nhân thực sự của cuộc đời. 
2. Ở Việt Nam, tình thương và lòng 
nhân ái của nhân dân ta trước hết là sản 
phẩm tất yếu của lịch sử xã hội Việt 
Nam, được nảy sinh từ thực tiễn đấu 
tranh dựng nước và giữ nước. 
Nho giáo và Phật giáo tồn tại và từng 
giữ vị trí chi phối trong một thời gian 
dài trong lịch sử nước ta, nên có ảnh 
hưởng đến tình cảm đạo đức của nhân 
dân ta là điều không tránh khỏi. Nhưng 
điều đó không có nghĩa là lòng nhân ái 
của dân tộc ta nhất thiết phải lấy từ Nho 
hoặc Phật. “Nhân” ở Việt Nam không 
phải là “bản sao” của “Nhân” trong Nho 
giáo Trung Quốc hay “từ bi” của đạo 
Phật. Nhân dân ta tiếp thu những nội 
dung nhất định của “Nhân” là bởi đạo lý 
đó có điều phù hợp với nhu cầu của dân 
tộc ta. Nhân dân ta vốn sống nhân ái, vị 
tha trước khi biết đến đạo lý “Kỷ sở bất 
dục, vật thi ư nhân” của Nho giáo. Dĩ 
nhiên, Nho giáo cũng có vai trò nhất 
định trong việc giúp nhân dân ta đúc 
kết, hệ thống hóa một số quan điểm đạo 
đức truyền thống của dân tộc.(2) 
Có thể nói, từ phạm trù “Nhân” trong 
Nho giáo Trung Quốc đến phạm trù 
“Nhân” trong Nho giáo ở Việt Nam có 
một quá trình vận động, biến đổi phức 
tạp, thăng trầm theo dòng lịch sử. 
Trong quá trình vận động ấy diễn ra sự 
ảnh hưởng, tiếp biến và làm “khúc xạ” 
nội dung của nó. Ở Việt Nam, những 
(2) Lê Sĩ Thắng (chủ biên) (1994), Nho giáo tại 
Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 134. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(77) - 2014 
 50 
nội dung ấy không còn nguyên xi như 
quan niệm của các “thánh hiền” Nho 
giáo Trung Quốc, mà được tiếp thu có 
chọn lọc, được bổ sung, làm phong phú 
bởi truyền thống nhân văn của dân tộc, 
gắn liền với yêu cầu của mỗi thời lỳ 
lịch sử, với vai trò, phẩm chất của chủ 
thể. Tuy nhiên, phạm trù “Nhân” trong 
Nho giáo ở Việt Nam có những sắc thái 
riêng nhất định bởi nó được bổ sung 
bằng thực tiễn lịch sử và truyền thống 
văn hóa Việt Nam: 
Thứ nhất, “Nhân” trong Nho giáo ở 
Việt Nam cũng mang nội dung trước 
hết là “yêu người”, song “yêu người” 
gắn với yêu nước, thương dân. Giáo sư 
Trần Văn Giàu cho rằng, “Khái niệm 
nhân ái Nho giáo vào tâm tư người Việt 
Nam thành ra yêu đồng bào, yêu Tổ 
quốc trước hết”(3). Yêu nước thực chất 
chính là yêu thương con người ở một 
trình độ cao hơn. Tình thương đó không 
chỉ đơn thuần là tình thương của cá 
nhân này với một cá nhân khác, mà cao 
hơn thế, nó còn phản ánh quan hệ giữa 
cá nhân với cộng đồng; cộng đồng đó là 
nhân dân, là đất nước. Nó gắn vận 
mệnh của cá nhân với vận mệnh và sự 
sống còn, tồn vong của dân tộc. Vị trí 
của dân được đề cao, vai trò của dân 
được xem trọng. Nhân nghĩa gắn liền 
với chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân 
đạo cao cả. Giáo sư Vũ Khiêu nhận xét: 
“Coi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa 
nhân đạo là đạo lý làm người là nội 
dung của nhân nghĩa theo cách hiểu của 
Việt Nam, nho sĩ Việt Nam vay mượn 
những lời lẽ của Khổng Tử để cổ vũ 
cho đạo lý ấy”(4). 
Thứ hai, “Nhân” chứa đựng một tinh 
thần khoan dung độ lượng cao cả, độ 
lượng với những kẻ lầm đường lạc lối, 
khoan dung với ngay chính kẻ thù xâm 
lược khi chúng đã thất bại đầu hàng. Đó 
là một phương châm xử thế đậm chất 
truyền thống dân tộc. 
Người trong quan niệm của các nhà 
nho tiến bộ ở Việt Nam không phải là 
con người chung chung trừu tượng, phi 
giai cấp, phi lịch sử; “người” ở đây được 
thể hiện rất rõ ràng - đó là người dân lao 
động lầm than khổ cực, là những dân 
“manh lệ”, là “dân đen”, “con đỏ”, 
những người dân nô lệ mất nước, bị áp 
bức. Cần nói thêm rằng, “yêu người” 
trong quan niệm của các nhà Nho Việt 
Nam cũng bao hàm cả nội dung “ghét 
người”, song đối tượng của sự “ghét” ở 
đây cũng được xác định cụ thể - đó là 
ghét kẻ xâm lăng, ghét kẻ giả nhân giả 
nghĩa lợi dụng chiêu bài nhân nghĩa để 
reo rắc tai họa cho người khác, cho nhân 
dân nước khác - nói chung là ghét kẻ thù 
xâm lược, “thề không đội trời chung với 
quân nghịch tặc”. Mặc dù vậy, khi 
chúng đã thất bại lại khoan dung, mở 
đường “hiếu sinh” mà không “hiếu sát”. 
Thứ ba, tư tưởng yêu chuộng hòa 
bình, tránh binh đao; xây dựng đất nước 
hòa bình, nhân dân no đủ, xã hội hoà 
mục là lý tưởng cao nhất của nhân nghĩa 
(3) Trần Văn Giàu (1980), Giá trị tinh thần 
truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nxb Khoa 
học xã hội, Hà Nội, tr. 254. 
(4) Vũ Khiêu (chủ biên) (1991), Nho giáo xưa và 
nay, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, tr. 322. 
Từ phạm trù "Nhân" của Nho giáo... 
 51 
Việt Nam. Một xã hội ổn định, thái 
bình, không có binh đao khói lửa chiến 
tranh, trên dưới vua tôi hoà mục là điều 
mà các nhà Nho Việt Nam mong mỏi. 
3. Khi vào nước ta, các phạm trù đạo 
đức Nho giáo đã phần nào được “Việt 
Nam hoá” và góp phần hình thành nên 
những yếu tố truyền thống của dân tộc 
ta, nên chúng đã từng quen thuộc với 
người dân Việt Nam từ lâu đời. Hồ Chí 
Minh đã không vứt bỏ chúng một cách 
cực đoan. Người sử dụng và cải tạo 
chúng, bổ sung cho chúng bằng những 
nội dung mới của thời đại ; kết hợp giá 
trị đạo đức cũ với giá trị đạo đức mới, 
cái truyền thống với cái hiện đại. Đồng 
thời, để mọi người hiểu đúng nội dung 
của những khái niệm mà mình sử dụng, 
Người thường giảng giải rất cụ thể. 
Khái quát về đạo đức Nho giáo, 
Người cho rằng: “Khổng Tử dạy đạo 
đức là nhân nghĩa”(5). Nhưng nếu đức 
“Nhân” của Nho giáo chỉ nói đến yêu 
người trong một phạm vi hạn chế, một 
khuôn khổ chật hẹp, chỉ đề cao và nhấn 
mạnh người thân mà nhạt người sơ, thì 
chữ “Nhân” trong quan niệm của Hồ 
Chí Minh mang một nội dung bao la 
rộng lớn - “ôm cả non sông, mọi kiếp 
người”. Đối tượng của “Nhân” trong tư 
tưởng Hồ Chí Minh cũng là con người; 
tuy nhiên, đó không phải là con người 
chung chung trừu tượng, phi giai cấp, 
phi lịch sử. Lòng nhân ái đó dành cho 
những tầng lớp, những con người cụ thể 
trong xã hội. Đó là sự kính trọng các cụ 
già, yêu thương các cháu nhỏ, tin tưởng 
vào thế hệ trẻ, lên án mọi bất công, thô 
bạo đối với phụ nữ và luôn quan tâm 
đến việc giải phóng phụ nữ, đòi quyền 
tự do, bình đẳng cho nhân loại cần lao. 
Khái niệm “Nhân” mà Hồ Chí Minh 
sử dụng có nội dung cụ thể, rõ ràng và 
khác về căn bản với chữ “Nhân” của 
Nho giáo. Đó là: “thật thà thương yêu, 
hết lòng giúp đỡ đồng chí và đồng bào. 
