Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương
Trong thơ Nôm Trần Tế Xương (Tú Xương), từ Hán Việt xuất hiện với số lượng
tương đối ít, tần số thấp, phần lớn là những từ đã được Việt hóa hoàn toàn. Tuy
không phải là bộ phận từ ngữ chủ đạo, nhưng dưới bàn tay sử dụng ngôn ngữ
điêu luyện, tài hoa của Tú Xương, lớp từ ngữ này vẫn mang lại nhiều giá trị thẩm
mỹ độc đáo, bất ngờ cho thơ ông, trong đó, tiêu biểu là các giá trị hiện thực, giá trị
trữ tình và giá trị trào phúng.
Bạn đang xem tài liệu "Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ Hán Việt trong thơ Trần Tế Xương
44 CHUYÊN MỤC VĂN HỌC - NGÔN NGỮ HỌC - NGHIÊN CỨU VĂN HÓA - NGHỆ THUẬT TỪ HÁN VIỆT TRONG THƠ TRẦN TẾ XƯƠNG PHẠM TUẤN VŨ NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI Trong thơ Nôm Trần Tế Xương (Tú Xương), từ Hán Việt xuất hiện với số lượng tương đối ít, tần số thấp, phần lớn là những từ đã được Việt hóa hoàn toàn. Tuy không phải là bộ phận từ ngữ chủ đạo, nhưng dưới bàn tay sử dụng ngôn ngữ điêu luyện, tài hoa của Tú Xương, lớp từ ngữ này vẫn mang lại nhiều giá trị thẩm mỹ độc đáo, bất ngờ cho thơ ông, trong đó, tiêu biểu là các giá trị hiện thực, giá trị trữ tình và giá trị trào phúng. 1. MỞ ĐẦU Trong bài viết Nhà thơ Trần Tế Xương, Nguyễn Văn Hoàn có một nhận định: “Sức mạnh của thơ Tú Xương còn ở tài sử dụng ngôn ngữ. Kế tục thiên tài của Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Nguyễn Công Trứ,L Tú Xương cùng với Nguyễn Khuyến là bậc thầy về tài vận dụng ngôn ngữ dân tộc. Ngôn ngữ trong thơ văn Tú Xương giản dị mà giàu hình ảnh, chính xác mà linh hoạt, sắc bén”. Thành tựu lớn nhất của ngôn ngữ thơ Tú Xương vẫn thuộc về lớp từ ngữ Việt “bắt nguồn từ ngôn ngữ quần chúng, ngôn ngữ của ca dao, tục ngữ” (Nhiều tác giả, 2001, tr. 402). Từ đánh giá trên, có thể thấy lớp từ ngữ Hán Việt trong thơ ông còn ít được chú ý. Trong hơn 100 tác phẩm thơ Nôm để lại của Tú Xương, dễ nhận ra một điều, từ Hán Việt được sử dụng hạn chế đến mức tối đa (có những bài thơ chỉ có một vài từ Hán Việt xuất hiện, như bài Ta chẳng ra chi từ Hán Việt chỉ có 2/56 chữ [kiệu 轎, ông 翁]; bài Đi hát mất ô: 2/56 chữ [canh 更, tình 情]; bài Đêm dài: 4/56 chữ [tỉnh 醒, tuyết 雪, canh 更, hoa 花];L). Thế nhưng không vì số lượng ít mà vai trò của lớp từ Hán Việt trong thơ Tú Xương trở nên mờ nhạt. Có thể nói, bằng tài năng ngôn ngữ bậc thầy, nhà thơ đất Vị Xuyên biết cách để cho từ Hán Việt xuất hiện ở những lúc cần thiết, mang lại nhiều giá trị bất ngờ, độc đáo Phạm Tuấn Vũ. Thạc sĩ. Thành phố Quy Nhơn, Bình Định. Nguyễn Thị Hương Lài. Học viên cao học, Trường Đại học Quy Nhơn. PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 45 mà nhiều khi lớp từ ngữ thuần Việt vốn chiếm ưu thế áp đảo lại không làm được. 2. GIÁ TRỊ CỦA TỪ HÁN VIỆT TRONG THƠ TÚ XƯƠNG 2.1. Giá trị hiện thực Trong thơ Tú Xương, lớp từ ngữ thuần Việt chiếm vai trò chủ đạo trong việc phản ánh hiện thực. Đây là xu hướng chung của sự vận động ngôn ngữ thơ ca Việt Nam thời trung đại. Càng về sau, ngôn ngữ dân tộc càng tỏ ra ưu thế trong việc phản ánh hiện thực đời sống và tính cách con người. Từ Hán Việt vốn mơ hồ, khái quát, lại cố định, khép kín, đứng im, do đó không có sở trường trong việc thể hiện cuộc sống vốn muôn hình vạn trạng cũng như đi sâu vào khám phá những ngóc ngách của tâm hồn người Việt. Từ thế kỷ XVIII, văn học trung đại Việt Nam gia tăng yếu tố hiện thực và tâm hồn con người được khám phá với tất cả chiều sâu của nó, nên thành tựu chủ yếu thuộc về bộ phận văn học chữ Nôm là điều tất yếu. Thế nhưng với Tú Xương, từ Hán Việt vẫn có thể khắc phục được các sở đoản, đem đến nhiều giá trị mới. Trong thơ của ông lớp từ Hán Việt được vận dụng một cách linh hoạt với nhiều dụng ý đã góp phần nhất định vào việc phản ánh hiện thực đất nước giai đoạn giao thời cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, trong đó rõ nét nhất là đời sống ngôn ngữ dân tộc trong thời buổi Tây Tàu nhố nhăng. Tiêu biểu như trong bài Hỏi đùa mình: Ông có đi thi kí lục không Nghe ông quốc ngữ đọc chưa thông (1) Kí lục (記錄), quốc ngữ (國語) là những từ ngữ Hán Việt được sử dụng phổ biến trong đời sống ngôn ngữ nước ta giai đoạn trên. Bởi trong giai đoạn này, kí lục, tức “viên chức nhỏ chuyên làm công việc sổ sách, giấy tờ ở công sở thời thực dân Pháp” (Hoàng Phê, 1992, tr. 518) là một nghề thời thượng; chữ Quốc ngữ bắt đầu phát triển và có ảnh hưởng lớn trong đời sống ngôn ngữ dân tộc. Do đó, những từ ngữ Hán Việt mới ra đời như kí lục, quốc ngữ trở nên phổ biến, nhiều khi trở thành thời thượng. Trong thơ Tú Xương, nhiều từ ngữ Hán Việt liên quan đến khoa cử được tác giả thường xuyên sử dụng, chẳng hạn trong các câu: Chẳng những Lương Đường có thủ khoa 首 科 (Than thân chưa đạt), Xướng danh 唱名 tên gọi trên mình tượng (Đi thi nói ngông), Văn trường 文場 liều lĩnh đấm ăn xôi (Than đạo học), Cử nhân 舉人: Cậu ấm Kỉ / Tú tài 秀才: Con đô Mĩ (Than sự thi), Lôi thôi sĩ tử 士子 vai đeo lọ (Lễ xướng danh khoa Đinh Dậu), Sơ khảo 初考 khoa 科 này bác cử 舉 Nhu (Bác cử Nhu), Tiến sĩ 進士 khoa 科 này đỗ mấy người (Ông tiến sĩ mới),L Lớp từ Hán Việt này góp phần gợi lên không khí thi cử ở nước ta trong buổi chợ chiều của nền Hán học, cũng như nỗi ám ảnh về chuyện đi thi vốn luôn thường trực trong suy nghĩ và sáng tác của con người tài hoa nhưng lận đận: “tám khoa chưa khỏi phạm trường quy” (Buồn thi hỏng). Một lớp từ đặc biệt mà chúng tôi nghĩ cần phải nói thêm ở đây là lớp từ ngữ ngoại lai mới xuất hiện ở nước ta trong thời thực dân mưa Âu gió Á được Tú Xương mạnh dạn đưa vào