Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương

Trong thơ Nôm Trần Tế Xương (Tú Xương), từ Hán Việt xuất hiện với số lượng

tương đối ít, tần số thấp, phần lớn là những từ đã được Việt hóa hoàn toàn. Tuy

không phải là bộ phận từ ngữ chủ đạo, nhưng dưới bàn tay sử dụng ngôn ngữ

điêu luyện, tài hoa của Tú Xương, lớp từ ngữ này vẫn mang lại nhiều giá trị thẩm

mỹ độc đáo, bất ngờ cho thơ ông, trong đó, tiêu biểu là các giá trị hiện thực, giá trị

trữ tình và giá trị trào phúng.

pdf 7 trang kimcuc 11620
Bạn đang xem tài liệu "Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương

Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương
44
CHUYÊN MỤC 
VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT 
TỪ HÁN VIỆT TRONG THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG 
PHẠM TUẤN VŨ 
NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI 
Trong thơ Nôm Trần Tế Xương (Tú Xương), từ Hán Việt xuất hiện với số lượng 
tương đối ít, tần số thấp, phần lớn là những từ đã được Việt hóa hoàn toàn. Tuy 
không phải là bộ phận từ ngữ chủ đạo, nhưng dưới bàn tay sử dụng ngôn ngữ 
điêu luyện, tài hoa của Tú Xương, lớp từ ngữ này vẫn mang lại nhiều giá trị thẩm 
mỹ độc đáo, bất ngờ cho thơ ông, trong đó, tiêu biểu là các giá trị hiện thực, giá trị 
trữ tình và giá trị trào phúng. 
1. MỞ ĐẦU 
Trong bài viết Nhà thơ Trần Tế Xương, 
Nguyễn Văn Hoàn có một nhận định: 
“Sức mạnh của thơ Tú Xương còn ở tài 
sử dụng ngôn ngữ. Kế tục thiên tài của 
Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn 
Công Trứ,L Tú Xương cùng với Nguyễn 
Khuyến là bậc thầy về tài vận dụng ngôn 
ngữ dân tộc. Ngôn ngữ trong thơ văn Tú 
Xương giản dị mà giàu hình ảnh, chính 
xác mà linh hoạt, sắc bén”. Thành tựu 
lớn nhất của ngôn ngữ thơ Tú Xương 
vẫn thuộc về lớp từ ngữ Việt “bắt nguồn 
từ ngôn ngữ quần chúng, ngôn ngữ của 
ca dao, tục ngữ” (Nhiều tác giả, 2001, tr. 
402). Từ đánh giá trên, có thể thấy lớp từ 
ngữ Hán Việt trong thơ ông còn ít được 
chú ý. 
Trong hơn 100 tác phẩm thơ Nôm để lại 
của Tú Xương, dễ nhận ra một điều, từ 
Hán Việt được sử dụng hạn chế đến 
mức tối đa (có những bài thơ chỉ có một 
vài từ Hán Việt xuất hiện, như bài Ta 
chẳng ra chi từ Hán Việt chỉ có 2/56 chữ 
[kiệu 轎, ông 翁]; bài Đi hát mất ô: 2/56 
chữ [canh 更, tình 情]; bài Đêm dài: 4/56 
chữ [tỉnh 醒, tuyết 雪, canh 更, hoa 花];L). 
Thế nhưng không vì số lượng ít mà vai 
trò của lớp từ Hán Việt trong thơ Tú 
Xương trở nên mờ nhạt. Có thể nói, 
bằng tài năng ngôn ngữ bậc thầy, nhà 
thơ đất Vị Xuyên biết cách để cho từ Hán 
Việt xuất hiện ở những lúc cần thiết, 
mang lại nhiều giá trị bất ngờ, độc đáo 
Phạm Tuấn Vũ. Thạc sĩ. Thành phố Quy 
Nhơn, Bình Định. 
Nguyễn Thị Hương Lài. Học viên cao học, 
Trường Đại học Quy Nhơn. 
PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 
45
mà nhiều khi lớp từ ngữ thuần Việt vốn 
chiếm ưu thế áp đảo lại không làm được. 