Vì thế mà kiên quyết chống lại những 
người, những việc có hại đến Đảng, đến 
nhân dân. Vì thế mà sẵn sàng chịu cực 
khổ trước mọi người, hưởng hạnh phúc 
sau thiên hạ. Vì thế mà không ham giàu 
sang, không e cực khổ, không sợ oai 
quyền”(6). Nhân trong cách hiểu của Hồ 
Chí Minh là tình thương yêu không bờ 
bến đối với Tổ quốc, đồng bào, với toàn 
thể nhân loại cần lao cũng như các dân 
tộc thuộc địa bị áp bức; đó không chỉ 
yêu Tổ quốc, yêu đồng bào, mà còn là 
tinh thần quốc tế vô sản trong sáng. Ở 
Hồ Chí Minh, “Nhân” không chỉ là sự 
yêu thương, tôn trọng con người, trân 
trọng nhân cách và phẩm giá con người, 
lòng yêu quí nhân dân, mà còn là niềm 
tin vào vai trò, sức mạnh của quần 
chúng nhân dân, sự tận tuỵ đến quên 
mình cho độc lập, tự do của Tổ quốc và 
hạnh phúc của nhân dân. Sự quan tâm, 
chăm lo đến con người của Hồ Chí 
Minh bao giờ cũng là sự hài hòa giữa 
việc quan tâm đến những nhu cầu, lợi 
ích của mỗi người với sự giáo dục, bồi 
(5) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 6, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 225. 
(6) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 5, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 251-252. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(77) - 2014 
 52 
dưỡng để nâng cao những phẩm chất 
cao quí nhất trong mỗi con người nhằm 
phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. 
Sự giáo dục đó dựa trên niềm tin sâu sắc 
vào cái tốt, cái thiện trong mỗi con 
người. Tiếp thu giá trị truyền thống, 
những tư tưởng tiến bộ của thời đại, 
thấm nhuần chủ nghĩa nhân văn cách 
mạng, nên Người luôn mong muốn nâng 
cao giá trị, năng lực của con người, bồi 
dưỡng và giáo dục để con người ngày 
càng trở nên hữu ích hơn, tốt đẹp hơn, 
cao quí hơn. Vì thế, “Nhân” trong quan 
niệm của Hồ Chí Minh đã trở thành một 
chủ nghĩa nhân văn sâu sắc. Tư tưởng 
đó vừa thấm nhuần nhân sinh quan cộng 
sản, vừa thể hiện sâu sắc những giá trị 
tinh thần truyền thống của dân tộc và 
nhân loại. 
“Nhân” trong cách hiểu của Hồ Chí 
Minh còn là sự đấu tranh không khoan 
nhượng với cái xấu cái ác, hướng tới 
xoá bỏ mọi áp bức bất công để giải 
phóng con người. Tư tưởng yêu nước, 
thương dân, trân trọng những người 
cùng khổ được thể hiện rõ nét trong suy 
nghĩ và hành động của Người. Người 
xác định rõ mục đích trên con đường 
tranh đấu là phải giải phóng những 
người nô lệ mất nước đang sống trong 
lầm than, lao dịch khổ sai, đang bị giam 
hãm trong vòng ngu dốt tối tăm, giải 
phóng giai cấp cần lao đau khổ, tiến đến 
giải phóng con người. Lòng nhân ái của 
Hồ Chí Minh dành cho mọi lớp người. 
Trong tình thương yêu đó có chỗ cho tất 
cả, “không quên không sót một ai”. Tư 
tưởng nhân ái, khoan dung của Hồ Chí 
Minh thấm đượm chủ nghĩa yêu nước, 
tinh thần nhân đạo. Đó không chỉ là tâm 
hồn biết xót xa đến thân phận của những 
người cùng khổ nhất trong những người 
cùng khổ, không chỉ dừng ở sự đồng 
cảm, thương xót con người theo kiểu tôn 
giáo, mà còn là tích cực, kiên quyết, 
không ngừng hành động, bền bỉ đấu 
tranh để giải thoát những người bất hạnh 
đang bị áp bức bóc lột khỏi cảnh lầm 
than, cơ cực, khổ đau. Thương người 
của Hồ Chí Minh cũng bao hàm nhân 
dân các dân tộc mang xiềng xích thực 
dân. Lòng thương đó không phải là sự 
cảm thông của một người đứng từ trên 
nhìn xuống hay đứng bên ngoài nhìn 
vào, mà là tìm mọi cách làm cho những 
người lao khổ và dân tộc bị áp bức có 
thể tự mình cởi ách ngựa trâu để đến với 
tự do và hạnh phúc. Người không chỉ 
gắn tình yêu của mình vào con người, 
vào đồng loại, độ lượng khoan dung với 
kẻ thù, mà còn quan tâm sâu sắc đến 
việc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải 
phóng giai cấp, giải phóng con người. 
Vì yêu con người nên, Hồ Chí Minh tìm 
mọi phương thức để mang lại hạnh 
phúc, tự do cho con người với phương 
châm “Không có gì quí hơn độc lập, tự 
do”. Hồ Chí Minh đã tiếp thu truyền 
thống đạo đức, lòng nhân ái, yêu thương 
quí trọng con người của dân tộc và nhân 
loại, nâng nó lên thành chủ nghĩa nhân 
văn cách mạng. 