trong thơ mình. Lớp từ này ra đời trong một hoàn TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 46 cảnh xã hội - chính trị đặc biệt theo phương thức phiên âm/đọc chệch tiếng nước ngoài, chủ yếu là tiếng Hoa và tiếng Pháp. Trong thơ Tú Xương, từ ngoại lai nguồn gốc tiếng Pháp có các từ như sâm banh (champagne, trong câu “Tối rượu sâm banh, sáng sữa bò” - Chữ nho), xanh căng (cinquante [năm mươi], trong câu “Thôi thôi lạy mợ xanh căng lạy” - Không học vần Tây),L; từ nguồn gốc tiếng Hoa như cống hỉ (Cống hỉ, mét xì thông mọi tiếng - Hễ mai tớ hỏng), hẩu lố (Hẩu lố khách đà dăm bảy chú - Phòng không). Cống hỉ âm Hán Việt là cung hỉ (恭喜), âm Bắc Kinh hiện đại là gongxi, có nghĩa chúc mừng. Hẩu lố âm Hán Việt là hảo liễu (好了), âm Bắc Kinh là haole, nghĩa là được rồi, tốt rồi. Những từ này không phải là từ Hán Việt, nhưng có cùng nguồn gốc với từ Hán Việt (khác âm đọc nhưng cùng ý nghĩa và tự dạng), do hiện tượng đọc chệch âm Quảng Đông mà thành, ban đầu chủ yếu được sử dụng trong cộng đồng người Hoa, về sau dần trở nên phổ biến trong đời sống ngôn ngữ nước ta ở thời buổi Tây Tàu hỗn độn. Nguyễn Tuân, nhà văn tài hoa luôn xem Tú Xương là bậc thầy ngôn ngữ của mình, đã nhận xét về giá trị hiện thực trong thơ họ Trần như sau: “Ở đây, không nói hết được cái giàu sang của phương pháp hiện thực Tú Xương” (Nhiều tác giả, 2001, tr. 299). Trong những phương pháp hiện thực ấy, nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt để phản ánh hiện thực đời sống ngôn ngữ dân tộc là một đóng góp quan trọng của ông. 2.2. Giá trị trữ tình Nếu từ ngữ thuần Việt thường sinh động, cụ thể, giàu hình ảnh, có ưu thế đặc biệt trong việc thể hiện tình cảm tươi vui, gần gũi, bông đùa, thậm chí suồng sãL thì gần như ngược lại, từ Hán Việt mang trong mình đặc trưng trừu tượng, tĩnh tại, trầm mặc, trang nhã, có sở trường trong việc thể hiện những tình cảm trang nghiêm, thiêng liêng, cao quý, những cảm xúc hào hùng, trang trọng, những nỗi buồn sầu, thương cảm, bi aiL Trong thơ Tú Xương, mảng thơ trữ tình tuy chiếm số lượng không nhiều nhưng có những giá trị đặc biệt. Đó là những vần thơ nơi thi nhân họ Trần sau những cay đắng với thế thái nhân tình, trải lòng mình với nhiều cung bậc cảm xúc, nhất là những nốt lặng trầm buồn. Trong những vần thơ ấy có nỗi ê chề nhiều lần thi không đậu, nỗi thương vợ con lam lũ đói nghèo, sự đồng cảm với những người vợ hiền sớm góa bụa hoặc phải chịu cảnh chồng chung,L Tất cả được giấu kín sau những vần thơ có phần dửng dưng, nhiều khi tếu táo. Trong mảng thơ trữ tình đặc sắc này của ông, vai trò của từ Hán Việt khá rõ nét. Trong bài thơ Thương vợ, một số từ Hán Việt được sử dụng đúng lúc đã thể hiện sâu sắc hơn nỗi vất vả của bà Tú và tấm lòng cảm phục, trân trọng, thương yêu của