2. GIÁ TRỊ CỦA TỪ HÁN VIỆT TRONG 
THƠ TÚ XƯƠNG 
2.1. Giá trị hiện thực 
Trong thơ Tú Xương, lớp từ ngữ thuần 
Việt chiếm vai trò chủ đạo trong việc 
phản ánh hiện thực. Đây là xu hướng 
chung của sự vận động ngôn ngữ thơ ca 
Việt Nam thời trung đại. Càng về sau, 
ngôn ngữ dân tộc càng tỏ ra ưu thế trong 
việc phản ánh hiện thực đời sống và tính 
cách con người. Từ Hán Việt vốn mơ hồ, 
khái quát, lại cố định, khép kín, đứng im, 
do đó không có sở trường trong việc thể 
hiện cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng 
cũng như đi sâu vào khám phá những 
ngóc ngách của tâm hồn người Việt. Từ 
thế kỷ XVIII, văn học trung đại Việt Nam 
gia tăng yếu tố hiện thực và tâm hồn con 
người được khám phá với tất cả chiều 
sâu của nó, nên thành tựu chủ yếu thuộc 
về bộ phận văn học chữ Nôm là điều tất 
yếu. 
Thế nhưng với Tú Xương, từ Hán Việt 
vẫn có thể khắc phục được các sở đoản, 
đem đến nhiều giá trị mới. Trong thơ của 
ông lớp từ Hán Việt được vận dụng một 
cách linh hoạt với nhiều dụng ý đã góp 
phần nhất định vào việc phản ánh hiện 
thực đất nước giai đoạn giao thời cuối 
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó rõ nét 
nhất là đời sống ngôn ngữ dân tộc trong 
thời buổi Tây Tàu nhố nhăng. Tiêu biểu 
như trong bài Hỏi đùa mình: 
Ông có đi thi kí lục không 
Nghe ông quốc ngữ đọc chưa thông (1) 
Kí lục (記錄), quốc ngữ (國語) là những từ 
ngữ Hán Việt được sử dụng phổ biến 
trong đời sống ngôn ngữ nước ta giai 
đoạn trên. Bởi trong giai đoạn này, kí lục, 
tức “viên chức nhỏ chuyên làm công việc 
sổ sách, giấy tờ ở công sở thời thực dân 
Pháp” (Hoàng Phê, 1992, tr. 518) là một 
nghề thời thượng; chữ Quốc ngữ bắt đầu 
phát triển và có ảnh hưởng lớn trong đời 
sống ngôn ngữ dân tộc. Do đó, những từ 
ngữ Hán Việt mới ra đời như kí lục, quốc 
ngữ trở nên phổ biến, nhiều khi trở thành 
thời thượng. 
Trong thơ Tú Xương, nhiều từ ngữ Hán 
Việt liên quan đến khoa cử được tác giả 
thường xuyên sử dụng, chẳng hạn trong 
các câu: Chẳng những Lương Đường có 
thủ khoa 首 科 (Than thân chưa đạt), 
Xướng danh 唱名 tên gọi trên mình tượng 
(Đi thi nói ngông), Văn trường 文場 liều 
lĩnh đấm ăn xôi (Than đạo học), Cử nhân 
舉人: Cậu ấm Kỉ / Tú tài 秀才: Con đô Mĩ 
(Than sự thi), Lôi thôi sĩ tử 士子 vai đeo lọ 
(Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu), Sơ 
khảo 初考 khoa 科 này bác cử 舉 Nhu 
(Bác cử Nhu), Tiến sĩ 進士 khoa 科 này đỗ 
mấy người (Ông tiến sĩ mới),L Lớp từ 
Hán Việt này góp phần gợi lên không khí 
thi cử ở nước ta trong buổi chợ chiều 
của nền Hán học, cũng như nỗi ám ảnh 
về chuyện đi thi vốn luôn thường trực 
trong suy nghĩ và sáng tác của con 
người tài hoa nhưng lận đận: “tám khoa 
chưa khỏi phạm trường quy” (Buồn thi 
hỏng). 
