Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

Tự chủ đại học là vấn đề được các nhà làm chính

sách, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam và các quốc

gia trên thế giới đặc biệt quan tâm - vì chỉ thông qua cơ

chế tự chủ thực chất thì mới thúc đẩy hệ thống giáo dục

đại học phát triển năng động, phù hợp với quá trình hội

nhập toàn cầu hiện nay. “Tự chủ đại học” được hiểu là

việc trường đại học có được một mức độ độc lập so với

các bên quản lí nhà nước liên quan về quản trị cơ cấu tổ

chức, phân bổ nguồn lực tài chính và tạo ra nguồn thu,

tuyển dụng nhân sự, trang bị điều kiện học tập và triển

khai hoạt động giảng dạy, nghiên cứu [1]. Cụ thể, tự chủ

đại học tập trung vào 04 khía cạnh chính gồm: 1) Học

thuật; 2) Nhân sự; 3) Tài chính; 4) Quản trị tổ chức [2];

trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố đóng vai trò quan

trọng trong việc thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình phát

triển của hệ thống giáo dục đại học.

Tiến trình tự chủ tài chính nói riêng và tự chủ đại học

nói chung là con đường để các quốc gia chuyển đổi cơ

chế quản lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà

nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát [1], [3].

Tiến trình này chủ yếu diễn ra ở các quốc gia châu Á có

hệ thống giáo dục đại học vận hành theo mô hình nhà

nước điều hành. Những quốc gia có chuyển đổi tự chủ

mạnh từ hơn hai thập niên ở châu Á bao gồm Trung

Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Malaysia. Việt Nam và các

quốc gia còn lại ở châu Á đang có nhiều nỗ lực chuyển

đổi nâng cao tính tự chủ hệ thống đại học trong thời gian

gần đây và có những bước đi mang tính thí điểm.

Dựa trên những lợi ích của tự chủ tài chính đại học

nêu trên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nhà làm chính

sách và hệ thống đại học của Việt Nam nắm bắt được xu

thế tất yếu của thế giới, từ đó ban hành các chính sách

phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, triển khai

cơ chế tự chủ tài chính một cách hiệu quả. Để giải quyết

vấn đề này, bài viết đưa ra 03 mục tiêu chính cần giải

quyết là: - Nghiên cứu kinh nghiệm về tự chủ tài chính

đại học ở một số quốc gia trên thế giới; - Nhận định thực

trạng triển khai tự chủ tài chính giáo dục đại học trong

thời gian qua tại Việt Nam; - Gợi ý chính sách về tự chủ

tài chính đại học cho Việt Nam.

pdf 6 trang kimcuc 5100
Bạn đang xem tài liệu "Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam

Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 
12 
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ 
VÀ NHỮNG GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM 
Nguyễn Trọng Hoài - Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh 
Ngày nhận bài: 18/08/2018; ngày sửa chữa: 20/08/2018; ngày duyệt đăng: 31/08/2018. 
Abstract: University financial autonomous is a topic that has received much attention in Vietnam, 
especially from policymakers and university systems. However, university financial autonomous in 
Vietnam is still in the pilot phase and implementation is still limited. Therefore, the finalization of 
financial autonomous in universities from countries around the world (including developed countries 
in Europe, Australia and Asia) to find good practices, In line with the Vietnamese context, it will be 
important for planners to adopt policies that are geared towards the direction and expansion of 
financial autonomous to facilitate the sustainable development of the Vietnamese university system. 
Keywords: University financial autonomous, international practice, policy. 
1. Mở đầu 
Tự chủ đại học là vấn đề được các nhà làm chính 
sách, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam và các quốc 
gia trên thế giới đặc biệt quan tâm - vì chỉ thông qua cơ 
chế tự chủ thực chất thì mới thúc đẩy hệ thống giáo dục 
đại học phát triển năng động, phù hợp với quá trình hội 
nhập toàn cầu hiện nay. “Tự chủ đại học” được hiểu là 
việc trường đại học có được một mức độ độc lập so với 
các bên quản lí nhà nước liên quan về quản trị cơ cấu tổ 
chức, phân bổ nguồn lực tài chính và tạo ra nguồn thu, 
tuyển dụng nhân sự, trang bị điều kiện học tập và triển 
khai hoạt động giảng dạy, nghiên cứu [1]. Cụ thể, tự chủ 
đại học tập trung vào 04 khía cạnh chính gồm: 1) Học 
thuật; 2) Nhân sự; 3) Tài chính; 4) Quản trị tổ chức [2]; 
trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố đóng vai trò quan 
trọng trong việc thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình phát 
triển của hệ thống giáo dục đại học. 
Tiến trình tự chủ tài chính nói riêng và tự chủ đại học 
nói chung là con đường để các quốc gia chuyển đổi cơ 
chế quản lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà 
nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát [1], [3]. 
Tiến trình này chủ yếu diễn ra ở các quốc gia châu Á có 
hệ thống giáo dục đại học vận hành theo mô hình nhà 
nước điều hành. Những quốc gia có chuyển đổi tự chủ 
mạnh từ hơn hai thập niên ở châu Á bao gồm Trung 
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Malaysia. Việt Nam và các 
quốc gia còn lại ở châu Á đang có nhiều nỗ lực chuyển 
đổi nâng cao tính tự chủ hệ thống đại học trong thời gian 
gần đây và có những bước đi mang tính thí điểm. 
Dựa trên những lợi ích của tự chủ tài chính đại học 
nêu trên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nhà làm chính 
sách và hệ thống đại học của Việt Nam nắm bắt được xu 
thế tất yếu của thế giới, từ đó ban hành các chính sách 
phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, triển khai 
cơ chế tự chủ tài chính một cách hiệu quả. Để giải quyết 
vấn đề này, bài viết đưa ra 03 mục tiêu chính cần giải 
quyết là: - Nghiên cứu kinh nghiệm về tự chủ tài chính 
đại học ở một số quốc gia trên thế giới; - Nhận định thực 
trạng triển khai tự chủ tài chính giáo dục đại học trong 
thời gian qua tại Việt Nam; - Gợi ý chính sách về tự chủ 
tài chính đại học cho Việt Nam. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tài chính đại học 
Tự chủ tài chính của các trường đại học tại các quốc gia 
trên thế giới là sự kết hợp hành lang pháp lí do chính phủ 
ban hành, cộng với nỗ lực của các trường đại học. Hành lang 
pháp lí do chính phủ ban hành thường có hai cách tiếp cận 
chính sách gồm: - Chính phủ đảm bảo các tài trợ công chiến 
lược nhưng vẫn cắt giảm nguồn ngân sách tài trợ nhằm tạo 
động lực cho trường đại học nỗ lực tìm kiếm nguồn thu và 
sử dụng hiệu quả nguồn thu; - Nới lỏng các chính sách tạo 
nguồn thu và đa dạng hóa nguồn thu để các trường đại học 
có khả năng đầu tư và phát triển bền vững [4]. 
Từ hai cách tiếp cận chính sách này, kinh nghiệm tự 
chủ tài chính đại học ở các quốc gia trên thế giới tập trung 
vào 3 khía cạnh sau [4]: - Phân bổ nguồn ngân sách công 
cho hệ thống đại học; - Quy định về khả năng vay mượn 
từ thị trường tài chính của trường đại học; - Khung pháp 
lí thúc đẩy nỗ lực tự thân đa dạng hóa nguồn thu của 
