Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam

Thành ngữ, tục ngữ là sản phẩm lời

ăn, tiếng nói hàng ngày của dân gian.

Nó kết tinh trí tuệ, tình cảm, truyền

thống văn hóa dân tộc, được đúc kết từ

trong quá trình lao động sản xuất, sinh

sống của con người Việt Nam. Thông

qua thành ngữ, tục ngữ, dân gian đã thể

hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình

về mọi vấn đề trong cuộc sống hoặc đúc

kết những chân lý tự nhiên, xã hội để

truyền bá kinh nghiệm cho người sau.

Là sản phẩm của lời ăn, tiếng nói

hằng ngày của nhân dân, mọi vấn đề

trong đời sống đều được đề cập trong

thành ngữ và tục ngữ. Tư tưởng triết lý

trong thành ngữ, tục ngữ cũng bao trùm

mọi lĩnh vực của đời sống: quy luật

trong lao động sản xuất, quy luật thời

tiết, quy luật đời sống, cách thức ứng xử

hợp lý hợp tình giữa người với người

trong xã hội, giữa con người với thế giới

tự nhiên. Trong đó, thật thú vị khi từ

xa xưa, kinh tế chưa phát triển, việc

buôn bán, kinh doanh còn bị hạn chế

(bởi mô hình sản xuất tự cấp, tự túc) thì

dân gian đã có những tư tưởng đúng đắn

về nghề buôn - hình thức sơ khai của

công việc kinh doanh thời hiện đại.

pdf 10 trang kimcuc 3160
Bạn đang xem tài liệu "Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam

Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 34 
TRIẾT LÝ KINH DOANH TRONG THÀNH NGỮ, 
TỤC NGỮ VIỆT NAM 
BÙI VĂN DŨNG * 
Tóm tắt: Thành ngữ, tục ngữ là kho tàng “triết học dân gian”. Tư tưởng triết 
lý của nhân dân lao động về mọi vấn đề, trong đó có nghề kinh doanh đã được 
đúc rút từ thực tiễn và được chính thực tiễn kiểm nghiệm về tính chân lý. Do 
vậy, dù ra đời từ lâu nhưng những triết lý của dân gian về nghề buôn xưa vẫn 
còn nguyên giá trị và có tác dụng đặt nền móng vững chắc cho việc xây dựng 
triết lý kinh doanh thời hiện đại. 
Từ khóa: Triết lý; triết lý kinh doanh; thành ngữ; tục ngữ. 
1. Mở đầu 
Thành ngữ, tục ngữ là sản phẩm lời 
ăn, tiếng nói hàng ngày của dân gian. 
Nó kết tinh trí tuệ, tình cảm, truyền 
thống văn hóa dân tộc, được đúc kết từ 
trong quá trình lao động sản xuất, sinh 
sống của con người Việt Nam. Thông 
qua thành ngữ, tục ngữ, dân gian đã thể 
hiện cách nhìn nhận, đánh giá của mình 
về mọi vấn đề trong cuộc sống hoặc đúc 
kết những chân lý tự nhiên, xã hội để 
truyền bá kinh nghiệm cho người sau. 
Là sản phẩm của lời ăn, tiếng nói 
hằng ngày của nhân dân, mọi vấn đề 
trong đời sống đều được đề cập trong 
thành ngữ và tục ngữ. Tư tưởng triết lý 
trong thành ngữ, tục ngữ cũng bao trùm 
mọi lĩnh vực của đời sống: quy luật 
trong lao động sản xuất, quy luật thời 
tiết, quy luật đời sống, cách thức ứng xử 
hợp lý hợp tình giữa người với người 
trong xã hội, giữa con người với thế giới 
tự nhiên... Trong đó, thật thú vị khi từ 
xa xưa, kinh tế chưa phát triển, việc 
buôn bán, kinh doanh còn bị hạn chế 
(bởi mô hình sản xuất tự cấp, tự túc) thì 
dân gian đã có những tư tưởng đúng đắn 
về nghề buôn - hình thức sơ khai của 
công việc kinh doanh thời hiện đại. 
Hiện nay, khi các doanh nghiệp đang 
loay hoay xây dựng triết lý kinh doanh, 
văn hóa kinh doanh thì từ xa xưa, ở một 
đất nước căn bản là nông nghiệp lạc hậu 
như nước ta, dân gian đã biết triết lý về 
công việc kinh doanh như: kinh doanh 
mặt hàng gì, cách lựa chọn địa điểm 
buôn bán, nghệ thuật chào hàng, mối 
quan hệ chủ - khách, quan niệm về vốn 
và lãi, mối quan hệ bạn hàng cùng làm 
ăn... Trí khôn và văn hóa dân gian trong 
lĩnh vực buôn bán có thể là một “kênh” 
gợi ý để các doanh nghiệp, doanh nhân 
tham khảo trong quá trình xây dựng văn 
hóa kinh doanh thời hiện đại.(*) 
(*) Tiến sĩ, Trường Đại học Vinh. 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam 
 35 
Ngày nay, trong nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tuy 
những điều kiện về kinh doanh đã thay 
đổi song những triết lý kinh doanh của 
nhân dân lao động đã được thể hiện 
trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam vẫn 
còn có thể gợi mở nhiều bài học quý giá. 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục 
ngữ cần được nhận thức và vận dụng 
linh trong hoạt động kinh doanh. 
2. Quan niệm về nghề buôn 
Kinh doanh là một dạng hoạt động cơ 
bản, tất yếu của con người trong xã hội 
có sản xuất và nhu cầu tiêu dùng. “Hiểu 
theo nghĩa chung nhất thì kinh doanh là 
cách làm giàu của con người trên 
thương trường”(1). “Mục đích chính của 
kinh doanh - với tư cách một nghề (danh 
từ) hay một hoạt động (động từ) - đều là 
đạt được, đem lại lợi nhuận cho chủ thể 
kinh doanh”(2). Thông thường chúng ta 
đồng nhất khái niệm kinh doanh với 
buôn bán nhưng thực chất, kinh doanh 
là lĩnh vực bao gồm ba hoạt động cơ 
bản: sản xuất, buôn bán và dịch vụ với 
mục đích chung nhất là tạo ra lợi nhuận. 
Thời xa xưa, ở Việt Nam chưa xuất hiện 
hoạt động kinh doanh theo ý nghĩa đầy 
đủ của nó mà kinh doanh thường đồng 
nhất với hoạt động buôn bán. Vì vậy, 
triết lý kinh doanh của dân gian trong 
thành ngữ, tục ngữ cũng chính là triết lý 
về nghề buôn. 
