Tư duy huyền thoại hóa cổ mẫu nước và lửa trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Thuật ngữ cổ mẫu (archétype) xuất phát từ ngành phân tâm học, cụ thể hơn là ngành

tâm lý học phân tích do C.Jung – nhà tâm lý học người Thụy Sĩ khởi xướng. Theo

C.Jung, về nguồn gốc xuất phát, cổ mẫu thoát thai từ vô thức tập thể - “nơi tàng trữ cô

đọng lại những kinh nghiệm của cả loài người” [4, tr.95], xuất hiện từ thời kỳ hồng

hoang của nhân loại. Về nội dung, cổ mẫu là “bản tổng kết đã được công thức hóa của

khối kinh nghiệm điển hình to lớn của vô số các thế hệ tổ tiên, đó có thể nói là vết tích

tâm lý của vô số cảm xúc cùng một kiểu” [9, tr.70], có giá trị bền vững, phổ quát. Theo

C.Jung, “nguyên mẫu (cách gọi khác của cổ mẫu) hiện diện trong tất cả những truyện

thần thoại, cổ tích và những sản phẩm tưởng tượng của con người” [5, tr.104]. `

Dựa vào quan điểm của C.Jung, một số từ điển đã đưa ra định nghĩa về cổ mẫu như sau:

Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới giải thích: “Các mẫu gốc giống như những nguyên

mẫu của các tập thể biểu tượng ăn sâu trong vô thức đến nỗi chúng trở thành như một

cấu trúc ” [1, tr.XXI].

Từ điển văn học định nghĩa: “Cổ mẫu là khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu

tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng

trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại” [7, tr.972].

pdf 9 trang kimcuc 6240
Bạn đang xem tài liệu "Tư duy huyền thoại hóa cổ mẫu nước và lửa trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tư duy huyền thoại hóa cổ mẫu nước và lửa trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại

Tư duy huyền thoại hóa cổ mẫu nước và lửa trong một số tiểu thuyết Việt Nam đương đại
 Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Huế, Đại học Huế 
ISSN 1859-1612, Số 01(49)/2019: tr. 45-53 
Ngày nhận bài: 01/7/2018; Hoàn thành phản biện: 24/10/2018; Ngày nhận đăng: 12/11/2018 
TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA 
TRONG MỘT SỐ TIỂU THUYẾT VIỆT NAM ĐƯƠNG ĐẠI 
NGUYỄN THỊ ÁI THOA 
Khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường Đại học Phú Yên 
 Nghiên cứu sinh, Trường Đại học Khoa học, Đại học Huế 
Email: thoanguyenpy@yahoo.com.vn 
Tóm tắt: Đối với văn xuôi, tiểu thuyết được xem thể loại chủ đạo, có ưu thế 
trong việc phản ánh những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con 
người. Nằm trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu thuyết 
từ sau 1986 đảm đương sứ mệnh quan trọng là đổi mới tư duy thể loại. Tiếp 
nhận từ lý thuyết phân tâm học của C. Jung, các nhà văn đã sử dụng cổ mẫu 
như một phương tiện nghệ thuật hữu hiệu để giúp cho người đọc tiếp cận 
hiện thực thêm phần sinh động và mới mẻ. Đặc biệt, thông qua tư duy huyền 
thoại hóa, các cổ mẫu hiện diện như những hình tượng nhân vật, những ký 
hiệu nghệ thuật đa nghĩa. Ở bài viết này, chúng tôi nghiên cứu tư duy huyền 
thoại hóa qua cổ mẫu nước và lửa trong một số tác phẩm tiểu thuyết Việt 
Nam từ sau 1986. 
Từ khóa: Tư duy huyền thoại hóa, tiểu thuyết Việt Nam, cổ mẫu, nước, lửa. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Thuật ngữ cổ mẫu (archétype) xuất phát từ ngành phân tâm học, cụ thể hơn là ngành 
tâm lý học phân tích do C.Jung – nhà tâm lý học người Thụy Sĩ khởi xướng. Theo 
C.Jung, về nguồn gốc xuất phát, cổ mẫu thoát thai từ vô thức tập thể - “nơi tàng trữ cô 
đọng lại những kinh nghiệm của cả loài người” [4, tr.95], xuất hiện từ thời kỳ hồng 
hoang của nhân loại. Về nội dung, cổ mẫu là “bản tổng kết đã được công thức hóa của 
khối kinh nghiệm điển hình to lớn của vô số các thế hệ tổ tiên, đó có thể nói là vết tích 
tâm lý của vô số cảm xúc cùng một kiểu” [9, tr.70], có giá trị bền vững, phổ quát. Theo 
C.Jung, “nguyên mẫu (cách gọi khác của cổ mẫu) hiện diện trong tất cả những truyện 
thần thoại, cổ tích và những sản phẩm tưởng tượng của con người” [5, tr.104]. ` 
Dựa vào quan điểm của C.Jung, một số từ điển đã đưa ra định nghĩa về cổ mẫu như sau: 
Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới giải thích: “Các mẫu gốc giống như những nguyên 
mẫu của các tập thể biểu tượng ăn sâu trong vô thức đến nỗi chúng trở thành như một 
cấu trúc” [1, tr.XXI]. 
Từ điển văn học định nghĩa: “Cổ mẫu là khái niệm dùng để chỉ những mẫu của các biểu 
tượng, các cấu trúc tinh thần bẩm sinh, trong tưởng tượng của con người, chứa đựng 
trong vô thức tập thể của cộng đồng nhân loại” [7, tr.972]. 
Nói về mối quan hệ giữa cổ mẫu, huyền thoại và văn học, nhà nghiên cứu Nguyễn Thị 
Thanh Xuân cho rằng: “Có mặt trong huyền thoại rồi tái sinh, hóa thân trong các tác 
46 NGUYỄN THỊ ÁI THOA 
phẩm văn học thành văn nhiều thế kỷ, cho đến nay, cổ mẫu đã có một hành trình rất dài 
cùng nhân loại” [8, tr.281] và “Những điều C.G. Jung xác lập cho phép ta nghĩ rằng nền 
văn học của một dân tộc nào cũng dung chứa trong lòng nó ít nhiều cổ mẫu. Văn học 
Việt Nam không là ngoại lệ, thậm chí ở đây có thể còn nguyên một kho tàng cổ mẫu 
quý giá mà giới nghiên cứu chưa chạm đến bao nhiêu” [8, tr.284]. 
Theo quan điểm của chúng tôi, trong kho tàng cổ mẫu quý giá, nước và lửa là những cổ 
mẫu tiêu biểu. Bởi lẽ, ngay từ thời nguyên thủy, đây là những cổ mẫu vốn tồn tại trong 
tâm thức của nhân loại. Về ý nghĩa biểu trưng, các cổ mẫu trên chứa đựng những ý 
nghĩa phổ quát, không giới hạn trong một dân tộc, một quốc gia và nó biểu hiện cho vô 
thức của cộng đồng, vô thức tập thể. Đặc biệt, trong tiểu thuyết Việt Nam đương đại, 
các cổ mẫu trên được các nhà văn sử dụng để miêu tả, khắc họa đời sống nội tâm cũng 
như đời sống tâm linh của con người. Từ đó, trong tác phẩm, các cổ mẫu hiện diện như 
những hình tượng nhân vật, qua đó thể hiện quan niệm, tư tưởng cũng như nhận thức 
của tác giả về hiện thực và con người. 
2. CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA – NHÌN TỪ TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA 