Một lớp từ đặc biệt mà chúng tôi nghĩ 
cần phải nói thêm ở đây là lớp từ ngữ 
ngoại lai mới xuất hiện ở nước ta trong 
thời thực dân mưa Âu gió Á được Tú 
Xương mạnh dạn đưa vào trong thơ 
mình. Lớp từ này ra đời trong một hoàn 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
46
cảnh xã hội - chính trị đặc biệt theo 
phương thức phiên âm/đọc chệch tiếng 
nước ngoài, chủ yếu là tiếng Hoa và 
tiếng Pháp. Trong thơ Tú Xương, từ 
ngoại lai nguồn gốc tiếng Pháp có các từ 
như sâm banh (champagne, trong câu 
“Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” - Chữ 
nho), xanh căng (cinquante [năm mươi], 
trong câu “Thôi thôi lạy mợ xanh căng 
lạy” - Không học vần Tây),L; từ nguồn 
gốc tiếng Hoa như cống hỉ (Cống hỉ, mét 
xì thông mọi tiếng - Hễ mai tớ hỏng), hẩu 
lố (Hẩu lố khách đà dăm bảy chú - 
Phòng không). Cống hỉ âm Hán Việt là 
cung hỉ (恭喜), âm Bắc Kinh hiện đại là 
gongxi, có nghĩa chúc mừng. Hẩu lố âm 
Hán Việt là hảo liễu (好了), âm Bắc Kinh 
là haole, nghĩa là được rồi, tốt rồi. Những 
từ này không phải là từ Hán Việt, nhưng 
có cùng nguồn gốc với từ Hán Việt (khác 
âm đọc nhưng cùng ý nghĩa và tự dạng), 
do hiện tượng đọc chệch âm Quảng 
Đông mà thành, ban đầu chủ yếu được 
sử dụng trong cộng đồng người Hoa, về 
sau dần trở nên phổ biến trong đời sống 
ngôn ngữ nước ta ở thời buổi Tây Tàu 
hỗn độn. 
Nguyễn Tuân, nhà văn tài hoa luôn xem 
Tú Xương là bậc thầy ngôn ngữ của 
mình, đã nhận xét về giá trị hiện thực 
trong thơ họ Trần như sau: “Ở đây, 
không nói hết được cái giàu sang của 
phương pháp hiện thực Tú Xương” 
(Nhiều tác giả, 2001, tr. 299). Trong 
những phương pháp hiện thực ấy, nghệ 
thuật sử dụng từ Hán Việt để phản ánh 
hiện thực đời sống ngôn ngữ dân tộc là 
một đóng góp quan trọng của ông. 
2.2. Giá trị trữ tình 
Nếu từ ngữ thuần Việt thường sinh động, 
cụ thể, giàu hình ảnh, có ưu thế đặc biệt 
trong việc thể hiện tình cảm tươi vui, gần 
gũi, bông đùa, thậm chí suồng sãL thì 
gần như ngược lại, từ Hán Việt mang 
trong mình đặc trưng trừu tượng, tĩnh tại, 
trầm mặc, trang nhã, có sở trường trong 
việc thể hiện những tình cảm trang 
nghiêm, thiêng liêng, cao quý, những 
cảm xúc hào hùng, trang trọng, những 
nỗi buồn sầu, thương cảm, bi aiL 
Trong thơ Tú Xương, mảng thơ trữ tình 
tuy chiếm số lượng không nhiều nhưng 
có những giá trị đặc biệt. Đó là những 
vần thơ nơi thi nhân họ Trần sau những 
cay đắng với thế thái nhân tình, trải lòng 
mình với nhiều cung bậc cảm xúc, nhất 
là những nốt lặng trầm buồn. Trong 
những vần thơ ấy có nỗi ê chề nhiều lần 
thi không đậu, nỗi thương vợ con lam lũ 
đói nghèo, sự đồng cảm với những 
người vợ hiền sớm góa bụa hoặc phải 
chịu cảnh chồng chung,L Tất cả được 
giấu kín sau những vần thơ có phần 
dửng dưng, nhiều khi tếu táo. Trong 
mảng thơ trữ tình đặc sắc này của ông, 
vai trò của từ Hán Việt khá rõ nét. 