Trong quan niệm nghề nghiệp thời 
xưa, nghề buôn bán bị cha ông ta xếp 
cuối cùng trong hệ thống các nghề: sĩ, 
nông, công, thương. Triều đình phong 
kiến thậm chí đã ban hành chủ trương 
khuyến khích nông nghiệp phát triển (“dĩ 
nông vi bản”), hạn chế sự phát triển của 
thương nghiệp (“trọng nông, ức thương”). 
Người buôn bán thì bị gọi là con buôn, bị 
gắn cho những tính cách không tốt đẹp 
như gian dối, lừa gạt, nói năng giảo hoạt, 
không thật lòng: Buôn gian bán lận; Thật 
thà cũng thể lái trâu. Thậm chí, trong 
một bức tranh dân gian cổ ở Bắc Ninh, 
hình ảnh tượng trưng cho nghề thương 
nghiệp được vẽ là hình một anh lái trâu 
đang cố ấn chiếc chạc trâu vào tay người 
nông dân. Chiếc chạc được nối với một 
con trâu gày gò, sừng doãng - loại trâu 
ương bướng, phản chủ, không thể dùng 
để cày bừa. Điều đó phản ánh tư tưởng 
xem thường, có phần kỳ thị của dân gian 
đối với nghề buôn. Chính vì vậy, trong 
suốt một thời gian dài, thương nghiệp 
của nước ta chậm phát triển.(1) 
Dần dần, do sự phát triển của sản 
xuất và nhu cầu tiêu dùng, hoạt động 
buôn bán diễn ra như một điều tất yếu. 
Và dù ít nhiều vẫn còn những kỳ thị thì 
dân gian, bằng trí tuệ rất nhanh nhạy của 
mình, đã nhận ra đây là một nghề có vai 
trò quan trọng. Trước hết, đây được xem 
là nghề đem lại lợi nhuận, là con đường 
làm giàu chính đáng: Phi thương bất 
(1) Nguyễn Thị Ngọc Anh (2013), Văn hóa kinh 
doanh ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc 
gia - Sự thật, Hà Nội, tr. 11. 
(2) Đỗ Minh Cương (2001), Văn hóa và triết lý kinh 
doanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr. 68. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 36 
phú. Hình thức hai lần phủ định trong 
câu tục ngữ (phi...bất...) đã khẳng định 
mạnh mẽ vai trò tất yếu của việc buôn 
bán: chỉ có buôn bán mới mang lại sự 
giàu có, no đủ. Chính vì vậy, dân gian 
quan niệm rằng, việc cho nhau của cải, 
thậm chí cho những thứ rất có giá trị 
như vàng cũng không có ý nghĩa bằng 
việc chỉ bảo con đường đi buôn: Cho 
nhau vàng, không bằng trỏ đàng đi 
buôn. Vàng tuy quý nhưng là tài sản 
hiện thời, trước mắt, ăn tiêu có thể sẽ hết 
nhưng đi buôn sẽ mang lại lợi nhuận lâu 
dài, bền vững. Ngay kể cả trong một 
hình thức tưởng như phủ định vai trò 
của nghề buôn như Buôn thúng, bán bè 
chẳng bằng ăn dè hà tiện chúng ta cũng 
thấy được vị trí quan trọng của nghề 
buôn trong cuộc sống. Nếu như tiết 
kiệm nhằm tích lũy của cải để tạo nên sự 
giàu có bền vững thì buôn bán lại tạo 
nên sự giàu có nhanh chóng. 
Ở thời hiện đại, các học thuyết kinh 
doanh đã chỉ ra mục đích chính của kinh 
doanh là lợi nhuận. Trong khi cách đó 
hàng thế kỷ, cha ông ta đã ý thức được 
rằng kiếm lãi (lợi nhuận) chính là đặc 
trưng của nghề buôn: Buôn ăn lãi, cãi 
mất công. Thậm chí, nghề này được 
cường điệu thành nghề “siêu lợi nhuận” 
và chỉ cần “qua tay” từ đầu chợ đến cuối 
chợ là có lãi: Buôn một, lãi mười; Buôn 
đầu chợ, bán cuối chợ. Chính vì vậy, 
con người nên sử dụng đồng tiền mình 
có để buôn bán thay vì cất giữ trong 
nhà: Tiền trong nhà tiền chửa/ Tiền ra 
ngoài cửa tiền đẻ. Chỉ có buôn bán, 
đồng tiền mới đem lại lời lãi còn cất giữ 
trong nhà, tiền sẽ không sinh sôi, nảy 
nở. Hơn nữa, nếu sử dụng tiền để buôn 
bán đúng cách thì đó cũng chính là cách 
giữ tiền lâu bền nhất: Tiền buôn tiền bán 
thì để trong nhà/ Tiền cờ, tiền bạc thì ra 
ngoài đường. 
Hơn nữa, dân gian còn ý thức được 
một vai trò nữa của nghề kinh doanh 
chính là có thêm các mối quan hệ. Trải 
qua một thời gian dài, con người đã ý 
thức được sự hạn chế của mô hình “tự 
cấp, tự túc” đối với sự thông thương, 
giao lưu trong xã hội. Buôn bán là một 
trong những con đường hiệu quả để kết 
giao, làm quen với nhiều người, biết 