trường đại học. 
2.1.1. Phân bổ nguồn ngân sách công cho hệ thống đại học 
- Các quốc gia phát triển ở châu Âu và châu Úc. Ở 
châu Âu, ngoại trừ Đảo Síp (Cyprus), Hi Lạp và Thổ Nhĩ 
Kì, các quốc gia còn lại trong Liên minh châu Âu (EU) 
đều nhận được nguồn ngân sách cơ bản từ chính phủ dưới 
hình thức gói tài trợ. Gói tài trợ được hiểu là nguồn tài trợ 
về tài chính phục vụ cho một số hoạt động của trường đại 
học như: giảng dạy, quản trị và nghiên cứu khoa học. 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 
13 
Thông thường, chính phủ cung cấp các gói tài trợ có thời 
hạn một năm, một số trường hợp ngoại lệ có thời hạn lâu 
hơn như ở Áo (03 năm) và Luxembourg (04 năm). Bên 
cạnh đó, nguồn ngân sách tài trợ này còn được điều chỉnh 
tùy thuộc vào việc trường đại học có đạt hay không các chỉ 
tiêu hoạt động hàng năm, chẳng hạn như nguồn tài trợ của 
Anh và Estonia phụ thuộc vào việc trường đại học có đạt 
hay không chỉ tiêu tuyển sinh hoặc tốt nghiệp hàng năm. 
Trong lĩnh vực nghiên cứu, chính phủ của các quốc 
gia phát triển cũng có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách 
nhà nước theo các tiêu chuẩn khác nhau. Ở Úc, căn cứ 
theo Khung chất lượng nghiên cứu khoa học được ban 
hành năm 2004, Chính phủ sẽ đánh giá thành tích nghiên 
cứu khoa học của trường đại học theo hai nhóm chỉ tiêu 
là: 1) Chất lượng của công trình nghiên cứu khoa học; 
2) Ảnh hưởng của công trình nghiên cứu khoa học [5]. 
Dựa trên kết quả đánh giá này, chính phủ sẽ điều chỉnh 
nguồn ngân sách tài trợ nghiên cứu khoa học cho từng 
trường đại học theo từng năm. Ở Anh, từ năm 1989, 
Chính phủ ban hành quy chế đánh giá nghiên cứu khoa 
học đối với trường đại học để làm cơ sở cho việc phân bổ 
nguồn ngân sách nhà nước [6]. Theo quy chế này, chính 
phủ thành lập một hội đồng bình duyệt đánh giá kết quả 
nghiên cứu khoa học của các trường đại học trong giai 
đoạn 1989-2000, áp dụng thang điểm 7 từ năm 2001; từ 
năm 2008 là phân nhóm kết quả nghiên cứu khoa học 
theo 05 mức độ tiêu chuẩn gồm: 1) Hàng đầu thế giới, 
tương đương 4 sao; 2) Quốc tế xuất sắc, tương đương 3 
sao; 3) Quốc tế, tương đương 2 sao; 4) Quốc gia, tương 
đương 1 sao; 5) Không xếp loại, tương đương 0 sao. 
Thêm vào đó, các tiêu chí này cũng được áp dụng vào 03 
khía cạnh khác của thành tích nghiên cứu gồm: 1) Đầu ra 
của nghiên cứu khoa học; 2) Ảnh hưởng của nghiên cứu 
khoa học; 3) Môi trường nghiên cứu khoa học [6]. Tuy 
hoạt động đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học tiêu hao 
nhiều nguồn lực của chính phủ về con người và tài chính, 
nhưng mục tiêu chung vẫn là hướng việc phân bổ ngân 
sách nhà nước một cách hợp lí cho hoạt động nghiên cứu 
khoa học tại trường đại học. 
- Các quốc gia châu Á. Nhìn chung, phương pháp tiếp 
cận đối với tự chủ tài chính đại học tại các quốc gia châu Á 
có nhiều nét tương đồng với các quốc gia phát triển ở châu 
Âu và châu Úc. Đối với các quốc gia châu Á như: Trung 
Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, động lực để chính phủ triển 
khai tự chủ tài chính là: 1) Thúc đẩy các trường đại học đa 
dạng hóa nguồn thu từ tư nhân để hỗ trợ cho hoạt động 
chung của nhà trường, bên cạnh các gói tài trợ công có chủ 
đích; 2) Giảm dần các tài trợ thường xuyên và nâng cao khả 
năng quản lí tài chính của trường đại học hiệu quả hơn [7]. 
Để đẩy mạnh tự chủ tài chính, các nhà làm chính sách của 
các quốc gia trên đã ban hành chính sách với các nội dung 
vừa cắt giảm ngân sách nhà nước chi cho trường đại học, 
vừa cho phép trường đại học chủ động tìm kiếm nguồn thu 
mới, điều chỉnh chi tiêu và quản lí tài chính hiệu quả. 
Một trong những chính sách được các quốc gia châu Á 
áp dụng rộng rãi để khuyến khích/thúc đẩy tự chủ tài chính 
là thắt chặt ngân sách chính phủ tài trợ cho các trường đại 
học. Bên cạnh việc cắt giảm ngân sách, Chính phủ Trung 
Quốc và Nhật Bản sử dụng các gói tài trợ hướng vào các 
mục tiêu cụ thể thay vì cấp phát ngân sách cho các trường 
đại học theo cơ chế bao cấp hoàn toàn như trước đây. 
Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1993-2001 đã triển 
khai các nội dung về tự chủ tài chính đại học theo chương 
trình cải cách và phát triển giáo dục. Hệ quả là, nguồn chi 
hàng năm ngân sách Chính phủ Trung Quốc cho giáo dục 
đại học trong giai đoạn trên giảm từ 83% xuống còn 53% 
[3]. Ở Indonesia, năm 2000, có 04 trường đại học gồm: 
Universitas Indonesia Jakarta (UI), Institute of Agriculture 