Trong bài thơ Thương vợ, một số từ Hán 
Việt được sử dụng đúng lúc đã thể hiện 
sâu sắc hơn nỗi vất vả của bà Tú và tấm 
lòng cảm phục, trân trọng, thương yêu 
của nhà thơ đối với vợ mình: 
Một duyên 緣 hai nợ âu đành phận 分 
Năm nắng mười mưa dám quản công 管
功 
Trong bài Khóc em gái, viết về người em 
gái bất hạnh qua đời ở tuổi “hai bốn hai 
lăm” khi chồng vừa thi đỗ cử nhân, nhà 
thơ “huy động” một lượng lớn từ Hán 
Việt (16/56 chữ, chiếm 28,8%): 
Mệnh sao bạc thế hỡi em ơi 
PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 
47
Hai bốn hai lăm cũng một đời 
Bảng hổ vừa treo, cầu thước bắc 
Cành hoa đã rụng, phím đàn rơi 
Cây tương tư héo, chồng rầu rĩ 
Thuyền độ sinh đưa, Phật rước mời 
Những muốn dựng bia làm kỷ niệm 
Lòng anh thương xót biết bao nguôi. 
Một loạt từ Hán Việt: mệnh 命, bạc 薄, 
bảng hổ 榜虎, thước 鵲, hoa 花, đàn 彈, 
tương tư 相思, thuyền 船, độ sinh 度生, 
Phật 佛, kỷ niệm 己念, thương 傷 xuất hiện 
dồn dập, có mặt ở hầu hết các dòng thơ 
(7/8 dòng) làm cho tác phẩm như ngưng 
đọng lại, nhịp thơ chậm hơn, giọng thơ bi 
thiết, khắc họa đậm nét hơn nỗi buồn 
đau của chủ thể trữ tình trước sự ra đi 
đột ngột của người em gái. 
Trong bài Lấy lẽ, viết về tình cảnh đáng 
thương của người vợ bé, Tú Xương vận 
dụng một số từ ngữ Hán Việt đặc biệt 
vào trong câu thơ của mình: 
Cha kiếp sinh ra phận má hồng 
Khéo thay một nỗi lấy chung chồng 
[L] 
Hầu hạ đã toan phiền cát lũy 
Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông 
Các từ Hán Việt: kiếp 劫, sinh 生, phận 分, 
hồng 紅, hạ 下, phiền 煩; đặc biệt là hai 
điển cố Hán Việt cát lũy 葛藟 (trong Kinh 
thi phần Quốc phong, bài Cù mộc có câu 
Nam hữu cù mộc/ Cát lũy luy chi 南有樛木/ 
葛藟纍之; nghĩa: Phía Nam có cây lớn/ 
Dây sắn bìm leo lên. Cát lũy trong văn 
học chỉ người vợ lẽ) và Hà Đông 河東 
(Bài thơ của Tô Đông Pha giễu vợ của 
Trần Tạo là Liễu thị tính ghen tuông, hay 
bực dọc la hét có câu: Hốt văn Hà Đông 
sư tử hống/ Trụ tượng lạc thủ tâm mang 
nhiên 忽聞河東獅子吼 / 拄杖落手心茫然, nghĩa: 
Chợt nghe sư tử Hà Đông rống/ Kinh 
hoàng gậy rớt khỏi tay. Trong văn học, 
điển tích Hà Đông chỉ người vợ ghen 
tuông dữ tợn) đã góp phần thể hiện nổi 
bật những bất công, tủi khổ mà người vợ 
lẽ trong bài thơ phải cam chịu, qua đó 
bộc lộ nỗi niềm cảm thông, thương xót 
của tác giả đối với nhân vật và thái độ 
bất bình trước tệ nạn đa thê. 
Với những tình cảm trang trọng, thiêng 
liêng như sự ngưỡng mộ, ca ngợi, kính 
trọng, từ Hán Việt tỏ ra đặc biệt hữu hiệu 
trong việc phô bày. Điều này thể hiện 
đậm nét trong bài Gửi ông thủ khoa 
Phan, nhà chí sĩ yêu nước mà Tú Xương 
kính phục. 