Trong các thể loại văn xuôi, tiểu thuyết vẫn là thể loại chủ đạo, có ưu thế trong việc 
phản ánh những vấn đề cơ bản của đời sống xã hội và số phận con người. Nằm trong 
dòng chảy của văn xuôi Việt Nam đương đại, tiểu thuyết từ 1986 đảm đương sứ mệnh 
quan trọng là đổi mới tư duy thể loại. Cụ thể, tiểu thuyết hướng tới những thay đổi trong 
tư duy nghệ thuật về con người và trong phương thức thể hiện. Trong quan niệm nghệ 
thuật về con người, tiểu thuyết thời kỳ đổi mới đã có sự dịch chuyển từ quan niệm con 
người sử thi sang quan niệm con người thế sự, đời tư. Nhà văn lấy con người làm điểm 
quy chiếu lịch sử với mong muốn nắm bắt những chân lý phổ quát về con người. Chịu 
sự chi phối của quy luật thời bình, con người trong tiểu thuyết tồn tại như một nhân vị 
độc lập, đó là kiểu con người phức tạp, con người lưỡng diện, con người không trùng 
khít với chính mình như trong Thời xa vắng của Lê Lựu, Bến không chồng của Dương 
Hướng, Ăn mày dĩ vãng của Chu Lai, Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc 
Trường. Đặc biệt, một trong những đổi mới quan trọng của tiểu thuyết giai đoạn này là 
các nhà văn đã sử dụng phương thức huyền thoại hóa trong sáng tác. Có thể kể ra đây 
những tên tuổi tiêu biểu như Khôi Vũ, Phạm Ngọc Tiến, Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, 
Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương Tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm của Khôi 
Vũ đã sử dụng motif lời nguyền để đặt các nhân vật trước sự lựa chọn: thiện/ác, tốt/xấu, 
tình yêu/thù hận trong khoảng thời gian năm thế hệ của một dòng họ (hai trăm năm) và 
để cho nhân vật chính (Hai Thìn) hóa giải, dẫu phải đánh đổi bằng cả mạng sống của 
bản thân. Tác giả thông qua tư duy huyền thoại hóa kết hợp với thủ pháp đồng hiện để 
hoà trộn những bức xúc, những xô xát quyết liệt của đời sống hôm nay với cái mờ ảo, 
huyền bí của lịch sử hai trăm năm trước thành một dòng chảy không ngừng. Ngoài ra, 
hàng loạt các tác phẩm khác như Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến, Thiên sứ của 
Phạm Thị Hoài, Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, Đức Phật, nàng Savitri và Tôi, Trong 
sương hồng hiện ra của Hồ Anh Thái, Bả giời, Vào cõi, Những đứa trẻ chết già, Thoạt 
kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, Mẫu Thượng Ngàn của Nguyễn Xuân Khánh là 
TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA... 47 
những tác phẩm tiêu biểu sử dụng kiểu tư duy này. Bằng việc đổi mới kỹ thuật viết và 
lựa chọn cho tác phẩm một phương thức thể hiện thích hợp, các nhà văn đã đem đến cho 
người đọc nhiều cảm xúc mới mẻ về một hiện thực nghiệt ngã qua những huyền thoại 
giàu tính biểu tượng. Đặc biệt, các nhà văn đã sử dụng các cổ mẫu như phương tiện 
nghệ thuật hữu hiệu để giúp cho người đọc tiếp cận hiện thực một cách sinh động hơn. 
Trong nhiều tác phẩm, thông qua tư duy huyền thoại hóa, người viết đã tạo ra những 
hình tượng mang tính ẩn dụ. Những hình tượng ấy hiện hữu như các ký hiệu nghệ thuật 
đa nghĩa và mang giá trị tượng trưng cao. Theo đó, người đọc nhận ra tính chất đa 
chiều, đa diện của bản chất cuộc sống. Ở bài viết này, chúng tôi nghiên cứu tư duy 
huyền thoại hóa qua hệ hình tượng cổ mẫu nước và lửa trong một số tác phẩm tiểu 
thuyết Việt Nam đương đại tiêu biểu từ sau 1986. 
2.1. Cổ mẫu nước – nguồn sống, thanh tẩy và tái sinh 
Từ xa xưa, nước đã hiện hữu trong đời sống vật chất và đời sống tinh thần của con 
người, đồng thời gắn liền với lịch sử phát triển của nhiều quốc gia, nhiều dân tộc. Thời 
cổ đại, bốn nền văn minh lớn trên thế giới đều bắt nguồn từ những con sông như văn 
minh Lưỡng Hà (sông Euphrates và sông Tigris), văn minh Ai Cập (sông Nin), văn 
minh Ấn Độ (sông Ấn), văn minh Hoàng Hà (sông Hoàng Hà). Điều đó cho thấy, khởi 
nguyên, nước là nguồn tài nguyên nuôi sống con người, là lựa chọn đầu tiên để con 
người an cư, lạc nghiệp. Nơi nào có nước, nơi đó có sự sống. Bởi, nước là “thứ trời cho, 
nên xét về mặt thể chất, nước được coi là một biểu tượng phổ biến về sự phì nhiêu và 
khả năng sinh sản dồi dào” [1, tr.709]. 
Theo thời gian, nước trở thành nguồn cảm hứng của nghệ thuật, của văn chương và 