Bogor (IPB), Institute of Technology Bandung (ITB) và 
Universitas Gadjah Mada (UGM) được Chính phủ chọn 
để thí điểm mô hình tự chủ học thuật và tài chính. Theo 
đó, nguồn tài trợ của chính phủ chỉ phân bổ cho một số 
lĩnh vực đào tạo theo hình thức ngân sách định kì chứ 
không bao cấp hoàn toàn như thời gian trước đó. Lúc này, 
chính phủ đóng vai trò là một cơ quan cấp vốn, phân bổ 
từng gói ngân sách tài trợ dựa vào các yếu tố đầu ra như số 
lượng sinh viên tốt nghiệp hoặc kết quả các nghiên cứu 
công bố quốc tế [7]. Ở Nhật Bản, trong giai đoạn 2004-
2009, tỉ lệ nguồn tài trợ của Chính phủ trên tổng nguồn thu 
của các trường đại học giảm từ 49,6% xuống còn 38,6%, 
nguồn thu từ các khoản phí đã chiếm 60% nguồn thu của 
các trường đại học tư nhân; trong khi nguồn tài trợ của 
Chính phủ chỉ còn 12% [7]. 
2.1.2. Chính sách tăng khả năng tiếp cận thị trường tài 
chính và kinh doanh tài sản 
Nguồn thu của các trường đại học ở các quốc gia phát 
triển còn có thể đến từ các ngành kinh tế khác như Thị 
trường tài chính và Bất động sản. Bảng 1 và 2 cho thấy 
sự phân hóa về các chính sách của chính phủ ở Liên minh 
châu Âu đối với khả năng tìm kiếm nguồn thu mới từ thị 
trường tài chính và thị trường bất động sản của các 
trường đại học. Với thị trường tài chính, hầu hết các quốc 
gia cho phép trường đại học vay mượn từ các ngân hàng 
hoặc tổ chức tài chính. Tuy nhiên, chính phủ vẫn có 
những công cụ để kiểm soát hoạt động vay mượn như chỉ 
định ngân hàng cho vay mượn, sử dụng các cơ quan có 
thẩm quyền bên ngoài để đánh giá trường đại học, giới 
hạn định mức vay mượn hoặc một số điều kiện kèm theo 
khác. Về khía cạnh bất động sản, ngoại trừ Brandenburg 
(Đức), Hesse (Đức), Hungary, Litva (Lithuania), North 
Rhine-Westphalia (Đức) và Thụy Điển, 22 quốc gia còn 
lại của Liên minh châu Âu đều cho phép trường đại học 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 
14 
tạo nguồn vốn từ việc sở hữu các bất động sản như đất 
đai và cơ sở vật chất, với các chính sách khá linh hoạt từ 
chính phủ nhằm kiểm soát việc các trường đại học 
chuyển nhượng các bất động sản trên. 
2.1.3. Các chính sách đa dạng hóa nguồn thu cho các 
trường đại học 
Nguồn tài chính của trường đại học đến từ 03 nguồn 
gồm: 1) Nguồn hỗ trợ của chính phủ; 2) Nguồn tài trợ 
của các quỹ nghiên cứu của chính phủ; 3) Các nguồn 
khác từ chính phủ, tư nhân, quốc tế và nguồn thu do 
trường đại học tạo ra [8]. Những quy định về cắt giảm và 
thắt chặt quản lí tài chính của chính phủ vừa là động lực, 
vừa là áp lực để các trường đại học tìm kiếm nguồn thu 
mới đa dạng và giảm rủi ro do sự biến động nguồn thu 
gây ra. Việc trường đại học phụ thuộc quá nhiều vào một 
nguồn tài chính sẽ gây cản trở cho quá trình xây dựng và 
phát triển, nói cách khác là hạn chế những nỗ lực tự thân 
theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo sử dụng 
nguồn lực trong và ngoài nhà trường một cách năng 
động. Đa dạng hóa nguồn thu tạo động lực để trường đại 
học chủ động phát triển các chương trình đào tạo chất 
lượng gắn với thị trường, từ đó nâng cao tiềm năng thu 
học phí với sự chấp nhận của người học, thúc đẩy vay 
mượn tiền từ các tổ chức tài chính đầu tư cho cơ sở vật 
chất và cung cấp các dịch vụ phù hợp với chuyên môn 
học thuật của trường đại học, đặc biệt là phát triển các dự 
án đổi mới sáng tạo, gắn liền với các ngành kinh tế qua 
nghiên cứu và chuyển giao cho các doanh nghiệp. 
- Các quốc gia phát triển ở châu Âu. Các chính sách 
đa dạng hóa nguồn thu nổi bật của chính phủ các quốc 
gia phát triển ở châu Âu áp dụng cho hệ thống đại học 
bao gồm [9]: 
+ Chính sách tạo điều kiện cho các trường đại học phát 
triển theo bản sắc doanh nghiệp: Chính phủ tạo ra một 
khung chính sách để các trường đại học xác định mục tiêu 
hướng về cung cấp dịch vụ cho thị trường gắn với hoạt động 
cụ thể, bên cạnh các mục tiêu học thuật. Nếu không có 
khung chính sách khuyến khích trường đại học hướng về thị 
trường và hoạt động theo bản sắc doanh nghiệp, hệ thống 
này sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai các hoạt động khai 
thác thị trường theo thế mạnh học thuật, không đảm bảo chia 
sẻ lợi nhuận trong nội bộ vì nguồn thu không được đa dạng 
hóa từ việc đa dạng các mục tiêu và hoạt động gắn với thị 
trường. Vì vậy, các chính sách của nhà nước hướng đến việc 
khuyến khích trường đại học phát triển các hoạt động bên 
ngoài khuôn khổ được quy định của trường đại học. 
+ Nới lỏng các quy định về hoạt động học thuật đối với 
