Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
Tự chủ đại học là vấn đề được các nhà làm chính
sách, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam và các quốc
gia trên thế giới đặc biệt quan tâm - vì chỉ thông qua cơ
chế tự chủ thực chất thì mới thúc đẩy hệ thống giáo dục
đại học phát triển năng động, phù hợp với quá trình hội
nhập toàn cầu hiện nay. “Tự chủ đại học” được hiểu là
việc trường đại học có được một mức độ độc lập so với
các bên quản lí nhà nước liên quan về quản trị cơ cấu tổ
chức, phân bổ nguồn lực tài chính và tạo ra nguồn thu,
tuyển dụng nhân sự, trang bị điều kiện học tập và triển
khai hoạt động giảng dạy, nghiên cứu [1]. Cụ thể, tự chủ
đại học tập trung vào 04 khía cạnh chính gồm: 1) Học
thuật; 2) Nhân sự; 3) Tài chính; 4) Quản trị tổ chức [2];
trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố đóng vai trò quan
trọng trong việc thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình phát
triển của hệ thống giáo dục đại học.
Tiến trình tự chủ tài chính nói riêng và tự chủ đại học
nói chung là con đường để các quốc gia chuyển đổi cơ
chế quản lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà
nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát [1], [3].
Tiến trình này chủ yếu diễn ra ở các quốc gia châu Á có
hệ thống giáo dục đại học vận hành theo mô hình nhà
nước điều hành. Những quốc gia có chuyển đổi tự chủ
mạnh từ hơn hai thập niên ở châu Á bao gồm Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Malaysia. Việt Nam và các
quốc gia còn lại ở châu Á đang có nhiều nỗ lực chuyển
đổi nâng cao tính tự chủ hệ thống đại học trong thời gian
gần đây và có những bước đi mang tính thí điểm.
Dựa trên những lợi ích của tự chủ tài chính đại học
nêu trên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nhà làm chính
sách và hệ thống đại học của Việt Nam nắm bắt được xu
thế tất yếu của thế giới, từ đó ban hành các chính sách
phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, triển khai
cơ chế tự chủ tài chính một cách hiệu quả. Để giải quyết
vấn đề này, bài viết đưa ra 03 mục tiêu chính cần giải
quyết là: - Nghiên cứu kinh nghiệm về tự chủ tài chính
đại học ở một số quốc gia trên thế giới; - Nhận định thực
trạng triển khai tự chủ tài chính giáo dục đại học trong
thời gian qua tại Việt Nam; - Gợi ý chính sách về tự chủ
tài chính đại học cho Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tự chủ tài chính Đại học theo thông lệ quốc tế và những gợi ý chính sách cho hệ thống giáo dục đại học Việt Nam
VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 12 TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC THEO THÔNG LỆ QUỐC TẾ VÀ NHỮNG GỢI Ý CHÍNH SÁCH CHO HỆ THỐNG GIÁO DỤC ĐẠI HỌC VIỆT NAM Nguyễn Trọng Hoài - Trường Đại học Kinh tế TP. Hồ Chí Minh Ngày nhận bài: 18/08/2018; ngày sửa chữa: 20/08/2018; ngày duyệt đăng: 31/08/2018. Abstract: University financial autonomous is a topic that has received much attention in Vietnam, especially from policymakers and university systems. However, university financial autonomous in Vietnam is still in the pilot phase and implementation is still limited. Therefore, the finalization of financial autonomous in universities from countries around the world (including developed countries in Europe, Australia and Asia) to find good practices, In line with the Vietnamese context, it will be important for planners to adopt policies that are geared towards the direction and expansion of financial autonomous to facilitate the sustainable development of the Vietnamese university system. Keywords: University financial autonomous, international practice, policy. 