dung chứa nhiều ý nghĩa. Trong thần thoại Hy Lạp, nước được hình tượng hóa qua vị 
thần biển cả Poseidon, tay cầm cây đinh ba đầy quyền lực, có thể tạo ra động đất và 
sóng thần. Thần thoại người Việt thì cho rằng, thần biển là một con rồng khổng lồ nằm 
giữa biển khơi, nhịp thở của thần biển tạo lên nhịp lên xuống của thủy triều. Đặc biệt, 
người Việt còn quan niệm, thủy tổ của họ chính là Lạc Long Quân, vốn là vị thần sống 
dưới thủy cung (Con rồng cháu tiên). Cõi nước luôn chứa đựng trong nó sự huyền bí 
nên con người luôn khoác lên nó chiếc áo hư ảo và nhiệm màu. Biển thì có Long 
Vương, sông thì có thần sông, giếng thì có hà bá cai quản. Nước vừa là người bạn hiền 
hòa, sâu nặng nghĩa tình như tấm lòng thái tử thủy tề đối đãi với Thạch Sanh trong 
truyện cổ tích Thạch Sanh nhưng đồng thời cũng gieo rắc bao thiên tai, địch họa như 
việc Thủy Tinh hằng năm dâng nước gây lũ lụt để đánh Sơn Tinh trong thần thoại Sơn 
Tinh, Thủy Tinh. Tự ngàn xưa, nước hiện diện trong đời sống văn chương Việt Nam 
từ những câu chuyện rất đỗi thân quen như thế. Theo nhận định của nhà nghiên cứu 
Nguyễn Thị Thanh Xuân trong công trình Huyền thoại và văn học thì: “Vốn bao la, và 
đa dạng, Đất và Nước mang trong lòng nó những hình thái khác nhau: núi non, hang 
vực, gò, đống, rừng, vườn; biển, sông ngòi, hồ, đầm, suối, mưa, sương và mỗi hình 
thái này đến lượt nó, lại có khả năng trở thành những biểu tượng và cổ mẫu văn chương 
mới. Những cổ mẫu con này vừa dung chứa những nét chung của cổ mẫu mẹ Đất, mẹ 
Nước – đặc biệt là tính cố định, luân chuyển và tính sinh sôi – vừa hình thành những nét 
48 NGUYỄN THỊ ÁI THOA 
riêng” [8, tr.286]. Đó cũng là những đặc điểm của cổ mẫu nước trong tiểu thuyết Việt 
Nam đương đại. 
Trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, nước là một hình tượng xuất hiện xuyên suốt và đầy 
ám ảnh. Đặc biệt, nước ở đây không hoàn toàn mang ý nghĩa mềm mại, nữ tính trong 
thế đối lập với lửa mà nước thể hiện năng lực biểu đạt đa dạng hơn nhiều. Nước tưới 
mát tâm hồn, làm con người trở nên mạnh mẽ, cuồng nhiệt và đầy sức sống. Dòng sông 
Nhuệ, sông Gâm, sông Tô được nhắc đi nhắc lại nhiều lần, tái hiện nhiều lần trong ký 
ức của Từ Lộ, Nhuệ Anh như chứng nhân của kỷ niệm, và hơn hết là hồi tưởng về 
những phút giây thăng hoa trong tình yêu. Bên dòng sông Gâm, họ đã để cho dòng nước 
xoa dịu nỗi hận thù và tận hưởng trọn vẹn niềm hạnh phúc. Nhưng xuyên suốt hơn cả là 
sự hiện hữu của những cơn mưa. Mưa đầy mơ mộng và mơn trớn những đam mê. Mưa 
đổ, mưa rơi một cách hân hoan để bắt đầu cuộc ái ân của Nhuệ Anh và Từ Lộ. Trong 
hạnh phúc, Nhuệ Anh cảm nhận mưa không hề tê buốt mà êm ái và ấm nồng: “Nhuệ 
Anh không hề thấy cái rét buốt của những giọt mưa đã làm da thịt nàng tê cóng thâm 
táiMà ngược lại, những giọt mưa dội xuống thân thể lúc này lại dịu dàng êm ái, mỗi 
giọt mưa chạm xuống như mang theo một hơi thở nồng nàn sưởi ấm cơ thể nàng”. Ở 
khúc “Lãnh tiếu nhân gian”, mưa đem lại sự tẩy sạch và tái sinh. Bài hát cầu mưa của 
Nhuệ Anh vang lên cùng với những tiếng gọi thiết tha: “Mưa ơi! Mưa ” đã được mưa 
lắng nghe và đáp lại. Các trang viết của Võ Thị Hảo từ trang 495 đến trang 500 ngập 
tràn trong những cơn mưa. Mưa tưới mát các dòng sông khô hạn, xua đi những khổ đau 
và cơn khát: “Nước mắt giàn giụa hòa cùng nước mưa. Cỏ sẽ hồi sinh. Lúa cũng sẽ hồi 
sinh”. Và mưa còn thấm nhuần ân huệ, sưởi ấm những trái tim đơn côi. Bài hát ấy đã 
tưới lên thi thể chàng Cá Bơn, người đàn ông suốt đời cầm tù trong phận cá và dành 
trọn cuộc đời để sống bên những dòng sông, tôn thờ mẹ Cá và yêu tha thiết Nhuệ Anh 
“Chàng là một con cá. Chàng cần nước. Chàng nghĩ Nhuệ Anh cũng là một con cá”. 
Mưa lan đến cả hậu cung, làm tắt ngấm những dục vọng đang thiêu đốt trong trái tim 
Thần Tông trước vẻ đẹp Ngạn La “Mưa rơi mờ mịt Dâm ĐàmMưa lanh chanh nhảy 
nhót trên hoàng bào của Thần Tông”. Sức mạnh hồi sinh của nước còn hiện hữu qua 
những giọt sữa – giọt sữa của dã nhân đã cứu sống Từ Lộ khi chàng hành cước đến núi 
Thập Vạn Đại Sơn “Chợt có một vài tia nước chảy tràn trên môi chàng. Từ há miệng 
đón. Một dòng nước mong manh, ấm nồng, nhàn nhạt ngọt, hơi gây gây như sữa mẹ, 
tiếp tục chảy khó nhọc vào miệng chàng”. 
Trong tiểu thuyết Lời nguyền hai trăm năm của Khôi Vũ, nước hiện hữu qua hình 