Mấy năm vượt bể lại trèo non 
Em hỏi thăm qua bác hãy còn 
Mái tóc giáp thìn đà điểm tuyết 
Điểm đầu canh tí chửa phai son 
Vá trời gặp hội mây năm vẻ 
Lấp bể ra công đất một hòn 
Có phải như ai mà chẳng chết 
Giương tay chống vững cột càn khôn 
Cùng với điển cố chuyển dịch vá trời, 
mây năm vẻ, lấp bể(2) trong hai câu luận, 
lối nói ước lệ, tượng trưng (mái tóc điểm 
tuyết, tay chống càn khôn), những từ 
Hán Việt giáp thìn 甲辰, điểm tuyết 點雪, 
đầu 頭, canh tí 庚子, càn khôn 乾坤(3),L đã 
làm cho nhịp thơ như chậm lại, trầm 
xuống, lời thơ trang trọng, giọng thơ 
thành kính, góp phần miêu tả thành công 
hình tượng người anh hùng Phan Bội 
Châu tài giỏi, nhiệt huyết, kiên trung 
trong những năm tháng bôn ba mưu đồ 
phục quốc, đồng thời bày tỏ thái độ cảm 
phục, ngưỡng vọng của nhà thơ. 
Đúng như nhận định của Nguyễn Đình 
Chú: “Cõi tâm thức là thế giới trữ tình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
48
trong thơ Tú Xương thật là phong phú. 
Nó gắn với vận mệnh của đất nước, với 
thời thế, với giai cấp Tú Xương và với 
chính ngay số mệnh của Tú Xương giữa 
cuộc đời” (Nhiều tác giả, 2001, tr. 420). 
Trong thế giới trữ tình phong phú ấy, từ 
Hán Việt được sử dụng một cách linh 
hoạt, có ý đồ và mang đến những giá trị 
thẩm mỹ lớn không thua kém gì lớp từ 
ngữ thuần Việt. 
2.3. Giá trị trào phúng 
Mảng sáng tác nổi bật nhất trong thơ 
Trần Tế Xương là thơ trào phúng, nên 
giá trị lớn nhất của hệ thống từ ngữ Hán 
Việt trong thơ ông là giá trị trào phúng, 
một giá trị bất ngờ mà bản chất từ Hán 
Việt vốn không có ưu thế. 
Đứng trong hệ thống Hán văn trung đại ở 
Việt Nam, từ Hán Việt đa phần không 
mang sắc thái cợt nhả, thô tục, thường 
không có sở trường trong việc gây cười. 
Thế nhưng khi được đưa vào các sáng 
tác bằng chữ Nôm, đứng cạnh lớp từ 
thuần Việt, dưới bàn tay sắp đặt của 
những nhà thơ có biệt tài ngôn ngữ, từ 
Hán Việt có thể mang lại những giá trị 
trào lộng bất ngờ. Bởi xét về bản chất, 
cái hài là sự mâu thuẫn “giữa hình thức 
và nội dung, giữa bộ phận với toàn thể, 
giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước 
muốn và khả năng thực tế, giữa cái 
được phép và không được phép, quen 
và không quen, bình thường và không 
bình thường”, bởi “những cái gây cười, 
xét về bản chất là cái có mâu thuẫn, hiểu 
như là sự đối lập không cân xứng, không 
hài hòa” (Phương Lựu, 2006, tr. 161). 
Trong thơ Tú Xương, giá trị trào phúng 
của lớp từ ngữ có nguồn gốc ngoại lai 
này thể hiện đậm nét trong nhiều bài thơ 
khác nhau. 