nhà thơ đối với vợ mình: Một duyên 緣 hai nợ âu đành phận 分 Năm nắng mười mưa dám quản công 管 功 Trong bài Khóc em gái, viết về người em gái bất hạnh qua đời ở tuổi “hai bốn hai lăm” khi chồng vừa thi đỗ cử nhân, nhà thơ “huy động” một lượng lớn từ Hán Việt (16/56 chữ, chiếm 28,8%): Mệnh sao bạc thế hỡi em ơi PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 47 Hai bốn hai lăm cũng một đời Bảng hổ vừa treo, cầu thước bắc Cành hoa đã rụng, phím đàn rơi Cây tương tư héo, chồng rầu rĩ Thuyền độ sinh đưa, Phật rước mời Những muốn dựng bia làm kỷ niệm Lòng anh thương xót biết bao nguôi. Một loạt từ Hán Việt: mệnh 命, bạc 薄, bảng hổ 榜虎, thước 鵲, hoa 花, đàn 彈, tương tư 相思, thuyền 船, độ sinh 度生, Phật 佛, kỷ niệm 己念, thương 傷 xuất hiện dồn dập, có mặt ở hầu hết các dòng thơ (7/8 dòng) làm cho tác phẩm như ngưng đọng lại, nhịp thơ chậm hơn, giọng thơ bi thiết, khắc họa đậm nét hơn nỗi buồn đau của chủ thể trữ tình trước sự ra đi đột ngột của người em gái. Trong bài Lấy lẽ, viết về tình cảnh đáng thương của người vợ bé, Tú Xương vận dụng một số từ ngữ Hán Việt đặc biệt vào trong câu thơ của mình: Cha kiếp sinh ra phận má hồng Khéo thay một nỗi lấy chung chồng [L] Hầu hạ đã toan phiền cát lũy Nhặt khoan còn ỏm tiếng Hà Đông Các từ Hán Việt: kiếp 劫, sinh 生, phận 分, hồng 紅, hạ 下, phiền 煩; đặc biệt là hai điển cố Hán Việt cát lũy 葛藟 (trong Kinh thi phần Quốc phong, bài Cù mộc có câu Nam hữu cù mộc/ Cát lũy luy chi 南有樛木/ 葛藟纍之; nghĩa: Phía Nam có cây lớn/ Dây sắn bìm leo lên. Cát lũy trong văn học chỉ người vợ lẽ) và Hà Đông 河東 (Bài thơ của Tô Đông Pha giễu vợ của Trần Tạo là Liễu thị tính ghen tuông, hay bực dọc la hét có câu: Hốt văn Hà Đông sư tử hống/ Trụ tượng lạc thủ tâm mang nhiên 忽聞河東獅子吼 / 拄杖落手心茫然, nghĩa: Chợt nghe sư tử Hà Đông rống/ Kinh hoàng gậy rớt khỏi tay. Trong văn học, điển tích Hà Đông chỉ người vợ ghen tuông dữ tợn) đã góp phần thể hiện nổi bật những bất công, tủi khổ mà người vợ lẽ trong bài thơ phải cam chịu, qua đó bộc lộ nỗi niềm cảm thông, thương xót của tác giả đối với nhân vật và thái độ bất bình trước tệ nạn đa thê. Với những tình cảm trang trọng, thiêng liêng như sự ngưỡng mộ, ca ngợi, kính trọng, từ Hán Việt tỏ ra đặc biệt hữu hiệu trong việc phô bày. Điều này thể hiện đậm nét trong bài Gửi ông thủ khoa Phan, nhà chí sĩ yêu nước mà Tú Xương kính phục. Mấy năm vượt bể lại trèo non Em hỏi thăm qua bác hãy còn Mái tóc giáp thìn đà điểm tuyết Điểm đầu canh tí chửa phai son Vá trời gặp hội mây năm vẻ Lấp bể ra công đất một hòn Có phải như ai mà chẳng chết Giương tay chống vững cột càn khôn Cùng với điển cố chuyển dịch vá trời, mây năm vẻ, lấp bể(2) trong hai câu luận, lối nói ước lệ, tượng trưng (mái tóc điểm tuyết, tay chống càn khôn), những từ Hán Việt giáp thìn 甲辰, điểm tuyết 