trường đại học: Nới lỏng các quy định về hoạt động học 
Bảng 1. Khả năng vay mượn tiền từ thị trường tài chính của các trường đại học 
ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu [4] 
STT Chính sách Quốc gia triển khai 
1 
Trường đại học có thể vay tiền mà không có điều kiện 
hạn chế nào 
Áo, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Hà 
Lan 
2 
Trường đại học có thể mượn tiền với sự phê duyệt của 
cơ quan có thẩm quyền (external authority) 
Cộng hòa Síp, Tây Ban Nha, Pháp, Latvia, Litva, 
Luxembourg 
3 
Trường đại học có thể vay tiền từ các ngân hàng được 
chính phủ chỉ định 
Thụy Điển 
4 Trường đại học có thể đi vay theo một hạn mức cho phép Ireland, Ý, North Rhine-Westphalia (Đức), Slovakia 
5 Trường đại học không được phép đi vay 
Thụy Sĩ, Hi Lạp, Hesse (Đức), Hungary, Na-uy, Bồ 
Đào Nha, Thổ Nhĩ Kì 
6 
Trường đại học có thể đi vay với một số điều kiện 
được quy định 
Brandenburg (Đức), Iceland, Ba Lan, Anh 
Bảng 2. Khả năng bán các bất động sản mà trường đại học sở hữu ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu [4] 
STT Chính sách Quốc gia triển khai 
1 
Trường đại học có thể bán bất động sản mà không có 
điều kiện hạn chế nào 
Áo, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ý, Hà 
Lan, Slovakia, Anh 
2 
Trường đại học có thể bán bất động sản với sự phê 
duyệt của cơ quan có thẩm quyền 
Thụy Sĩ, Cộng hòa Síp, Estonia, Pháp, Hi Lạp, 
Iceland, Luxembourg, Na-uy 
3 
Trường đại học có thể bán bất động sản với một số 
điều kiện được quy định 
Phần Lan, Ireland, Latvia, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Thổ 
Nhĩ Kì 
4 Trường đại học không được phép bán bất động sản 
Brandenburg (Đức), Hesse (Đức), Hungary, Litva 
(Lithuania), North Rhine-Westphalia (Đức), Thụy Điển 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 
15 
thuật là việc nhà nước chỉ quy định khung các phương 
pháp kiểm định mới, cho phép trường đại học linh động 
hơn trong việc thiết kế giáo trình, giới thiệu các chủ đề học 
thuật theo yêu cầu của thị trường. 
+ Chính sách ... c quốc gia châu Á cũng 
nới lỏng các quy định về nguồn thu để tạo điều kiện cho 
trường đại học tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn thu. Tuy 
nhiên, chính phủ các quốc gia châu Á chưa thực sự mở 
rộng chính sách thu học phí cho trường đại học mà vẫn có 
những quy định khá chặt chẽ và thậm chí là áp dụng trần 
học phí. Nguyên nhân chính là chính phủ các quốc gia 
châu Á e ngại các trường đại học vận hành hoạt động theo 
cơ chế thị trường với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, xa rời 
các mục tiêu phát triển hệ thống giáo dục và nâng cao chất 
lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế. Các trường đại học 
Trung Quốc tìm kiếm các nguồn thu từ cựu sinh viên, tài 
trợ của xã hội, học phí và hợp đồng nghiên cứu khoa học 
[7]. Kết quả là trong giai đoạn 2000-2008, tỉ trọng của 
nguồn thu từ các doanh nghiệp, cá nhân trên tổng nguồn 
thu của các trường đại học ở Trung Quốc tăng từ 34,8% 
lên thành 49,2%; phần còn lại của nguồn thu (50,8%) được 
tài trợ bởi chính phủ, trong đó có một phần từ chính quyền 
địa phương [7]. Các trường đại học tại Indonesia được tự 
do tìm kiếm các nguồn thu khác như thu từ học phí, hoạt 
động tư vấn, liên kết với doanh nghiệp. 
Đài Loan đã ban hành Quỹ Sáng lập Phát triển đại học 
(University Development Foundation Fund - UDFF) vào 
năm 1995 và có hiệu lực từ năm 1998. Theo hình thức này, 
các trường đại học quốc gia chỉ được chính phủ cấp vốn 
bằng 80% nguồn thu hiện tại và không cần nộp nguồn thu 
về cho kho bạc. Các trường đại học quốc gia có động lực 
để tìm kiếm đa dạng các nguồn thu, tối ưu hóa các khoản 
chi, từ đó nâng cao tự chủ tài chính. Bên cạnh đó, chính 
phủ cũng khuyến khích các trường đại học quốc gia xây 
dựng đề án phát triển thành các công ty cổ phần công, góp 
phần nâng cao tính tự chủ tài chính của các đơn vị này [2]. 
Với Nhật Bản, vào năm 2004, các trường đại học quốc gia 
được chuyển đổi thành các công ty cổ phần đại học quốc 
gia [7]. Theo đó, trường đại học trở thành một pháp nhân 
độc lập và hoạt động quản lí tài chính của các trường này 
chuyển từ cơ chế kiểm soát chi tiêu thành cơ chế kiểm soát 
thu chi dựa trên việc tích lũy. Cụ thể, học phí là nguồn thu 
của riêng trường đại học, thay vì trước đây phải nộp về cho 
nhà nước. Điều này có nghĩa là trường đại học có quyền 
kiểm soát việc thu chi [9]. Ở Indonesia, dù trường đại học 