1. Mở đầu Tự chủ đại học là vấn đề được các nhà làm chính sách, hệ thống giáo dục đại học ở Việt Nam và các quốc gia trên thế giới đặc biệt quan tâm - vì chỉ thông qua cơ chế tự chủ thực chất thì mới thúc đẩy hệ thống giáo dục đại học phát triển năng động, phù hợp với quá trình hội nhập toàn cầu hiện nay. “Tự chủ đại học” được hiểu là việc trường đại học có được một mức độ độc lập so với các bên quản lí nhà nước liên quan về quản trị cơ cấu tổ chức, phân bổ nguồn lực tài chính và tạo ra nguồn thu, tuyển dụng nhân sự, trang bị điều kiện học tập và triển khai hoạt động giảng dạy, nghiên cứu [1]. Cụ thể, tự chủ đại học tập trung vào 04 khía cạnh chính gồm: 1) Học thuật; 2) Nhân sự; 3) Tài chính; 4) Quản trị tổ chức [2]; trong đó, tự chủ tài chính là yếu tố đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hoặc hạn chế quá trình phát triển của hệ thống giáo dục đại học. Tiến trình tự chủ tài chính nói riêng và tự chủ đại học nói chung là con đường để các quốc gia chuyển đổi cơ chế quản lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát [1], [3]. Tiến trình này chủ yếu diễn ra ở các quốc gia châu Á có hệ thống giáo dục đại học vận hành theo mô hình nhà nước điều hành. Những quốc gia có chuyển đổi tự chủ mạnh từ hơn hai thập niên ở châu Á bao gồm Trung Quốc, Đài Loan, Nhật Bản và Malaysia. Việt Nam và các quốc gia còn lại ở châu Á đang có nhiều nỗ lực chuyển đổi nâng cao tính tự chủ hệ thống đại học trong thời gian gần đây và có những bước đi mang tính thí điểm. Dựa trên những lợi ích của tự chủ tài chính đại học nêu trên, vấn đề đặt ra là làm thế nào để các nhà làm chính sách và hệ thống đại học của Việt Nam nắm bắt được xu thế tất yếu của thế giới, từ đó ban hành các chính sách phù hợp với điều kiện thực tiễn tại Việt Nam, triển khai cơ chế tự chủ tài chính một cách hiệu quả. Để giải quyết vấn đề này, bài viết đưa ra 03 mục tiêu chính cần giải quyết là: - Nghiên cứu kinh nghiệm về tự chủ tài chính đại học ở một số quốc gia trên thế giới; - Nhận định thực trạng triển khai tự chủ tài chính giáo dục đại học trong thời gian qua tại Việt Nam; - Gợi ý chính sách về tự chủ tài chính đại học cho Việt Nam. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Kinh nghiệm quốc tế về tự chủ tài chính đại học Tự chủ tài chính của các trường đại học tại các quốc gia trên thế giới là sự kết hợp hành lang pháp lí do chính phủ ban hành, cộng với nỗ lực của các trường đại học. Hành lang pháp lí do chính phủ ban hành thường có hai cách tiếp cận chính sách gồm: - Chính phủ đảm bảo các tài trợ công chiến lược nhưng vẫn cắt giảm nguồn ngân sách tài trợ nhằm tạo động lực cho trường đại học nỗ lực tìm kiếm nguồn thu và sử dụng hiệu quả nguồn thu; - Nới lỏng các chính sách tạo nguồn thu và đa dạng hóa nguồn thu để các trường đại học có khả năng đầu tư và phát triển bền vững [4]. Từ hai cách tiếp cận chính sách này, kinh nghiệm tự chủ tài chính đại học ở các quốc gia trên thế giới tập trung vào 3 khía cạnh sau [4]: - Phân bổ nguồn ngân sách công cho hệ thống đại học; - Quy định về khả năng vay mượn từ thị trường tài chính của trường đại học; - Khung pháp lí thúc đẩy nỗ lực tự thân đa dạng hóa nguồn thu của trường đại học. 2.1.1. Phân bổ nguồn ngân sách công cho hệ thống đại học - Các quốc gia phát triển ở châu Âu và châu Úc. Ở châu Âu, ngoại trừ Đảo Síp (Cyprus), Hi Lạp và Thổ Nhĩ Kì, các quốc gia còn lại trong Liên minh châu Âu (EU) đều nhận được nguồn ngân sách cơ bản từ chính phủ dưới hình thức gói tài trợ. Gói tài trợ được hiểu là nguồn tài trợ về tài chính phục vụ cho một số hoạt động của trường đại học như: giảng dạy, quản trị và nghiên cứu khoa học. VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 13 Thông thường, chính phủ cung cấp các gói tài trợ có thời hạn một năm, một số trường hợp ngoại lệ có thời hạn lâu hơn như ở Áo (03 năm) và Luxembourg (04 năm). Bên cạnh đó, nguồn ngân sách tài trợ này còn được điều chỉnh tùy thuộc vào việc trường đại học có đạt hay không các chỉ tiêu hoạt động hàng năm, chẳng hạn như nguồn tài trợ của Anh và Estonia phụ thuộc vào việc trường đại học có đạt hay không chỉ tiêu tuyển sinh hoặc tốt nghiệp hàng năm. Trong lĩnh vực nghiên cứu, chính phủ của các quốc gia phát triển cũng có cơ chế phân bổ nguồn ngân sách nhà nước theo các tiêu chuẩn khác nhau. Ở Úc, căn cứ theo Khung chất lượng nghiên cứu khoa học được ban hành năm 2004, Chính phủ sẽ đánh giá thành tích nghiên cứu khoa học của trường đại học theo hai nhóm chỉ tiêu là: 1) Chất lượng của công trình nghiên cứu khoa học; 2) Ảnh hưởng của công trình nghiên cứu khoa học [5]. Dựa trên kết quả đánh giá này, chính phủ sẽ điều chỉnh nguồn ngân sách tài trợ nghiên cứu khoa học cho từng trường đại học theo từng năm. Ở Anh, từ năm 1989, Chính phủ ban hành quy chế đánh giá nghiên cứu khoa học đối với trường đại học để làm cơ sở cho việc phân bổ nguồn ngân sách nhà nước [6]. Theo quy chế này, chính phủ thành lập một hội đồng bình duyệt đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học của các trường đại học trong giai đoạn 1989-2000, áp dụng thang điểm 7 từ năm 2001; từ năm 2008 là phân nhóm kết quả nghiên cứu khoa học theo 05 mức độ tiêu chuẩn gồm: 1) Hàng đầu thế giới, tương đương 4 sao; 2) Quốc tế xuất sắc, tương đương 3 sao; 3) Quốc tế, tương đương 2 sao; 4) Quốc gia, tương đương 1 sao; 5) Không xếp loại, tương đương 0 sao. Thêm vào đó, các tiêu chí này cũng được áp dụng vào 03 khía cạnh khác của thành tích nghiên cứu gồm: 1) Đầu ra của nghiên cứu khoa học; 2) Ảnh hưởng của nghiên cứu khoa học; 3) Môi trường nghiên cứu khoa học [6]. Tuy hoạt động đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học tiêu hao nhiều nguồn lực của chính phủ về con người và tài chính, nhưng mục tiêu chung vẫn là hướng việc phân bổ ngân sách nhà nước một cách hợp lí cho hoạt động nghiên cứu khoa học tại trường đại học. - Các quốc gia châu Á. Nhìn chung, phương pháp tiếp cận đối với tự chủ tài chính đại học tại các quốc gia châu Á có nhiều nét tương đồng với các quốc gia phát triển ở châu Âu và châu Úc. Đối với các quốc gia châu Á như: Trung Quốc, Nhật Bản và Việt Nam, động lực để chính phủ triển khai tự chủ tài chính là: 1) Thúc đẩy các trường đại học đa dạng hóa nguồn thu từ tư nhân để hỗ trợ cho hoạt động chung của nhà trường, bên cạnh các gói tài trợ công có chủ đích; 2) Giảm dần các tài trợ thường xuyên và nâng cao khả năng quản lí tài chính của trường đại học hiệu quả hơn [7]. Để đẩy mạnh tự chủ tài chính, các nhà làm chính sách của các quốc gia trên đã ban hành chính sách với các nội dung vừa cắt giảm ngân sách nhà nước chi cho trường đại học, vừa cho phép trường đại học chủ động tìm kiếm nguồn thu mới, điều chỉnh chi tiêu và quản lí tài chính hiệu quả. Một trong những chính sách được các quốc gia châu Á áp dụng rộng rãi để khuyến khích/thúc đẩy tự chủ tài chính là thắt chặt ngân sách chính phủ tài trợ cho các trường đại học. Bên cạnh việc cắt giảm ngân sách, Chính phủ Trung Quốc và Nhật Bản sử dụng các gói tài trợ hướng vào các mục tiêu cụ thể thay vì cấp phát ngân sách cho các trường đại học theo cơ chế bao cấp hoàn toàn như trước đây. Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 1993-2001 đã triển khai các nội dung về tự chủ tài chính đại học theo chương trình cải cách và phát triển giáo dục. Hệ quả là, nguồn chi hàng năm ngân sách Chính phủ Trung Quốc cho giáo dục đại học trong giai đoạn trên giảm từ 83% xuống còn 53% [3]. Ở Indonesia, năm 2000, có 04 trường đại học gồm: Universitas Indonesia Jakarta (UI), Institute of Agriculture Bogor (IPB), Institute of Technology Bandung (ITB) và Universitas Gadjah Mada (UGM) được Chính phủ chọn để thí điểm mô hình tự chủ học thuật và tài chính. Theo đó, nguồn tài trợ của chính phủ chỉ phân bổ cho một số lĩnh vực đào tạo theo hình thức ngân sách định kì chứ không bao cấp hoàn toàn như thời gian trước đó. Lúc này, chính phủ đóng vai trò là một cơ quan cấp vốn, phân bổ từng gói ngân sách tài trợ dựa vào các yếu tố đầu ra như số lượng sinh viên tốt nghiệp hoặc kết quả các nghiên cứu công bố quốc tế [7]. Ở Nhật Bản, trong giai đoạn 2004- 2009, tỉ lệ nguồn tài trợ của Chính phủ trên tổng nguồn thu của các trường đại học giảm từ 49,6% xuống còn 38,6%, nguồn thu từ các khoản phí đã chiếm 60% nguồn thu của các trường đại học tư nhân; trong khi nguồn tài trợ của Chính phủ chỉ còn 12% [7]. 