tượng biển cả. Khi Hai Thìn trở lại làng biển, chính quyền và những con người nơi này 
dường như đều cô lập, quay lưng lại với anh. Cùng với con chim ó lửa, biển cả là người 
bạn gần gũi, thân thiết và biết lắng nghe, thấu hiểu những nỗi niềm. Đứng trước biển, 
anh không còn cảm thấy cô đơn bởi biển là tri kỷ, là người bạn tâm tình, là nơi yên bình 
trong cuộc sống bon chen và đầy toan tính “Vua biển nay lại về với biển. Về và sống 
chết với biển thôi”. Biển hiền hòa, nhân hậu, biết sẻ chia “Vua biển nhảy ùm xuống 
nước... Biển cả ôm lấy anh vui mừng”. Đồng thời, biển cả rộng lớn, bao dung, mang lại 
cho con người nguồn tài nguyên vô tận, hào phóng trước khát vọng của con người “Ta 
cho vua biển mẻ lưới này, cứ kéo thật nặng tay rồi nghỉ, sau đó đến tìm ta một nơi khác 
TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA... 49 
nhé”. Nhưng một khi con người trở nên tham lam, đòi hỏi quá nhiều, biển lạnh lùng 
trừng phạt. Chi tiết này ta thấy giống với câu chuyện Ông lão đánh cá và con cá vàng 
của anh em nhà Grimm. Lần thứ hai gặp lại Hai Thìn, biển không còn vồn vã như trước 
mà trở nên buồn bã “Mẹ biển quở trách ta sao quá hào phóng với anh. Ta nói rằng ta với 
anh là bạn. Nhưng mẹ biển vẫn giận ta”. Và sự trừng phạt của biển cả dành cho con 
người cũng thật tàn khốc, khi con người phải trả giá bằng cả tính mạng của chính mình 
“Con sóng cao hàng chục thước, trắng xóa như một cuộn bông khổng lồ, cuộn tròn, ào 
ạt thịnh nộ”, trong đó có cả vua biển Hai Thìn. 
Nước trong các tiểu thuyết của Nguyễn Bình Phương hiện hình với các dạng thức như 
sông, ao, đầm, mưa, sương Ở đây, ý nghĩa của nước khá đa dạng: nước vừa là nguồn 
sống, vừa là nguồn chết; vừa là nơi tái sinh, vừa là nơi tiêu hủy. Sông Linh Nham rất 
thiêng, thường được miêu tả như ẩn chứa một tâm hồn vẹn tròn, lúc nào cũng ắp đầy 
cảm xúc. Khi thì “rì ầm ai oán”, lúc lại “lầm lì miết về xuôi”, “lầm lì chuyển động”, một 
dòng sông khác thì “đục ngầu như mắt trâu điên”. Sông thiêng gọi ai là người ấy chết. 
Lúc khác, nước lại có những lúc mang sứ mệnh tái sinh, vỗ về. Nước hiện lên trong 
sáng như một sự gột rửa, thanh lọc cuộc đời lắm tai ương này. Dòng sông do vậy trở 
thành vị thần bảo hộ lẽ phải. Trong tiểu thuyết Thoạt kỳ thủy của Nguyễn Bình Phương, 
nước đã thể hiện cao nhất, rõ nhất sứ mệnh, sức mạnh vỗ về, an ủi, tái sinh sự sống cho 
vạn vật, muôn loài. Đây là một hình ảnh “dịu dàng” hiếm hoi của nước: “nước thong thả 
chảy nước ngấm qua lông, chạm vào da khiến con cú tỉnh táo lạ thường. Nước mơn 
man vuốt ve bụng nó”. Có lẽ nếu con cú rơi từ vòm lá sung xuống đất thì nó đã chết, 
nhưng lại là nước với sự mềm mại, thong thả đón nhận nó, khiến nó thấy khoan khoái lạ 
thường. 
Trong Dòng sông mía của Đào Thắng, nước xuất hiện như một hình tượng đa nghĩa. 
Dòng sông Châu vừa mang lại nguồn sống cho con người, là nơi mưu sinh hằng ngày 
của lão Chép, cu Lẹp – những con người khi sinh ra đã mang tên loài cá; vừa là chứng 
nhân cho bao thăng trầm, biến cố của người làng Thanh Khê. Nước thân tình, hào 
phóng, là nơi bắt đầu câu chuyện tình giữa Lẹp và cô Bé, là nơi nô đùa của những đứa 
trẻ nhà ông Quĩ Nhất thuở ấu thơ. Đến khi gia đình ông Quĩ Nhất gặp họa, rồi công 
cuộc cải cách ruộng đất diễn ra, dòng sông trở thành nơi để con người ta nương náu, xoa 
dịu nỗi đau trầm luân của kiếp người. Khi đối diện với bao mất mát và khủng hoảng, 
đỉnh điểm là việc con trai ngày càng lún sâu vào tội ác và đứa cháu nội lại là bào thai kỳ 
dị, bà Mến đã tìm đến nước như tìm đến sự giải thoát và cứu chuộc cho linh hồn của 
những con người lầm lỗi: “Nước sông dâng lên sáng đỏ như rẽ đường ra cho bà đi 
xuống. Một ánh chớp chói lòa, tia sét như đánh thẳng vào bà, lời chấp nhận sự cứu 
chuộc vĩnh cửu của bà”. Với bà cả Thuận, bi kịch của bà chính là đã có con với người 
đàn ông khác sau khi chồng mất. Và trong mắt dân làng, đó là một tội lỗi. Kể từ khi bí 
mật được tiết lộ, với mọi người, bà không còn là người phụ nữ đức hạnh, đảm đang, hết 
mình vì chồng vì con như trước mà trở thành người đàn bà xấu xa, lăng loàn. Chịu 
không nổi trước thành kiến của dư luận, đặc biệt là sau khi bị chính con dâu sỉ nhục, bà 