có quyền quyết định mức học phí nhưng chính phủ vẫn 
quy định nguồn thu từ học phí không được cao hơn 30% 
tổng chi của trường đại học. Đồng thời, chính phủ cũng 
quy định ít nhất 20% nguồn chi của trường đại học phải 
dành cho sinh viên nghèo. 
Có thể nhận thấy, chính phủ các quốc gia châu Á chú 
trọng vào các chính sách thắt chặt và cắt giảm ngân sách 
tài trợ, ít chú ý đến việc nới lỏng các quy định về nguồn 
thu cũng như tạo điều kiện cho trường đại học đa dạng 
hóa nguồn thu. Hệ quả là quá trình tự chủ tài chính đại 
học tại các quốc gia châu Á phát triển chậm và hiệu quả 
không như kì vọng của chính phủ và trường đại học. 
2.2. Bối cảnh tự chủ tài chính đại học ở Việt Nam 
Với Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ ngày 
24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với 
các cơ sở giáo dục đại học công lập, đến năm 2017 đã có 
23 trường đại học tự chủ. Các trường đảm bảo được toàn 
bộ chi thường xuyên và trích lập được các quỹ nhờ việc 
được tự chủ học phí và tăng quy mô đào tạo các chương 
trình chất lượng cao. Nghiên cứu của Lê Trung Thành và 
Đoàn Xuân Hậu cho thấy sự thay đổi về cơ cấu nguồn thu 
của các trường đại học công lập trước và sau tự chủ [10]. 
Có thể nhận thấy, nguồn ngân sách nhà nước cấp cho 
trường đại học chỉ giảm 1,8%; trong khi các trường đại học 
tăng nguồn thu từ học phí và lệ phí (tăng 4,29%) để bù đắp 
phần thâm hụt trên. Học phí vẫn là nguồn thu quan trọng 
đối với trường đại học công lập. Nhóm các chương trình 
tiên tiến, chương trình chất lượng cao và đào tạo tiến sĩ có 
mức học phí tăng gấp đôi, trong khi nguồn thu học phí từ 
các chương trình đào tạo không chính quy giảm 5%. Việc 
tăng nguồn thu từ học phí đã tạo áp lực cho các trường đầu 
tư nhiều hơn vào trang bị cơ sở vật chất trong giảng dạy và 
học tập, tài trợ học bổng cho sinh viên, tài trợ, viện trợ và 
hoạt động tư vấn và nghiên cứu khoa học. 
Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính 
đại học tại Việt Nam vẫn gặp phải những hạn chế sau: 
- Chính phủ chưa có định hướng cụ thể cho việc 
chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm của Nghị quyết số 
77/NQ-CP sang giai đoạn chính thức thực hiện. Điều này 
gây khó khăn cho các trường đại học trong việc lập kế 
hoạch phát triển dài hạn, đầu tư vào cơ sở vật chất và 
nhân sự [10]. Kiến nghị Chính phủ tổng kết, đánh giá 
việc thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 
16 
trên cơ sở đó ban hành nghị định cụ thể hóa Nghị định số 
16/2015/NĐ-CP đối với ngành GD-ĐT để thực hiện. 
Nghị định mới sẽ quy định cơ chế tự chủ về thực hiện 
hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, tổ chức bộ máy, 
nhân sự và tài chính của trường đại học công lập. 
- Về tự chủ tài chính, Chính phủ chưa có hướng dẫn 
cụ thể về quyền tự chủ của trường đại học trong các mức 
chi tiêu, chẳng hạn như chi cho nghiên cứu khoa học cấp 
cơ sở, chi xây dựng chương trình giáo dục, chi xây dựng 
giáo trình đại học và công tác phí. Bên cạnh đó, Nhà nước 
vẫn chưa tính đến mức chi phí thực tiễn cần thiết để bảo 
đảm chất lượng đào tạo cũng như căn cứ để xây dựng 
khung học phí, bao gồm định mức kinh tế - kĩ thuật phù 
hợp với từng nhóm ngành, chuyên ngành đào tạo một 
cách đầy đủ, khoa học, phù hợp với thực tiễn [11]. 
- Thu từ học phí vẫn là nguồn thu chính của trường 
đại học khi tự chủ và chiếm trên 70% tổng thu là rất rủi 
ro, như vậy nguồn thu phụ thuộc nhiều vào tình hình 
tuyển sinh. Đây là rủi ro cao đối với chất lượng đào tạo 
của trường đại học do tuyển sinh phụ thuộc vào nhu cầu 
xã hội và quy định của Nhà nước. 
2.3. Một số gợi ý về chính sách tự chủ tài chính đại học 
cho Việt Nam 
Từ kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên 
thế giới và bối cảnh tự chủ tài chính giáo dục đại học Việt 
Nam, chúng tôi đưa ra một số gợi ý sau: 
1) Tự chủ tài chính đại học không đồng nghĩa với việc 
chính phủ cắt giảm hoàn toàn nguồn ngân sách tài trợ. 
Nguồn ngân sách tài trợ của chính phủ vẫn đóng vai trò 
quan trọng đối với các trường đại học, bởi nguồn ngân sách 
tài trợ này tạo nền tảng vững chắc để trường đại học chuyển 
dần sang mô hình tự chủ tài chính. Điển hình là các quốc 
gia trên thế giới, dù đã triển khai tự chủ tài chính từ những 
năm 1980, nhưng đến nay vẫn duy trì nguồn ngân sách nhà 
nước để hỗ trợ một phần cho các trường đại học. Hiện nay, 
hệ thống trường đại học tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về 
cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, nên gặp nhiều khó khăn 