2.1.2. Chính sách tăng khả năng tiếp cận thị trường tài chính và kinh doanh tài sản Nguồn thu của các trường đại học ở các quốc gia phát triển còn có thể đến từ các ngành kinh tế khác như Thị trường tài chính và Bất động sản. Bảng 1 và 2 cho thấy sự phân hóa về các chính sách của chính phủ ở Liên minh châu Âu đối với khả năng tìm kiếm nguồn thu mới từ thị trường tài chính và thị trường bất động sản của các trường đại học. Với thị trường tài chính, hầu hết các quốc gia cho phép trường đại học vay mượn từ các ngân hàng hoặc tổ chức tài chính. Tuy nhiên, chính phủ vẫn có những công cụ để kiểm soát hoạt động vay mượn như chỉ định ngân hàng cho vay mượn, sử dụng các cơ quan có thẩm quyền bên ngoài để đánh giá trường đại học, giới hạn định mức vay mượn hoặc một số điều kiện kèm theo khác. Về khía cạnh bất động sản, ngoại trừ Brandenburg (Đức), Hesse (Đức), Hungary, Litva (Lithuania), North Rhine-Westphalia (Đức) và Thụy Điển, 22 quốc gia còn lại của Liên minh châu Âu đều cho phép trường đại học VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 14 tạo nguồn vốn từ việc sở hữu các bất động sản như đất đai và cơ sở vật chất, với các chính sách khá linh hoạt từ chính phủ nhằm kiểm soát việc các trường đại học chuyển nhượng các bất động sản trên. 2.1.3. Các chính sách đa dạng hóa nguồn thu cho các trường đại học Nguồn tài chính của trường đại học đến từ 03 nguồn gồm: 1) Nguồn hỗ trợ của chính phủ; 2) Nguồn tài trợ của các quỹ nghiên cứu của chính phủ; 3) Các nguồn khác từ chính phủ, tư nhân, quốc tế và nguồn thu do trường đại học tạo ra [8]. Những quy định về cắt giảm và thắt chặt quản lí tài chính của chính phủ vừa là động lực, vừa là áp lực để các trường đại học tìm kiếm nguồn thu mới đa dạng và giảm rủi ro do sự biến động nguồn thu gây ra. Việc trường đại học phụ thuộc quá nhiều vào một nguồn tài chính sẽ gây cản trở cho quá trình xây dựng và phát triển, nói cách khác là hạn chế những nỗ lực tự thân theo hướng phát huy tính chủ động, sáng tạo sử dụng nguồn lực trong và ngoài nhà trường một cách năng động. Đa dạng hóa nguồn thu tạo động lực để trường đại học chủ động phát triển các chương trình đào tạo chất lượng gắn với thị trường, từ đó nâng cao tiềm năng thu học phí với sự chấp nhận của người học, thúc đẩy vay mượn tiền từ các tổ chức tài chính đầu tư cho cơ sở vật chất và cung cấp các dịch vụ phù hợp với chuyên môn học thuật của trường đại học, đặc biệt là phát triển các dự án đổi mới sáng tạo, gắn liền với các ngành kinh tế qua nghiên cứu và chuyển giao cho các doanh nghiệp. - Các quốc gia phát triển ở châu Âu. Các chính sách đa dạng hóa nguồn thu nổi bật của chính phủ các quốc gia phát triển ở châu Âu áp dụng cho hệ thống đại học bao gồm [9]: + Chính sách tạo điều kiện cho các trường đại học phát triển theo bản sắc doanh nghiệp: Chính phủ tạo ra một khung chính sách để các trường đại học xác định mục tiêu hướng về cung cấp dịch vụ cho thị trường gắn với hoạt động cụ thể, bên cạnh các mục tiêu học thuật. Nếu không có khung chính sách khuyến khích trường đại học hướng về thị trường và hoạt động theo bản sắc doanh nghiệp, hệ thống này sẽ gặp nhiều khó khăn khi triển khai các hoạt động khai thác thị trường theo thế mạnh học thuật, không đảm bảo chia sẻ lợi nhuận trong nội bộ vì nguồn thu không được đa dạng hóa từ việc đa dạng các mục tiêu và hoạt động gắn với thị trường. Vì vậy, các chính sách của nhà nước hướng đến việc khuyến khích trường đại học phát triển các hoạt động bên ngoài khuôn khổ được quy định của trường đại học. + Nới lỏng các quy định về hoạt động học thuật đối với trường đại học: Nới lỏng các quy định về hoạt động học Bảng 1. Khả năng vay mượn tiền từ thị trường tài chính của các trường đại học ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu [4] STT Chính sách Quốc gia triển khai 1 Trường đại học có thể vay tiền mà không có điều kiện hạn chế nào Áo, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Estonia, Phần Lan, Hà Lan 2 Trường đại học có thể mượn tiền với sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền (external authority) Cộng hòa Síp, Tây Ban Nha, Pháp, Latvia, Litva, Luxembourg 3 Trường đại học có thể vay tiền từ các ngân hàng được chính phủ chỉ định Thụy Điển 4 Trường đại học có thể đi vay theo một hạn mức cho phép Ireland, Ý, North Rhine-Westphalia (Đức), Slovakia 5 Trường đại học không được phép đi vay Thụy Sĩ, Hi Lạp, Hesse (Đức), Hungary, Na-uy, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kì 6 Trường đại học có thể đi vay với một số điều kiện được quy định Brandenburg (Đức), Iceland, Ba Lan, Anh Bảng 2. Khả năng bán các bất động sản mà trường đại học sở hữu ở các quốc gia thuộc Liên minh châu Âu [4] STT Chính sách Quốc gia triển khai 1 Trường đại học có thể bán bất động sản mà không có điều kiện hạn chế nào Áo, Cộng hòa Séc, Đan Mạch, Tây Ban Nha, Ý, Hà Lan, Slovakia, Anh 2 Trường đại học có thể bán bất động sản với sự phê duyệt của cơ quan có thẩm quyền Thụy Sĩ, Cộng hòa Síp, Estonia, Pháp, Hi Lạp, Iceland, Luxembourg, Na-uy 3 Trường đại học có thể bán bất động sản với một số điều kiện được quy định Phần Lan, Ireland, Latvia, Ba Lan, Bồ Đào Nha, Thổ Nhĩ Kì 4 Trường đại học không được phép bán bất động sản Brandenburg (Đức), Hesse (Đức), Hungary, Litva (Lithuania), North Rhine-Westphalia (Đức), Thụy Điển VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 15 thuật là việc nhà nước chỉ quy định khung các phương pháp kiểm định mới, cho phép trường đại học linh động hơn trong việc thiết kế giáo trình, giới thiệu các chủ đề học thuật theo yêu cầu của thị trường. + Chính sách ... c quốc gia châu Á cũng nới lỏng các quy định về nguồn thu để tạo điều kiện cho trường đại học tìm kiếm và đa dạng hóa nguồn thu. Tuy nhiên, chính phủ các quốc gia châu Á chưa thực sự mở rộng chính sách thu học phí cho trường đại học mà vẫn có những quy định khá chặt chẽ và thậm chí là áp dụng trần học phí. Nguyên nhân chính là chính phủ các quốc gia châu Á e ngại các trường đại học vận hành hoạt động theo cơ chế thị trường với mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, xa rời các mục tiêu phát triển hệ thống giáo dục và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của nền kinh tế. Các trường đại học Trung Quốc tìm kiếm các nguồn thu từ cựu sinh viên, tài trợ của xã hội, học phí và hợp đồng nghiên cứu khoa học [7]. Kết quả là trong giai đoạn 2000-2008, tỉ trọng của nguồn thu từ các doanh nghiệp, cá nhân trên tổng nguồn thu của các trường đại học ở Trung Quốc tăng từ 34,8% lên thành 49,2%; phần còn lại của nguồn thu (50,8%) được tài trợ bởi chính phủ, trong đó có một phần từ chính quyền địa phương [7]. Các trường đại học tại Indonesia được tự do tìm kiếm các nguồn thu khác như thu từ học phí, hoạt động tư vấn, liên kết với doanh nghiệp. Đài Loan đã ban hành Quỹ Sáng lập Phát triển đại học (University Development Foundation Fund - UDFF) vào năm 1995 và có hiệu lực từ năm 1998. Theo hình thức này, các trường đại học quốc gia chỉ được chính phủ cấp vốn bằng 80% nguồn thu hiện tại và không cần nộp nguồn thu về cho kho bạc. Các trường đại học quốc gia có động lực để tìm kiếm đa dạng các nguồn thu, tối ưu hóa các khoản chi, từ đó nâng cao tự chủ tài chính. Bên cạnh đó, chính phủ cũng khuyến khích các trường đại học quốc gia xây dựng đề án phát triển thành các công ty cổ phần công, góp phần nâng cao tính tự chủ tài chính của các đơn vị này [2]. Với Nhật Bản, vào năm 2004, các trường đại học quốc gia được chuyển đổi thành các công ty cổ phần đại học quốc gia [7]. Theo đó, trường đại học trở thành một pháp nhân độc lập và hoạt động quản lí tài chính của các trường này chuyển từ cơ chế kiểm soát chi tiêu thành cơ chế kiểm soát thu chi dựa trên việc tích lũy. Cụ thể, học phí là nguồn thu của riêng trường đại học, thay vì trước đây phải nộp về cho nhà nước. Điều này có nghĩa là trường đại học có quyền kiểm soát việc thu chi [9]. Ở Indonesia, dù trường đại học có quyền quyết định mức học phí nhưng chính phủ vẫn quy định nguồn thu từ học phí không được cao hơn 30% tổng chi của trường đại học. Đồng thời, chính phủ cũng quy định ít nhất 20% nguồn chi của trường đại học phải dành cho sinh viên nghèo. Có thể nhận thấy, chính phủ các quốc gia châu Á chú trọng vào các chính sách thắt chặt và cắt giảm ngân sách tài trợ, ít chú ý đến việc nới lỏng các quy định về nguồn thu cũng như tạo điều kiện cho trường đại học đa dạng hóa nguồn thu. Hệ quả là quá trình tự chủ tài chính đại học tại các quốc gia châu Á phát triển chậm và hiệu quả không như kì vọng của