Lòng thương người, lối sống nhân ái, 
thuỷ chung được Người nâng lên tầm 
cao mới, gắn với nhân sinh quan cộng 
sản chủ nghĩa. Trong lời phát biểu về 
Từ phạm trù "Nhân" của Nho giáo... 
 53 
việc xuất bản loại sách “Người tốt việc 
tốt”, Người nói: “Nhân dân ta từ lâu đã 
sống với nhau có tình có nghĩa như thế. 
Từ khi có Đảng ta lãnh đạo và giáo dục 
tình nghĩa ấy càng cao đẹp hơn, trở 
thành tình nghĩa đồng bào, đồng chí, 
tình nghĩa năm châu bốn biển một 
nhà”(7). “Nhân” phải đi liền với “Nghĩa” - 
đó là sự ngay thẳng, không tà tâm, 
không làm những việc bậy bạ, không có 
việc gì phải giấu Đảng, ngoài lợi ích của 
Đảng, của nhân dân không có lợi ích 
nào khác. Lúc Đảng giao cho việc, thì 
bất kỳ to nhỏ, đều ra sức làm cẩn thận. 
Thấy việc phải thì làm, thấy việc phải 
thì nói, không sợ người ta phê bình 
mình, mà phê bình người cũng luôn luôn 
đúng đắn. 
Chữ “Nhân” mà Nho giáo đề cao, 
trước hết là nhằm vào những đối tượng 
trong “tam cương” và “ngũ luân”, nhấn 
mạnh “trung với vua” và “hiếu với cha 
mẹ”. Hồ Chí Minh cũng nói về chữ 
“Nhân”, nhưng đó là tình cảm thiêng 
liêng, sâu sắc của người cách mạng với 
dân với nước - là tận trung với Tổ quốc, 
tận hiếu với nhân dân. Trong quá trình 
giáo dục, rèn luyện đạo đức cách mạng 
cho mọi tầng lớp nhân dân, nhất là cho 
những người cán bộ, đảng viên, Hồ Chí 
Minh cũng thường nói đến chữ “Nhân ” 
và Người nêu lên một cách vắn tắt, nhưng 
thiết thực, mang ý nghĩa sâu sắc về nó: 
“Chữ nhân là người, là anh em, là họ hàng, 
nghĩa rộng là cả bạn bè, đồng bào cả nước, 
rộng nữa là cả loài người”. Người luôn 
khuyên cán bộ đảng viên: “Việc gì có lợi 
cho dân phải hết sức làm, việc gì có hại 
cho dân phải hết sức tránh”.(7) 
Hiện nay, chúng ta đang đẩy mạnh 
việc học tập và làm theo tấm gương đạo 
đức Hồ Chí Minh, thì một trong những 
nội dung quan trọng hàng đầu phải là 
tinh thần nhân ái, khoan dung của 
Người. Khoan dung không có nghĩa là 
thoả hiệp với những tội ác chà đạp lên 
“quyền được sống, được tự do và mưu 
cầu hạnh phúc” của mỗi dân tộc cũng 
như mỗi cá nhân, không phải nhượng bộ 
vô nguyên tắc với những sự bất công, 
mà phải trên cơ sở tôn trọng chính nghĩa 
và công lý, hướng tới tự do và bình đẳng 
của mọi lớp người. Nghĩa là, chữ 
“Nhân” của Hồ Chí Minh là sự gắn kết 
chặt chẽ giữa tình thương bao la vô hạn 
với một lý trí sáng suốt, nhân gắn liền 
với trí và dũng. Bản thân Người cũng là 
bậc “Đại nhân, đại trí, đại dũng”. Đạo 
đức khoan dung của Hồ Chí Minh lấy 
lòng thương yêu con người làm cơ sở, 
đồng thời lấy công lý, chính nghĩa làm 
phương châm xử trí mọi công việc. Chữ 
“Nhân” trong tư tưởng đạo đức của 
Người là sự thấm nhuần chủ nghĩa nhân 
đạo cộng sản với tinh hoa của văn minh, 
văn hoá nhân loại; là sự kế thừa và phát 
triển đến đỉnh cao truyền thống đạo đức 
nhân hậu, nhân nghĩa Việt Nam. Từ 
phạm trù “Nhân” của Nho giáo đến 
phạm trù “Nhân” trong tư tưởng đạo đức 
Hồ Chí Minh là một quá trình “cách 
mạng hóa”, làm nên sự khác biệt căn 
bản về chất. 
(7) Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 12, Nxb 
Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 554. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 4(77) - 2014 
 54 

File đính kèm:

  • pdftu_pham_tru_nhan_cua_nho_giao_den_pham_tru_nhan_trong_tu_tuo.pdf