cả Thuần phải tìm đến cái chết. Nơi bến Diễm, người đàn bà đau khổ đã dùng dòng 
nước để rửa sạch mọi tội lỗi, đau khổ và oán hờn. Bà gặp lại linh hồn bà Mến và “Bà 
50 NGUYỄN THỊ ÁI THOA 
Mến vẫy tay. Hai bàn tay hình búp sen. Mặt sông sáng lung linh, nước rẽ ra cho bà 
Thuần bước xuống”. 
Nhìn chung, hình tượng cổ mẫu nước ở tiểu thuyết Việt Nam hiện đại đã có sự kế thừa 
những ý nghĩa từ trong văn học dân gian, trong văn hóa, trong tâm thức của nhân loại. 
Đồng thời, với thế mạnh của thể loại, đặc biệt là khả năng bao quát và phản ánh hiện 
thực rộng lớn, tiểu thuyết trao cho cổ mẫu này cả một khoảng trời để vẫy vùng, để thể 
hiện những giá trị tự thân. Chính vì lẽ đó, cổ mẫu nước trong tiểu thuyết Việt Nam có 
sức sống rất riêng và đầy sáng tạo. 
2.2. Cổ mẫu lửa – hủy diệt, mặc cảm và đam mê 
Trong cuốn Phê bình văn học thế kỷ XX, nhà nghiên cứu Thụy Khuê đã giới thiệu 
những luận điểm cơ bản về phân tâm lửa của Gaston Bachelard, nhà phê bình phân tâm 
vật chất người Pháp. Ông coi lửa như một thực thể sống trong vô thức của con người và 
nó được bộc lộ ra ngoài dưới ba hình thức mặc cảm: “Mặc cảm Prométhéee hay mặc 
cảm con muốn vượt cha; mặc cảm Empédocle hay mặc cảm tự thiêu, là mặc cảm mơ 
mộng, muốn nhập mình trong ngọn lửa thiêu hủy, ngọn lửa tiêu biểu của sự sống và cái 
chết; mặc cảm Novalis hay sự tìm về nguồn gốc của lửa: lửa là sản phẩm của tình yêu, 
của sự cọ xát thân thể, của dục tình” [5, tr.442]. 
Ở các nước trên thế giới, cổ mẫu lửa dung chứa nhiều ý nghĩa khác nhau. Rất nhiều quốc 
gia xem lửa gắn liền với cái thiêng, mang chức năng là tẩy uế và tái sinh. Theo Từ điển 
biểu tượng văn hóa thế giới: “Việc bảo vệ lửa thiêng trải rộng từ La Mã đến Angkor. 
Biểu tượng lửa tẩy uế và tái sinh phân tích từ phương Tây đến Nhật Bản” [1, tr.545]. 
Theo truyền thuyết, chúa Kito và các thánh tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lửa lò của 
xưởng rèn. Mặt khác, những người theo Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân 
phận mà con người phải chịu đựng. Các vì vua ở Trung Quốc khi lên ngôi phải dùng lửa 
để tẩy uế thể hiện qua việc tắm và hun khói trong các nghi lễ. Đạo Bà la môn thì cho rằng, 
lửa còn có chức năng thử tội. Nếu ai đó có tội, lửa sẽ thiêu cháy họ và ngược lại. Điều này 
chúng ta bắt gặp trong sử thi Ramabrahata của Ấn Độ, sau khi giải cứu vợ khỏi nanh 
vuốt của quỷ Havana, Rama trở nên ghen tuông và Sita buộc phải lên giàn thiêu để chứng 
tỏ sự trinh bạch của mình. Sự tẩy uế của lửa và nước, về cơ bản là giống nhau khi cùng 
hướng đến sự gột rửa và trong sạch hóa đối tượng, nhưng khác nhau về phương thức: “lửa 
tượng trưng cho sự tẩy uế bằng sự thấu hiểu, bằng ánh sáng và chân lý, đạt đến trạng thái 
thông tuệ siêu việt nhất; còn nước tượng trưng cho sự thanh tẩy dục vọng, hướng tới dạng 
thức cao thượng nhất, đó là lòng nhân từ” [1, tr.548]. 
Trong tâm thức của người Việt, cùng với nước thì lửa cũng hiện hữu như một phần không 
thể thiếu của đời sống vật chất và tinh thần. Việc thờ ông táo cho thấy, người xưa rất coi 
trọng bếp núc, giữ ấm cho bếp chính là giữ hạnh phúc và sự may mắn cho gia đình. 
Kế thừa những giá trị biểu đạt từ truyền thống, cổ mẫu lửa xuất hiện trong các tác phẩm 
tiểu thuyết Việt Nam đương đại với tư cách là hình tượng nghệ thuật đa nghĩa và có đời 
sống tự thân vô cùng sinh động. Trước hết, lửa hiện diện trong các tác phẩm với ý nghĩa 
biểu đạt cho sự hủy diệt. Trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, mở đầu tác phẩm là cảnh 
TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA... 51 
giàn thiêu như chảo lửa đỏ rực trên đảo Âm Hồn và 49 cung nữ trong những chiếc áo 
choàng màu đỏ tía. Qua các trang viết của Võ Thị Hảo, lửa hung bạo đến ghê rợn: “Lửa 
lập tức bùng lên. Những lưỡi đỏ khổng lồ thèm khát rần rật liếm giàn thiêu. Sạn đạo 
cũng bùng cháy như một con giao long khổng lồ quằn quại há cái miệng ngùn ngụt lửa 
đỏ mà nuốt trọn đảo Âm Hồn”. Kết thúc tác phẩm là khung cảnh giàn thiêu của mười 
năm sau đó, cũng tại đảo Âm Hồn, 29 cung nữ bị thiêu chết để linh hồn đi theo hầu hạ 
vua Lý Thần Tông. Ngọn lửa vẫn hung tàn và man dại, hủy diệt không thương tiếc 
những người cung nữ yếu đuối và xấu số kia: “Lửa lập tức bùng lên, nuốt chửng toàn 