chính phủ và trường đại học. 2.2. Bối cảnh tự chủ tài chính đại học ở Việt Nam Với Nghị quyết số 77/NQ-CP của Chính phủ ngày 24/10/2014 về thí điểm đổi mới cơ chế hoạt động đối với các cơ sở giáo dục đại học công lập, đến năm 2017 đã có 23 trường đại học tự chủ. Các trường đảm bảo được toàn bộ chi thường xuyên và trích lập được các quỹ nhờ việc được tự chủ học phí và tăng quy mô đào tạo các chương trình chất lượng cao. Nghiên cứu của Lê Trung Thành và Đoàn Xuân Hậu cho thấy sự thay đổi về cơ cấu nguồn thu của các trường đại học công lập trước và sau tự chủ [10]. Có thể nhận thấy, nguồn ngân sách nhà nước cấp cho trường đại học chỉ giảm 1,8%; trong khi các trường đại học tăng nguồn thu từ học phí và lệ phí (tăng 4,29%) để bù đắp phần thâm hụt trên. Học phí vẫn là nguồn thu quan trọng đối với trường đại học công lập. Nhóm các chương trình tiên tiến, chương trình chất lượng cao và đào tạo tiến sĩ có mức học phí tăng gấp đôi, trong khi nguồn thu học phí từ các chương trình đào tạo không chính quy giảm 5%. Việc tăng nguồn thu từ học phí đã tạo áp lực cho các trường đầu tư nhiều hơn vào trang bị cơ sở vật chất trong giảng dạy và học tập, tài trợ học bổng cho sinh viên, tài trợ, viện trợ và hoạt động tư vấn và nghiên cứu khoa học. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách tự chủ tài chính đại học tại Việt Nam vẫn gặp phải những hạn chế sau: - Chính phủ chưa có định hướng cụ thể cho việc chuyển tiếp từ giai đoạn thí điểm của Nghị quyết số 77/NQ-CP sang giai đoạn chính thức thực hiện. Điều này gây khó khăn cho các trường đại học trong việc lập kế hoạch phát triển dài hạn, đầu tư vào cơ sở vật chất và nhân sự [10]. Kiến nghị Chính phủ tổng kết, đánh giá việc thực hiện thí điểm theo Nghị quyết số 77/NQ-CP, VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 12-16; 6 16 trên cơ sở đó ban hành nghị định cụ thể hóa Nghị định số 16/2015/NĐ-CP đối với ngành GD-ĐT để thực hiện. Nghị định mới sẽ quy định cơ chế tự chủ về thực hiện hoạt động đào tạo, khoa học công nghệ, tổ chức bộ máy, nhân sự và tài chính của trường đại học công lập. - Về tự chủ tài chính, Chính phủ chưa có hướng dẫn cụ thể về quyền tự chủ của trường đại học trong các mức chi tiêu, chẳng hạn như chi cho nghiên cứu khoa học cấp cơ sở, chi xây dựng chương trình giáo dục, chi xây dựng giáo trình đại học và công tác phí. Bên cạnh đó, Nhà nước vẫn chưa tính đến mức chi phí thực tiễn cần thiết để bảo đảm chất lượng đào tạo cũng như căn cứ để xây dựng khung học phí, bao gồm định mức kinh tế - kĩ thuật phù hợp với từng nhóm ngành, chuyên ngành đào tạo một cách đầy đủ, khoa học, phù hợp với thực tiễn [11]. - Thu từ học phí vẫn là nguồn thu chính của trường đại học khi tự chủ và chiếm trên 70% tổng thu là rất rủi ro, như vậy nguồn thu phụ thuộc nhiều vào tình hình tuyển sinh. Đây là rủi ro cao đối với chất lượng đào tạo của trường đại học do tuyển sinh phụ thuộc vào nhu cầu xã hội và quy định của Nhà nước. 2.3. Một số gợi ý về chính sách tự chủ tài chính đại học cho Việt Nam Từ kinh nghiệm thực tiễn của một số quốc gia trên thế giới và bối cảnh tự chủ tài chính giáo dục đại học Việt Nam, chúng tôi đưa ra một số gợi ý sau: 1) Tự chủ tài chính đại học không đồng nghĩa với việc chính phủ cắt giảm hoàn toàn nguồn ngân sách tài trợ. Nguồn ngân sách tài trợ của chính phủ vẫn đóng vai trò quan trọng đối với các trường đại học, bởi nguồn ngân sách tài trợ này tạo nền tảng vững chắc để trường đại học chuyển dần sang mô hình tự chủ tài chính. Điển hình là các quốc gia trên thế giới, dù đã triển khai tự chủ tài chính từ những năm 1980, nhưng đến nay vẫn duy trì nguồn ngân sách nhà nước để hỗ trợ một phần cho các trường đại học. Hiện nay, hệ thống trường đại học tại Việt Nam còn nhiều hạn chế về cơ sở hạ tầng và nguồn nhân lực, nên gặp nhiều khó khăn trong việc đa dạng hóa nguồn thu, nguồn thu chủ yếu vẫn chỉ tập trung vào học phí và lệ phí. Do đó, việc Nhà nước cắt giảm nguồn ngân sách tài trợ sẽ tạo ra những khó khăn cho trường đại học trong việc duy trì quá trình hoạt động ổn định. Vì vậy, gói tài trợ từ Chính phủ cần hướng đến các trường