trong việc đa dạng hóa nguồn thu, nguồn thu chủ yếu vẫn 
chỉ tập trung vào học phí và lệ phí. Do đó, việc Nhà nước 
cắt giảm nguồn ngân sách tài trợ sẽ tạo ra những khó khăn 
cho trường đại học trong việc duy trì quá trình hoạt động 
ổn định. Vì vậy, gói tài trợ từ Chính phủ cần hướng đến các 
trường đại học được cho phép tự chủ hoàn toàn, cụ thể là 
phải tập trung vào các lĩnh vực như: - Các phòng thí nghiệm 
có khả năng tiếp cận nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; - Thu 
hút sinh viên và học giả quốc tế phát triển nghiên cứu; - Cơ 
chế học bổng đào tạo nghiên cứu sinh trong nước có khả 
năng công bố quốc tế; - Nguồn tài trợ cho các tạp chí học 
thuật phát triển hệ thống xếp hạng quốc tế; - Nguồn tài trợ 
nghiên cứu công bố quốc tế và nghiên cứu chuyển giao gắn 
với chiến lược phát triển KT-XH. 
2) Chính phủ cần có thiết kế cơ chế chính sách cụ thể 
để phân bổ nguồn ngân sách công cho trường đại học một 
cách hợp lí. Hiện nay, hình thức gói tài trợ (block grant) 
được nhiều quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Úc và 
châu Á áp dụng. Việc triển khai hình thức này mang lại 
03 tác động tích cực: - Nhà nước giảm thiểu được một 
phần về ngân sách tài trợ cho giáo dục đại học; - Chính 
sách này khuyến khích các trường đại học sử dụng nguồn 
ngân sách nhà nước một cách hiệu quả và tránh lãng phí; 
- Cơ chế phân bổ nguồn ngân sách theo hình thức gói tài 
trợ dựa trên nền tảng đánh giá kết quả hoạt động đào tạo 
và nghiên cứu cụ thể hàng năm của trường đại học, chẳng 
hạn như căn cứ vào tỉ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên cơ 
hữu, số bài báo công bố quốc tế và trích dẫn từ giảng viên 
và nghiên cứu sinh, số nghiên cứu được chuyển giao cho 
các ngành kinh tế và địa phương, số chuyên ngành đào 
tạo được kiểm định, tài trợ khuyến khích bổ sung cho các 
quỹ nghiên cứu huy động từ các doanh nghiệp tư nhân 
và các tổ chức quốc tế. Điều này không chỉ tạo động lực 
cho các trường phấn đấu nâng cao chất lượng giảng dạy 
và nghiên cứu, mà còn tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa các 
trường đại học trong việc dành được các gói tài trợ từ 
chính phủ, từ cơ chế này hệ thống đại học sẽ phát triển 
bền vững, gắn với các kết quả theo hướng quốc tế hóa. 
3) Chính phủ cần nới lỏng các quy định về tài chính cho 
trường đại học, cho phép hoạt động theo cơ chế như một 
doanh nghiệp. Đây là tiền đề để trường đại học có thể vay 
mượn nguồn tài chính từ thị trường tài chính, hoặc mua bán 
bất động sản, sử dụng các bất động sản để thực hiện kinh 
doanh dịch vụ gắn với năng lực đào tạo và nghiên cứu 
nhằm gia tăng nguồn thu phục vụ cho hoạt động. Thông lệ 
của một số quốc gia phát triển cho thấy, nhà nước cho phép 
trường đại học sở hữu các hình thức bất động sản như đất 
và các tòa nhà, được toàn quyền quyết định việc mua bán 
và sử dụng các bất động sản trên theo chiến lược tổng thể 
của trường gắn với lợi ích chung của quá trình đào tạo, 
nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất. Ở một số quốc gia 
khác, trường đại học có tư cách pháp nhân để thực hiện các 
giao dịch vay mượn từ thị trường tài chính, đáp ứng nhu 
cầu phát triển chiến lược của trường đại học. Chính các 
chính sách trên góp phần nâng cao tính tự chủ của trường 
đại học, tạo động lực để trường đại học sử dụng nguồn vốn 
một cách hiệu quả và tối ưu hơn. 
4) Sự kết hợp giữa hành lang chính sách của nhà nước 
và nỗ lực của tự thân trường đại học về đa dạng hóa nguồn 
thu. Chính phủ cần khuyến khích các trường đại học hoạt 
động trên tinh thần kinh doanh, đồng thời tạo hành lang 
chính sách thuận lợi để trường đại học tiến tới tự chủ tài 
chính thông qua các hoạt động sau: - Cải thiện các nguồn 
(Xem tiếp trang 6) 
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 1-6 
6 
nguồn nhân lực trong xã hội; HĐ tổ chức các hội thi liên 
quan GDHN cho HS nhằm tạo “sân chơi” để HS phát 
huy kĩ năng, kĩ xảo, tạo đam mê nghề nghiệp. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ GD-ĐT (2006). Chương trình giáo dục phổ 
thông (ban hành kèm theo Quyết định số 
16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ 
trưởng Bộ GD-ĐT). 
[2] Bộ GD-ĐT (2017). Kế hoạch số 3255/BGDĐT-
GDTrH về việc Hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo 
dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động trải nghiệm 
trong trường trung học. 
[3] Phan Thị Tố Oanh - Nguyễn Hữu Bách (2014). Thực 