點雪, đầu 頭, canh tí 庚子, càn khôn 乾坤(3),L đã làm cho nhịp thơ như chậm lại, trầm xuống, lời thơ trang trọng, giọng thơ thành kính, góp phần miêu tả thành công hình tượng người anh hùng Phan Bội Châu tài giỏi, nhiệt huyết, kiên trung trong những năm tháng bôn ba mưu đồ phục quốc, đồng thời bày tỏ thái độ cảm phục, ngưỡng vọng của nhà thơ. Đúng như nhận định của Nguyễn Đình Chú: “Cõi tâm thức là thế giới trữ tình TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 48 trong thơ Tú Xương thật là phong phú. Nó gắn với vận mệnh của đất nước, với thời thế, với giai cấp Tú Xương và với chính ngay số mệnh của Tú Xương giữa cuộc đời” (Nhiều tác giả, 2001, tr. 420). Trong thế giới trữ tình phong phú ấy, từ Hán Việt được sử dụng một cách linh hoạt, có ý đồ và mang đến những giá trị thẩm mỹ lớn không thua kém gì lớp từ ngữ thuần Việt. 2.3. Giá trị trào phúng Mảng sáng tác nổi bật nhất trong thơ Trần Tế Xương là thơ trào phúng, nên giá trị lớn nhất của hệ thống từ ngữ Hán Việt trong thơ ông là giá trị trào phúng, một giá trị bất ngờ mà bản chất từ Hán Việt vốn không có ưu thế. Đứng trong hệ thống Hán văn trung đại ở Việt Nam, từ Hán Việt đa phần không mang sắc thái cợt nhả, thô tục, thường không có sở trường trong việc gây cười. Thế nhưng khi được đưa vào các sáng tác bằng chữ Nôm, đứng cạnh lớp từ thuần Việt, dưới bàn tay sắp đặt của những nhà thơ có biệt tài ngôn ngữ, từ Hán Việt có thể mang lại những giá trị trào lộng bất ngờ. Bởi xét về bản chất, cái hài là sự mâu thuẫn “giữa hình thức và nội dung, giữa bộ phận với toàn thể, giữa ý nghĩa và phương tiện, giữa ước muốn và khả năng thực tế, giữa cái được phép và không được phép, quen và không quen, bình thường và không bình thường”, bởi “những cái gây cười, xét về bản chất là cái có mâu thuẫn, hiểu như là sự đối lập không cân xứng, không hài hòa” (Phương Lựu, 2006, tr. 161). Trong thơ Tú Xương, giá trị trào phúng của lớp từ ngữ có nguồn gốc ngoại lai này thể hiện đậm nét trong nhiều bài thơ khác nhau. Tiêu biểu như trong các bài tự trào: Bụng buồn còn muốn nói năng chi Đệ nhất buồn là cái hỏng thi (Buồn thi hỏng) Trời đất sinh ra chán vạn nghề Làm thầy làm thợ lại làm thuê Bác này mới thật thái vô tích Sáng vác ô đi, tối vác về (Thái vô tích) [L] Kìa thơ tri kỉ đàn anh nhất Nọ khách phong lưu bậc thứ nhì Ăn mặc vẫn ra người thiệp thế Giang hồ cho biết bạn tương tri Gặp thời gặp vận nên bay nhảy Cho thỏa rằng sinh chẳng lỗi thì (Tự đắc) Hay những bài thơ giễu cười nhân tình thế thái: Kẻ yêu người ghét, hay gì chữ Đứa trọng thằng khinh, chỉ vị tiền (Thói đời) Cầm kì thi tửu, vui ra phá Điền sản tư cơ, mấy cũng nghèo (Không chiều đãi) Tri phủ Xuân Trường được mấy niên Nhờ trời hạt ấy cũng bình yên Chữ thôi, chữ cứu không phê đến Ông chỉ quen phê một chữ tiền (Bỡn tri phủ Xuân Trường) Quảng đại từ bi cũng phải tù Hay là sư cũng vụng đường tu Tụng kinh cứu khổ ba trăm quyển Ý hẳn còn quen một phép phù (Sư ở tù) Con gái nhà ai dáng thị thành Cớ chi nỡ phụ cái xuân xanh Nhạt màu son phấn, say màu đạo Mở cánh từ bi, khép cánh tình PHẠM TUẤN VŨ - NGUYỄN THỊ HƯƠNG LÀI – TỪ HÁN VIỆT TRONGL 49 Miệng đọc nam mô quên chín chữ Tay lần tràng hạt phụ ba sinh Tiếc thay thục nữ hồng nhan thế Nỡ cạo đầu thề với quyển kinh (Thiếu nữ đi tu) Có thể nhận thấy, từ Hán Việt trong những câu/bài thơ trên có một số điểm chung sau: 1) Tần số xuất hiện khá lớn (bài Bỡn tri phủ Xuân Trường 15/28 chữ, chiếm 54% số chữ; hai câu thực trong bài Không chiều đãi: 9/14 chữ, chiếm 64%; bài Thiếu nữ đi tu: 21/56 chữ, chiếm 37,5%). 2) Phần lớn đó là những từ thi ca, từ ngữ nhà Phật, có tính điệu thẩm mỹ cao (tri kỉ 知己, phong lưu 風流, thiệp thế 涉世, tương tri 相知, cầm kì thi tửu 琴棋詩酒, thục nữ 淑女, hồng nhan 紅顏, quảng đại từ bi 廣大慈悲, sư 師, tu 修, tụng kinh cứu khổ 誦經救苦, nam mô 南無,L) nhưng chúng lại đứng cạnh từ ngữ thuần Việt mang tính chất khẩu ngữ, suồng sã khiến câu thơ mang giọng điệu giễu cợt, gây nên hiệu ứng đột gián bất ngờ. 3) Nhiều từ Hán Việt được nhà thơ chơi chữ, nói ngược (bài Bỡn tri phủ Xuân Trường, Sư ở tù); 4) Một số câu thơ tác giả sử dụng từ Hán Việt theo cấu trúc ngữ pháp bất thường như: Bác này mới thật thái vô tích (thái vô tích 太無績 là vô cùng không được tích sự gì, giới từ thái 太 - rất, vô cùng không được sử dụng trong tiếng Việt), Đứa trọng, thằng khinh chỉ vị tiền (ta quen dùng chỉ vì, ít khi dùng chỉ vị tiền 只為, giới từ vị 為 - vì hiếm được dùng trong tiếng Việt), Đệ nhất 第一 buồn là cái hỏng thi (trong cấu trúc đệ nhất + A thì A phải là danh từ hoặc hình dung từ, và phải là từ Hán Việt. Tú Xương đã phá vỡ cấu trúc bằng cách để A là một từ thuần Việt - buồn). Bốn đặc điểm trên làm cho từ ngữ Hán Việt trong thơ Tú Xương luôn ở trong thế “đứng nhầm chỗ”, liên tục gây nên hiệu ứng đột gián, từ đó tạo ra tiếng cười dồi dào, nhiều cung bậc. Sở đoản của từ Hán Việt đã được biến thành sở trường dưới bàn tay “phù thủy” của Tú Xương. Nhờ thế, lớp từ ngữ này đã bộc lộ giá trị trào phúng mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Vũ Đăng Văn gọi Tú Xương là “ông tổ thơ trào phúng Việt Nam”. Văn Tân khẳng định: “Thơ văn trào phúng của ông là cái đỉnh cao chót của thơ văn trào phúng Việt Nam” (Nhiều tác giả., 2001, tr. 267). Có được địa vị cao quý này, trên phương diện các thủ pháp gây cười, đóng góp của Tú Xương trong nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt là không hề nhỏ. 3. KẾT LUẬN Tú Xương là một trong những nhà thơ xuất sắc của văn học dân tộc, một bậc “thần thơ thánh chữ” (Nguyễn Công Hoan). Hầu như người nào làm thơ, đọc thơ, bình