Tiêu biểu như trong các bài tự trào: 
Bụng buồn còn muốn nói năng chi 
Đệ nhất buồn là cái hỏng thi 
(Buồn thi hỏng) 
Trời đất sinh ra chán vạn nghề 
Làm thầy làm thợ lại làm thuê 
Bác này mới thật thái vô tích 
Sáng vác ô đi, tối vác về 
(Thái vô tích) 
[L] Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất 
Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì 
Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế 
Giang hồ cho biết bạn tương tri 
Gặp thời gặp vận nên bay nhảy 
Cho thỏa rằng sinh chẳng lỗi thì 
 (Tự đắc) 
Hay những bài thơ giễu cười nhân tình 
thế thái: 
Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ 
Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền 
(Thói đời) 
Cầm kì thi tửu, vui ra phá 
Điền sản tư cơ, mấy cũng nghèo 
(Không chiều đãi) 
Tri phủ Xuân Trường được mấy niên 
Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên 
Chữ thôi, chữ cứu không phê đến 
Ông chỉ quen phê một chữ tiền 
(Bỡn tri phủ Xuân Trường) 
Quảng đại từ bi cũng phải tù 
Hay là sư cũng vụng đường tu 
Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển 
Ý hẳn còn quen một phép phù 
(Sư ở tù) 
Con gái nhà ai dáng thị thành 
Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh 
Nhạt màu son phấn, say màu đạo 
Mở cánh từ bi, khép cánh tình 
PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 
49
Miệng đọc nam mô quên chín chữ 
Tay lần tràng hạt phụ ba sinh 
Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế 
Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh 
(Thiếu nữ đi tu) 
Có thể nhận thấy, từ Hán Việt trong 
những câu/bài thơ trên có một số điểm 
chung sau: 1) Tần số xuất hiện khá lớn 
(bài Bỡn tri phủ Xuân Trường 15/28 chữ, 
chiếm 54% số chữ; hai câu thực trong 
bài Không chiều đãi: 9/14 chữ, chiếm 
64%; bài Thiếu nữ đi tu: 21/56 chữ, 
chiếm 37,5%). 2) Phần lớn đó là những 
từ thi ca, từ ngữ nhà Phật, có tính điệu 
thẩm mỹ cao (tri kỉ 知己, phong lưu 風流, 
thiệp thế 涉世, tương tri 相知, cầm kì thi 
tửu 琴棋詩酒, thục nữ 淑女, hồng nhan 紅顏, 
quảng đại từ bi 廣大慈悲, sư 師, tu 修, tụng 
kinh cứu khổ 誦經救苦, nam mô 南無,L) 
nhưng chúng lại đứng cạnh từ ngữ thuần 
Việt mang tính chất khẩu ngữ, suồng sã 
khiến câu thơ mang giọng điệu giễu cợt, 
gây nên hiệu ứng đột gián bất ngờ. 3) 
Nhiều từ Hán Việt được nhà thơ chơi 
chữ, nói ngược (bài Bỡn tri phủ Xuân 
Trường, Sư ở tù); 4) Một số câu thơ tác 
giả sử dụng từ Hán Việt theo cấu trúc 
ngữ pháp bất thường như: Bác này mới 
thật thái vô tích (thái vô tích 太無績 là vô 
cùng không được tích sự gì, giới từ thái 
太 - rất, vô cùng không được sử dụng 
trong tiếng Việt), Đứa trọng, thằng khinh 
chỉ vị tiền (ta quen dùng chỉ vì, ít khi 
dùng chỉ vị tiền 只為, giới từ vị 為 - vì hiếm 
được dùng trong tiếng Việt), Đệ nhất 第一 
buồn là cái hỏng thi (trong cấu trúc đệ 
nhất + A thì A phải là danh từ hoặc hình 
dung từ, và phải là từ Hán Việt. Tú 
Xương đã phá vỡ cấu trúc bằng cách để 
A là một từ thuần Việt - buồn). Bốn đặc 
điểm trên làm cho từ ngữ Hán Việt trong 
thơ Tú Xương luôn ở trong thế “đứng 
nhầm chỗ”, liên tục gây nên hiệu ứng đột 
gián, từ đó tạo ra tiếng cười dồi dào, 
nhiều cung bậc. Sở đoản của từ Hán 
Việt đã được biến thành sở trường dưới 
bàn tay “phù thủy” của Tú Xương. Nhờ 
thế, lớp từ ngữ này đã bộc lộ giá trị trào 
phúng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. 
Vũ Đăng Văn gọi Tú Xương là “ông tổ 
thơ trào phúng Việt Nam”. Văn Tân 
khẳng định: “Thơ văn trào phúng của 
ông là cái đỉnh cao chót của thơ văn trào 
phúng Việt Nam” (Nhiều tác giả., 2001, tr. 
267). Có được địa vị cao quý này, trên 
phương diện các thủ pháp gây cười, 
đóng góp của Tú Xương trong nghệ 
thuật sử dụng từ Hán Việt là không hề 
nhỏ. 