đại học được cho phép tự chủ hoàn toàn, cụ thể là phải tập trung vào các lĩnh vực như: - Các phòng thí nghiệm có khả năng tiếp cận nghiên cứu đẳng cấp quốc tế; - Thu hút sinh viên và học giả quốc tế phát triển nghiên cứu; - Cơ chế học bổng đào tạo nghiên cứu sinh trong nước có khả năng công bố quốc tế; - Nguồn tài trợ cho các tạp chí học thuật phát triển hệ thống xếp hạng quốc tế; - Nguồn tài trợ nghiên cứu công bố quốc tế và nghiên cứu chuyển giao gắn với chiến lược phát triển KT-XH. 2) Chính phủ cần có thiết kế cơ chế chính sách cụ thể để phân bổ nguồn ngân sách công cho trường đại học một cách hợp lí. Hiện nay, hình thức gói tài trợ (block grant) được nhiều quốc gia phát triển ở châu Âu, châu Úc và châu Á áp dụng. Việc triển khai hình thức này mang lại 03 tác động tích cực: - Nhà nước giảm thiểu được một phần về ngân sách tài trợ cho giáo dục đại học; - Chính sách này khuyến khích các trường đại học sử dụng nguồn ngân sách nhà nước một cách hiệu quả và tránh lãng phí; - Cơ chế phân bổ nguồn ngân sách theo hình thức gói tài trợ dựa trên nền tảng đánh giá kết quả hoạt động đào tạo và nghiên cứu cụ thể hàng năm của trường đại học, chẳng hạn như căn cứ vào tỉ lệ tiến sĩ trên tổng số giảng viên cơ hữu, số bài báo công bố quốc tế và trích dẫn từ giảng viên và nghiên cứu sinh, số nghiên cứu được chuyển giao cho các ngành kinh tế và địa phương, số chuyên ngành đào tạo được kiểm định, tài trợ khuyến khích bổ sung cho các quỹ nghiên cứu huy động từ các doanh nghiệp tư nhân và các tổ chức quốc tế. Điều này không chỉ tạo động lực cho các trường phấn đấu nâng cao chất lượng giảng dạy và nghiên cứu, mà còn tạo ra cơ chế cạnh tranh giữa các trường đại học trong việc dành được các gói tài trợ từ chính phủ, từ cơ chế này hệ thống đại học sẽ phát triển bền vững, gắn với các kết quả theo hướng quốc tế hóa. 3) Chính phủ cần nới lỏng các quy định về tài chính cho trường đại học, cho phép hoạt động theo cơ chế như một doanh nghiệp. Đây là tiền đề để trường đại học có thể vay mượn nguồn tài chính từ thị trường tài chính, hoặc mua bán bất động sản, sử dụng các bất động sản để thực hiện kinh doanh dịch vụ gắn với năng lực đào tạo và nghiên cứu nhằm gia tăng nguồn thu phục vụ cho hoạt động. Thông lệ của một số quốc gia phát triển cho thấy, nhà nước cho phép trường đại học sở hữu các hình thức bất động sản như đất và các tòa nhà, được toàn quyền quyết định việc mua bán và sử dụng các bất động sản trên theo chiến lược tổng thể của trường gắn với lợi ích chung của quá trình đào tạo, nghiên cứu và phát triển cơ sở vật chất. Ở một số quốc gia khác, trường đại học có tư cách pháp nhân để thực hiện các giao dịch vay mượn từ thị trường tài chính, đáp ứng nhu cầu phát triển chiến lược của trường đại học. Chính các chính sách trên góp phần nâng cao tính tự chủ của trường đại học, tạo động lực để trường đại học sử dụng nguồn vốn một cách hiệu quả và tối ưu hơn. 4) Sự kết hợp giữa hành lang chính sách của nhà nước và nỗ lực của tự thân trường đại học về đa dạng hóa nguồn thu. Chính phủ cần khuyến khích các trường đại học hoạt động trên tinh thần kinh doanh, đồng thời tạo hành lang chính sách thuận lợi để trường đại học tiến tới tự chủ tài chính thông qua các hoạt động sau: - Cải thiện các nguồn (Xem tiếp trang 6) VJE Tạp chí Giáo dục, Số 439 (Kì 1 - 10/2018), tr 1-6 6 nguồn nhân lực trong xã hội; HĐ tổ chức các hội thi liên quan GDHN cho HS nhằm tạo “sân chơi” để HS phát huy kĩ năng, kĩ xảo, tạo đam mê nghề nghiệp. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2006). Chương trình giáo dục phổ thông (ban hành kèm theo Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/5/2006 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). [2] Bộ GD-ĐT (2017). Kế hoạch số 3255/BGDĐT- GDTrH về việc Hướng dẫn xây dựng kế hoạch giáo dục ngoài giờ lên lớp và các hoạt động trải nghiệm trong trường trung học. [3] Phan Thị Tố Oanh - Nguyễn Hữu Bách (2014). Thực trạng quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp của hiệu trưởng các trường trung học phổ thông thành phố Bà Rịa, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu. Tạp chí Giáo dục, số 341, tr 58-60. [4] Ngô Tuấn Tăng (2008). Thực trạng hoạt động giáo dục hướng nghiệp và dạy nghề phổ thông tỉnh Thái Nguyên. Tạp chí Giáo dục, số 195, tr 56-58. [5] Hoàng Thanh Bình (2017). Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp cho học sinh ở các trường trung học phổ thông huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa. Tạp chí Quản lí Giáo dục, Học viện Quản lí Giáo dục, số 5, tr 77-82. [6] Đỗ Đình Đoàn (2016). Quản lí hoạt động giáo dục hướng nghiệp ở các trường trung học phổ thông quận 4 và quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Tạp chí Giáo dục và Xã hội, số 69 (130), tr 114-118. [7] Nguyễn Hữu Châu - Hồ Văn Thông (2015). Hoạt động giáo dục hướng nghiệp trong trường trung học phổ thông và Trung tâm Giáo dục Thường xuyên - Kĩ thuật hướng nghiệp tại tỉnh Bình Dương. Tạp chí Khoa học Giáo dục, Viện Khoa học Giáo dục Việt Nam, số 112, tr 19-22. TỰ CHỦ TÀI CHÍNH ĐẠI HỌC... (Tiếp theo trang 16) thu hiện có và quản lí tài chính hiệu quả hơn, thể hiện qua việc tối ưu hóa hoạt động thu và chi; - Chủ động tìm kiếm các nguồn thu mới như sự hiến tặng và tài trợ của cựu sinh viên, mua bán bất động sản, vay mượn từ thị trường tài chính và các hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học. Điều này tạo cơ sở cho các trường đại học dần nâng cao năng lực tự chủ và hướng đến mô hình trường đại học tự chủ. Bên cạnh đó, trường đại học cần phát huy tối đa tính chủ động và năng lực đổi mới sáng tạo trong việc tìm kiếm các nguồn thu mới; mạnh dạn triển khai các hoạt động giáo dục và nghiên cứu khoa học theo định hướng thị trường, đáp ứng nhu cầu của các ngành kinh tế nhằm gia tăng tính đa dạng của nguồn thu. 3. Kết luận Những chính sách đề xuất ở trên hi vọng sẽ là bước đầu trong quá trình chuyển dần quyền điều hành từ Nhà nước sang trường đại học trên tất cả các khía cạnh gồm tài chính, học thuật, nhân sự và quản trị tổ chức. Nói cách khác, tự chủ tài chính là tiến trình chuyển đổi cơ chế quản lí hệ thống giáo dục đại học từ mô hình nhà nước điều hành thành mô hình nhà nước giám sát theo thông lệ quốc tế. Tài liệu tham khảo [1] International Association of Universities (1998). Academic Freedom, University Autonomy and Social Responsibility. [2] Chiang, L.C (2004). The relationship between university autonomy and funding in England and Taiwan. Higher Education, Vol. 48 (2), pp. 189-212. [3] Yang, R. - Vidovich, L. - Currie, J. (2007). Dancing in a cage: Changing autonomy in Chinese higher education. Higher Education, Vol. 54 (4), pp. 575-592. [4] Estermann, T. - Nokkala, T. - Steinel, M. (2011). University autonomy in Europe II. The Scorecard. Brussels: European University Association. [5] Australian Government (2006). Research Quality Framework: Assessing the quality and impact of research in Australia. [6] Taylor, J. (2011). The assessment of research quality in UK universities: peer review or metrics?. British Journal of Management, Vol. 22 (2), pp. 202-217. [7] Varghese, N. V. - Martin, M. (2013). Governance reforms and university autonomy in Asia. Paris: International Institute for Educational Planning. [8] Clark, B. (2001). The entrepreneurial university: New foundations for collegiality, autonomy, and achievement. Higher Education Management, Vol. 13 (2). [9] Mora, J. G. - Villarreal, E. (2001). Breaking down structural barriers to innovation in traditional universities. Higher Education Management, Vol. 13 (2). [10] Lê Trung Thành - Đoàn Xuân Hậu (2018). Tự chủ đại học: nhìn từ góc độ tự chủ tài chính tại các cơ sở giáo dục đại học công lập Việt Nam. Hội thảo Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ đại học. NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh. [11] Phạm Tất Thắng - Nguyễn Thị Tuyết Nga (2018). Hoàn thiện chính sách pháp luật về giáo dục đại học để đẩy mạnh quyền tự chủ của các cơ sở giáo dục đại học Việt Nam. Hội thảo Hoàn thiện chính sách, pháp luật về tự chủ đại học. NXB Kinh tế TP. Hồ Chí Minh.
File đính kèm:
- tu_chu_tai_chinh_dai_hoc_theo_thong_le_quoc_te_va_nhung_goi.pdf