thơ và biết thơ đều yêu thích Tú Xương, thừa nhận ở nhà thơ Vị Xuyên này biệt tài trong việc sử dụng ngôn ngữ. Kế thừa xuất sắc những bậc thầy đi trước như Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Đoàn Thị Điểm,L Tú Xương đã góp phần quan trọng đưa ngôn ngữ thơ ca dân tộc ở thời trung đại lên đỉnh cao với nhiều thành tựu rực rỡ. Trong các phương diện của tài năng ngôn ngữ Tú Xương, bên cạnh nghệ thuật sử dụng tiếng nói dân tộc đạt trình độ mẫu mực, tài hoa, nghệ thuật sử dụng từ Hán Việt cũng đạt những thành công đáng kể. Được khai thác triệt để TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 12 (208) 2015 50 các đặc trưng như tính khái quát, trừu tượng, cô đọng, hàm súc, trang trọng ở những thời điểm hợp lý, bằng các thủ pháp linh hoạt, lớp từ Hán Việt đã đem lại cho thơ Nôm Tú Xương nhiều giá trị thẩm mỹ độc đáo, bất ngờ và mới mẻ. Đó là giá trị hiện thực trong việc phản ánh đời sống xã hội, ngôn ngữ và khoa cử ở nước ta ở cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX; giá trị trữ tình trong việc thể hiện niềm cảm thương, mến phục của tác giả đối với những con người bất hạnh, vất vả, hi sinh, chí lớn không thành; giá trị trào phúng trong việc cười mình vô dụng, cười người đổi thay và cười đời điên đảo. Có thể nói, từ Hán Việt đã để lại những dấu ấn nhất định đối với ngôn ngữ, giọng điệu thơ Trần Tế Xương. CHÚ THÍCH 1. Tất cả thơ trích dẫn trong bài viết này đều dẫn từ sách Thơ Tú Xương do Kiều Văn tuyển chọn, giới thiệu. 2. Vá trời (theo phần bản kỷ Tam hoàng trong Sử ký của Tư Mã Thiên, thủy thần Cộng Công làm phản, bị hỏa thần Chúc Dung đánh bại, đụng vào vách Bát Chu Sơn, làm gãy trụ trời. Trụ trời sập, nước trên thiên hà tràn xuống, nhân gian chìm trong biển họa, Nữ Oa xót thương bèn đội đá ngũ sắc vá lại trời. Điển vá trời chỉ những người có chí lớn ra giúp dân cứu đời); mây năm vẻ (tức ngũ sắc vân, chỉ điềm báo làm nên việc lớn, nghiệp đế vương); lấp bể (theo Sơn hải kinh, con gái Viêm Đế là Tinh Vệ chết đuối ở biển Đông, vì căm thù mà oan hồn hóa thành chim tinh vệ, ngày ngày gắp đá ở núi Tây lấp biển. Điển lấp bể chỉ cho lòng căm thù tột độ). 3. Càn và khôn là hai quẻ trong Kinh dịch, tượng trưng cho trời và đất. Người quân tử, trượng phu thường xem đó mới xứng là nơi thỏa nguyện chí hành đạo, giúp đời. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hoàng Phê. 1992. Từ điển tiếng Việt. Hà Nội: Trung tâm Từ điển Ngôn ngữ xuất bản. 2. Kiều Văn (tuyển chọn, giới thiệu). 2008. Thơ Tú Xương. Đồng Nai: Nxb. Tổng hợp Đồng Nai. 3. Phương Lựu (chủ biên). 2006. Tái bản lần thứ 5. Lí luận văn học. Hà Nội: Nxb Giáo dục. 4. Nhiều tác giả. 2001. Trần Tế Xương về tác gia và tác phẩm. Hà Nội: Nxb. Giáo dục.
File đính kèm:
- tu_han_viet_trong_tho_tran_te_xuong.pdf