trạng quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp của 
hiệu trưởng các trường trung học phổ thông thành 
phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tạp chí Giáo 
dục, số 341, tr 58-60. 
[4] Ngô Tuấn Tăng (2008). Thực trạng hoạt động giáo 
dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông tỉnh Thái 
Nguyên. Tạp chí Giáo dục, số 195, tr 56-58. 
[5] Hoàng Thanh Bình (2017). Quản lí hoạt động giáo 
dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung 
học phổ thông huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. 
Tạp chí Quản lí Giáo dục, Học viện Quản lí Giáo 
dục, số 5, tr 77-82. 
[6] Đỗ Đình Đoàn (2016). Quản lí hoạt động giáo dục 
hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông 
quận 4 và quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí 
Giáo dục và Xã hội, số 69 (130), tr 114-118. 
[7] Nguyễn Hữu Châu - Hồ Văn Thông (2015). Hoạt 
động giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học 
phổ thông và Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - 
Kĩ thuật hướng nghiệp tại tỉnh Bình Dương. Tạp chí 
Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt 
Nam, số 112, tr 19-22. 
TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC... 
(Tiếp theo trang 16) 
thu hiện có và quản lí tài chính hiệu quả hơn, thể hiện qua 
việc tối ưu hóa hoạt động thu và chi; - Chủ động tìm kiếm 
các nguồn thu mới như sự hiến tặng và tài trợ của cựu sinh 
viên, mua bán bất động sản, vay mượn từ thị trường tài 
chính và các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục 
và nghiên cứu khoa học. Điều này tạo cơ sở cho các trường 
đại học dần nâng cao năng lực tự chủ và hướng đến mô 
hình trường đại học tự chủ. Bên cạnh đó, trường đại học 
cần phát huy tối đa tính chủ động và năng lực đổi mới sáng 
tạo trong việc tìm kiếm các nguồn thu mới; mạnh dạn triển 
khai các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học theo 
định hướng thị trường, đáp ứng nhu cầu của các ngành 
kinh tế nhằm gia tăng tính đa dạng của nguồn thu. 
3. Kết luận 
Những chính sách đề xuất ở trên hi vọng sẽ là bước 
đầu trong quá trình chuyển dần quyền điều hành từ Nhà 
nước sang trường đại học trên tất cả các khía cạnh gồm tài 
chính, học thuật, nhân sự và quản trị tổ chức. Nói cách 
khác, tự chủ tài chính là tiến trình chuyển đổi cơ chế quản 
lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà nước điều hành 
thành mô hình nhà nước giám sát theo thông lệ quốc tế. 
Tài liệu tham khảo 
[1] International Association of Universities (1998). 
Academic Freedom, University Autonomy and 
Social Responsibility. 
[2] Chiang, L.C (2004). The relationship between 
university autonomy and funding in England and 
Taiwan. Higher Education, Vol. 48 (2), pp. 189-212. 
[3] Yang, R. - Vidovich, L. - Currie, J. (2007). Dancing in 
a cage: Changing autonomy in Chinese higher 
education. Higher Education, Vol. 54 (4), pp. 575-592. 
[4] Estermann, T. - Nokkala, T. - Steinel, M. (2011). 
University autonomy in Europe II. The Scorecard. 
Brussels: European University Association. 
[5] Australian Government (2006). Research Quality 
Framework: Assessing the quality and impact of 
research in Australia. 
[6] Taylor, J. (2011). The assessment of research quality 
in UK universities: peer review or metrics?. British 
Journal of Management, Vol. 22 (2), pp. 202-217. 
[7] Varghese, N. V. - Martin, M. (2013). Governance 
reforms and university autonomy in Asia. Paris: 
International Institute for Educational Planning. 
[8] Clark, B. (2001). The entrepreneurial university: New 
foundations for collegiality, autonomy, and achievement. 
Higher Education Management, Vol. 13 (2). 
[9] Mora, J. G. - Villarreal, E. (2001). Breaking down 
structural barriers to innovation in traditional 
universities. Higher Education Management, Vol. 13 (2). 
[10] Lê Trung Thành - Đoàn Xuân Hậu (2018). Tự chủ 
đại học: nhìn từ góc độ tự chủ tài chính tại các cơ 
sở giáo dục đại học công lập Việt Nam. Hội thảo 
Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ đại học. 
NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. 
[11] Phạm Tất Thắng - Nguyễn Thị Tuyết Nga (2018). 
Hoàn thiện chính sách pháp luật về giáo dục đại học 
để đẩy mạnh quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại 
học Việt Nam. Hội thảo Hoàn thiện chính sách, pháp 
luật về tự chủ đại học. NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdftu_chu_tai_chinh_dai_hoc_theo_thong_le_quoc_te_va_nhung_goi.pdf