thân người cung nữ đang quờ quạng tuyệt vọng trong lớp khói đen đặc”. Trong tiểu 
thuyết của Nguyễn Bình Phương, lửa sưởi ấm con người nhưng cũng có sức hủy diệt 
ghê gớm. Khi lửa quá nóng, nó đã đốt cháy nhà Hiền, giết chết bố Hiền trong Thoạt kỳ 
thủy. Nhưng khi lửa tàn thì nó ám ảnh con người ta tựa như một lời nguyền chết chóc 
của nhân vật Đông Điên trong Vào cõi “Lửa sắp tắt, nhà lão sẽ tối và lạnh đầu tiên. Nhớ 
bu bảo đấy, nhớ đấy!”. Trong Đức Phật, nàng Savitri và Tôi của Hồ Anh Thái, lửa là 
nỗi sợ kinh hoàng khi thiêu sống các bà vợ của vị tiểu vương, dẫu họ yêu chồng, muốn 
hầu hạ chồng nhưng họ không cam tâm hiến mình cho ngọn lửa hung bạo – “Lửa đã 
bùng lên riêng ở chỗ vương sàng. Đám đông ồ lên nức nở than khóc”. Savitri châm lửa 
đốt cháy nhà đạo sư để vạch trần, trừng phạt những tội ác mà ông đã gây ra “Lửa bắt 
đầu bén dần dà trên bàn thờ. Chỉ trong vài phút nữa nó sẽ lan khắp bàn thờ, thiêu cháy 
cả điện thờ”. Trong Tàn đen đốm đỏ của Phạm Ngọc Tiến, lửa thể hiện sức mạnh hủy 
diệt tàn khốc của chiến tranh. Lửa mang lại cho Vịnh sự hoảng loạn, đau đớn đến tận 
cùng. Người lính đào ngũ trở nên bất lực trước sự thiêu đốt tàn bạo của ngọn lửa chiến 
tranh, thiêu đốt mọi hy vọng được trở về, được thứ tha “Lửa từ đám mây phun ra tưới 
đẫm mặt đất. Gã cuống cuồng. Lửa ngụt bốn phía không còn đường nào chạy. Gã tấp 
mặt xuống đất. Đến cả đất cũng có lửa phun. Lửa chạy vào trong thân cây, cháy ngụt. 
Nóng quá. Rát quá. Chết mất, chắc chắn chết. Hang dơi ở đâu lại ngòm ngòm hiện ra. 
Cả nó nữa, cũng đầy một miệng lửa”. 
Lửa vốn gắn với nhiệt huyết và đam mê nên lửa còn biểu hiện cho khát vọng tình yêu và 
cả những dục vọng tầm thường. Trong Giàn thiêu, đó là ngọn lửa tình được nhen nhóm 
giữa Nhuệ Anh và Từ Lộ. Kể từ khi gặp gỡ và đính ước, Từ Lộ ngày đêm thương nhớ 
Nhuệ Anh đến quên ăn quên ngủ. Hình ảnh ngọn lửa, chiếc đèn lồng lấp lánh gương 
mặt mỹ nhân chiếm hết tâm trí Từ. Cho đến khi trở thành thiền sư, trong tâm hồn Từ 
Đạo Hạnh luôn thường trực những khát khao về cái đêm ân ái cũng Nhuệ Anh bên sông 
Gâm. Ngọn lửa ấy đã thiêu đốt trái tim vị thiền sư còn lưu luyến hạnh phúc trần tục: 
“Nhuệ Anh! Ta đã hại một đời nàng. Nhưng trong dằng dặc những năm lưu lạc của hai 
ta, có bao giờ nàng nhớ, cái ngọn lửa ái ân nàng đã nhen lên trong ta trên bến đá sông 
Gâm ? Ngọn lửa đó thiêu đốt ta”. Và ở hậu kiếp, một sư bà động Trầm già nua, khổ 
hạnh vẫn khiến nhà vua phải lưu luyến, bâng khuâng bởi những ân tình ngày cũ: “Ngọn 
lửa từ kiếp trước vẫn cháy trong tim chàng khiến chàng không thể rời xa ta”. Trong 
Ngồi của Nguyễn Bình Phương, chứng kiến đôi nam nữ làm tình dưới bóng cây bằng 
lăng giữa đêm tối, những khát khao về nhục cảm lại đốt cháy tâm hồn Khẩn, hành hạ 
Khẩn. Ngọn lửa ấy thiêu rụi trái tim Khẩn với nỗi nhớ về Kim và để lại một khoảng 
52 NGUYỄN THỊ ÁI THOA 
trống vô hình như tiếng vó ngựa vọng ra từ thân thể Khẩn “Ngựa đang nóng rực lên, 
bốn vó khét lẹt, đôi mắt tan chảy sóng sánh không phân biệt được tròng và đồng tử. 
Miệng ngựa há to, những luồng lửa cuồn cuộn phun ra giống như những đám mây xô 
dạt trong bão tố”. Cũng trong tác phẩm Ngồi, cuộc giao hoan giữa Nghĩa và Thúy trên 
chiếc xe đạp nước được bắt đầu bằng sự mơn trớn, ve vuốt khi bàn tay Nghĩa lần dò 
khám phá thân thể Thúy. Sự khát khao của người đàn bà cô đơn, hẫng hụt vì lâu ngày 
sống xa chồng khiến Thúy bất chấp tiết hạnh, tự cho phép mình buông lơi, đắm mình 
trong hoan lạc cùng gã đàn ông mới quen. Năm ngón tay của Nghĩa hóa thành năm 
ngọn lửa, đốt nóng thân thể và tâm hồn người đàn bà khát tình- “Năm ngọn lửa bắt đầu 
thiêu đốt ngực Thúy nhưng không làm Thúy đau. Lửa từ từ chuyển xuống phía dưới. 
Nhưng lửa đã bị chặn lại bằng một động tác khép chân đầy ý tứ”. 
Bên cạnh đó, lửa còn chứa đựng trong nó lòng hận thù và thói hờn ghen, đố kỵ. Trong 
Giàn thiêu, ngoài ngọn lửa tình thì trong trái tim của Từ Lộ còn hiện hữu một ngọn lửa 
khác, đó là ngọn lửa hận thù, ngọn lửa ấy đã dập tắt ngọn lửa tình vừa cháy đượm với 
Nhuệ Anh. Vì mối thù với Đại Điên, Từ Lộ đã từ bỏ hoài bão, tình yêu tuổi trẻ: “Nhưng 
trong lòng Từ Lộ đã lại cháy rần rật một ngọn lửa khác. Cái ngọn lửa đã giằng chàng ra 
khỏi kinh thành và hun đốt chàng chạy tới sông Gâm”. Dù yêu Từ tha thiết và sẵn sàng bỏ 