3. KẾT LUẬN 
Tú Xương là một trong những nhà thơ 
xuất sắc của văn học dân tộc, một bậc 
“thần thơ thánh chữ” (Nguyễn Công 
Hoan). Hầu như người nào làm thơ, đọc 
thơ, bình thơ và biết thơ đều yêu thích 
Tú Xương, thừa nhận ở nhà thơ Vị 
Xuyên này biệt tài trong việc sử dụng 
ngôn ngữ. Kế thừa xuất sắc những bậc 
thầy đi trước như Nguyễn Du, Hồ Xuân 
Hương, Đoàn Thị Điểm,L Tú Xương đã 
góp phần quan trọng đưa ngôn ngữ thơ 
ca dân tộc ở thời trung đại lên đỉnh cao 
với nhiều thành tựu rực rỡ. 
Trong các phương diện của tài năng 
ngôn ngữ Tú Xương, bên cạnh nghệ 
thuật sử dụng tiếng nói dân tộc đạt trình 
độ mẫu mực, tài hoa, nghệ thuật sử 
dụng từ Hán Việt cũng đạt những thành 
công đáng kể. Được khai thác triệt để 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 
50
các đặc trưng như tính khái quát, trừu 
tượng, cô đọng, hàm súc, trang trọng ở 
những thời điểm hợp lý, bằng các thủ 
pháp linh hoạt, lớp từ Hán Việt đã đem 
lại cho thơ Nôm Tú Xương nhiều giá trị 
thẩm mỹ độc đáo, bất ngờ và mới mẻ. 
Đó là giá trị hiện thực trong việc phản 
ánh đời sống xã hội, ngôn ngữ và khoa 
cử ở nước ta ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế 
kỷ XX; giá trị trữ tình trong việc thể hiện 
niềm cảm thương, mến phục của tác giả 
đối với những con người bất hạnh, vất 
vả, hi sinh, chí lớn không thành; giá trị 
trào phúng trong việc cười mình vô dụng, 
cười người đổi thay và cười đời điên đảo. 
Có thể nói, từ Hán Việt đã để lại những 
dấu ấn nhất định đối với ngôn ngữ, giọng 
điệu thơ Trần Tế Xương.  
CHÚ THÍCH 
1. Tất cả thơ trích dẫn trong bài viết này đều dẫn từ sách Thơ Tú Xương do Kiều Văn tuyển chọn, 
giới thiệu. 
2. Vá trời (theo phần bản kỷ Tam hoàng trong Sử ký của Tư Mã Thiên, thủy thần Cộng Công làm 
phản, bị hỏa thần Chúc Dung đánh bại, đụng vào vách Bát Chu Sơn, làm gãy trụ trời. Trụ trời sập, 
nước trên thiên hà tràn xuống, nhân gian chìm trong biển họa, Nữ Oa xót thương bèn đội đá ngũ 
sắc vá lại trời. Điển vá trời chỉ những người có chí lớn ra giúp dân cứu đời); mây năm vẻ (tức ngũ 
sắc vân, chỉ điềm báo làm nên việc lớn, nghiệp đế vương); lấp bể (theo Sơn hải kinh, con gái Viêm 
Đế là Tinh Vệ chết đuối ở biển Đông, vì căm thù mà oan hồn hóa thành chim tinh vệ, ngày ngày 
gắp đá ở núi Tây lấp biển. Điển lấp bể chỉ cho lòng căm thù tột độ). 
3. Càn và khôn là hai quẻ trong Kinh dịch, tượng trưng cho trời và đất. Người quân tử, trượng phu 
thường xem đó mới xứng là nơi thỏa nguyện chí hành đạo, giúp đời. 
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 
1. Hoàng Phê. 1992. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ xuất bản. 
2. Kiều Văn (tuyển chọn, giới thiệu). 2008. Thơ Tú Xương. Đồng Nai: Nxb. Tổng hợp Đồng 
Nai. 
3. Phương Lựu (chủ biên). 2006. Tái bản lần thứ 5. Lí luận văn học. Hà Nội: Nxb Giáo dục. 
4. Nhiều tác giả. 2001. Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: Nxb. Giáo dục. 

File đính kèm:

  • pdftu_han_viet_trong_tho_tran_te_xuong.pdf