tất cả để theo Từ, nhưng Nhuệ Anh đã cay đắng nhận ra rằng, trong mắt của Từ không 
còn hình bóng của người yêu mà thay vào đó là ánh nhìn bị thiêu đốt bởi lòng thù hận: 
“Khi trong mắt chàng đỏ đọc ngọn lửa báo thù thuở chàng không còn là Từ Lộ, trong mắt 
chàng không có ta”. Bản thân Từ cũng nhận ra, ngọn lửa ấy có sức hủy diệt khủng khiếp 
thế nào, khi cả tiền kiếp và hậu kiếp Từ phải đi tìm những gì mình đánh mất trong vô 
vọng, trong đau khổ: “Ta đã trở thành một kẻ khác, suốt đời kiếm củi để nuôi những ngọn 
lửa không phải để cho cõi trần này. Ngọn lửa đó đã thiêu đốt cả đời ta”. 
So với cổ mẫu nước thì cổ mẫu lửa xuất hiện trong các tác phẩm tiểu thuyết Việt Nam 
đương đại có phần khiêm tốn hơn, nhưng không vì vậy mà những giá trị biểu đạt ở lửa 
kém đi sự đa dạng. Việc song hành tồn tại cả hai hình tượng nước và lửa trong các tác 
phẩm văn học đương đại cho thấy sự tái sinh của các cổ mẫu từ huyền thoại, ấn tượng 
và sáng tạo hơn. 
3. KẾT LUẬN 
Có thể thấy, nước và lửa là hai hình tượng đầy ám ảnh trong tiểu thuyết Việt Nam 
đương đại, đảm nhận nhiều ý nghĩa và vai trò nhất định. Nó vừa hiện hữu trong đời 
sống thực, vừa chi phối đời sống tâm linh; vừa hữu hình, vừa vô hình; vừa biểu đạt 
nhiều ý nghĩa vừa gắn liền với các trạng thái vô thức của nhân vật. Vì thế, bên cạnh 
những ý nghĩa kế thừa từ huyền thoại trong quá khứ, cổ mẫu lửa và nước còn thể hiện 
những giá trị tự thân và lan tỏa sức sống mãnh liệt của riêng mình. Thông qua tư duy 
huyền thoại hóa, các cổ mẫu nước và lửa đã gợi lên cả trường liên tưởng, tham gia vào 
quá trình thúc đẩy sự phát triển của tuyến truyện và tạo nên tính hình tượng mới mẻ, 
đầy cuốn hút cho các tác phẩm. Sử dụng cổ mẫu, các tác phẩm đi vào khai thác đời sống 
tâm linh và nỗ lực khám phá, phát hiện các năng lực bí ẩn cũng như những biểu hiện 
của nó. Việc vận dụng các cổ mẫu với những ý nghĩa phổ quát vốn tồn tại trong tiềm 
TƯ DUY HUYỀN THOẠI HÓA CỔ MẪU NƯỚC VÀ LỬA... 53 
thức của nhân loại, trong tâm thức cộng đồng là một trong những lối đi riêng của các 
nhà văn trên con đường sáng tạo. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Chevalier, J. (2002). Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Phạm Vĩnh Cư dịch, NXB Đà 
Nẵng, Đà Nẵng. 
[2] Jung, C.G. (1981). The Archetypes and The Collective Unconscious (Collected Works 
of C.G. Jung Vol.9 Part 1), R.F.C. Hull translate, Bollingen Series XX, Princeton. 
[3] Nguyễn Quang Huy (2014). Đọc “Giàn thiêu” của Võ Thị Hảo – người chơi với lửa, 
Hao-choi-voi-nguoi-choi-lua.html, truy cập ngày 17/8/2018. 
[4] Lưu Hồng Khanh (2006). Tâm lý học chuyên sâu ý thức và những tầng sâu vô thức, 
NXB Trẻ, thành phố Hồ Chí Minh. 
[5] Thụy Khuê (2017). Phê bình văn học thế kỷ XX, NXB Hội Nhà văn, Hà Nội. 
[6] Lotman, IU.M. (2015). Kí hiệu học văn hóa, (người dịch: Lã Nguyên – Đỗ Hải Phong– 
Trần Đình Sử), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[7] Nhiều tác giả (2004). Từ điển văn học (bộ mới), NXB Thế giới, thành phố Hồ Chí 
Minh. 
[8] Nhiều tác giả (2007). Huyền thoại và văn học, NXB Đại học Quốc gia Thành phố Hồ 
Chí Minh. 
[9] Đỗ Lai Thúy (chủ biên) (2000). Phân tâm học và văn hóa nghệ thuật, NXB Văn hóa 
Thông tin, Hà Nội. 
Title: THE ESSENCE OF MYSTIFICATION OF WATER AND FIRE ARCHETYPE IN 
SOME VIETNAMESE NOVELS SINCE 1986 
Abstract: For prose, novels are considered the dominant genre, which take advantage of 
reflecting the fundamental issues of social life and human destiny. In the flow of contemporary 
Vietnamese prose, the novels after 1986, undertook an important mission of renewing novel 
thought. From C.Jung’s psychoanalytic theory, archetypes have been used as an effective 
means of art to help readers access more vivid and fresh realities. Especial, from the essence of 
mystification, the archetypesare presented as the characters, the symbolic arts of multiple 
meanings thoughout the works. In this article, we research the essence of mystification of water 
and fire archetype in some Vietnamese novels since 1986. 
Keywords: The essence of mystification, Vietnamese novels, archetype. 

File đính kèm:

  • pdftu_duy_huyen_thoai_hoa_co_mau_nuoc_va_lua_trong_mot_so_tieu.pdf