nhiều nơi: Buôn bán chợ đen, thân quen 
nhiều ngách. 
Tuy nghề buôn đem lại nhiều lợi 
nhuận nhưng hơn ai hết, cha ông ta cũng 
rất tỉnh táo khi nhận định: nghề buôn 
kén chọn người và để “buôn may, bán 
đắt” cần phải có “số”: Đi buôn có số, 
làm ruộng có mùa. “Số” không chỉ là số 
phận mà còn là cái “duyên” bán hàng 
trời cho, không phải ai muốn cũng có 
thể làm được. 
Từ xa xưa, dân gian đã nhấn mạnh 
tầm quan trọng của nguồn vốn trong 
buôn bán. Đã đi buôn thì nhất định cần 
phải có vốn. Vốn là điều kiện cần để 
khởi nghiệp, để có lợi nhuận: Có vốn rồi 
mới có lãi. Thậm chí vốn càng nhiều thì 
lãi càng lớn: Cả vốn lớn lãi. Điều này 
cho thấy tư tưởng rất thực tế, tỉnh táo 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam 
 37 
của nhân dân lao động khi nhìn nhận về 
mối quan hệ tỉ lệ thuận giữa vốn và lãi 
trong kinh doanh. 
Bên cạnh những cái “được” mà nghề 
buôn đem lại, dân gian cũng nhận thức 
được đây là một nghề vất vả, đầy khó 
khăn: Buôn thúng bán bưng, Buôn thúng 
bán mẹt, Buôn Sở bán Tần, Buôn ngược 
bán xuôi, Buôn tần bán tảo. Người đi 
buôn thường phải ngược xuôi khắp nơi 
không từ nan, dùng sự tần tảo của mình 
để kiếm lời. Công sức chính là yếu tố 
đem lại lợi nhuận: Lấy công làm lãi. 
Nghề này cũng dễ gặp nhiều thất bại mà 
một trong những thất bại đáng sợ nhất là 
“lỗ vốn”: Buôn trầu gặp nắng, buôn 
đàng gặp mưa, Ham sáu đồng lãi, mất 
năm mươi tư đồng tiền vốn, Đi buôn lỗ 
vốn, làm ruộng mất mùa 
Không những thế, mối quan hệ buôn 
bán lại vô cùng phức tạp. Giữa không 
gian Trăm người bán, vạn người mua, 
việc tị nạnh, giành giật, “ghen ăn tức ở” 
là điều có thực: Hàng thịt nguýt hàng 
cá, Hàng cá đá hàng tôm, Có đắt hàng 
tôi, mới trôi hàng bà. Những mâu thuẫn, 
giành giật ấy tất yếu sẽ ảnh hưởng 
không tốt đến việc buôn bán. Vì vậy, 
dân gian cho rằng người buôn bán cần 
phải có tổ chức phường, hội liên kết để 
bảo vệ quyền lợi: Buôn có bạn, bán có 
phường; Đi buôn nhớ phường, đi đường 
nhớ lối... Phường, hội trong buôn bán 
xưa chính là tiền đề cho sự ra đời các 
hội liên hiệp ngành nghề hiện nay. 
Như vậy, có thể thấy dù buôn bán 
không phải là nghề chính trong xã hội 
Việt Nam thời xưa nhưng cha ông ta 
cũng đã có cái nhìn khá cụ thể, toàn 
diện, chính xác về nghề. Bằng trí tuệ 
tỉnh táo, dân gian đã nhận chân được 
tính hai mặt của nghề buôn: đây là nghề 
làm giàu, có lợi nhuận cao nhưng rất vất 
vả, gian khó, cần sự tảo tần của con 
người mới làm nên sự nghiệp. 
3. Quan niệm về nghệ thuật kinh 
doanh 
Trong kinh doanh, không phải cứ bỏ 
vốn và công sức là dễ dàng thu được lợi 
nhuận. Để bán được hàng và có lãi, nghề 
buôn cần đến “nghệ thuật”, sự khéo léo, 
linh hoạt và huy động rất nhiều kỹ năng 
của người bán hàng. 
Trước hết, đó là kĩ năng lựa chọn sản 
phẩm kinh doanh phù hợp. Mặt hàng 
đem lại lợi nhuận phải đáp ứng nhu cầu 
người tiêu dùng, không thể Bán quạt 
mùa đông, buôn hồng mùa hè. Ngày 
mùa đông, thời tiết lạnh, mọi người 
không có nhu cầu dùng quạt cũng như 
mùa hè không phải là vụ chính của quả 
hồng nên không thể có sản phẩm buôn 
bán lâu dài. Do vậy, nếu buôn bán mà 
không biết nghiên cứu thị trường, không 
biết tìm hiểu sở thích của người tiêu 
dùng sẽ không tránh được bị ế hàng 
hoặc không tìm được nguồn hàng ổn 
định, lâu dài. 
Việc lựa chọn buôn mặt hàng gì còn 
phải căn cứ vào tình hình kinh tế chung: 
Được mùa buôn vải vóc/Mất mùa buôn 
thóc buôn gạo; Nhà giàu mua vải tháng 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 38 
Ba/Bán gạo tháng Tám mới ra nhà giàu. 
Khi được mùa, con người có đủ lúa gạo 
để ăn thì họ mới nghĩ tiếp đến việc mặc 
ấm, mặc đẹp và có tiền dư để may quần 
áo. Buôn vải trong khi được mùa mới 
thành công. Tương tự, buôn gạo vào 
thời điểm mất mùa, khan hiếm lúa gạo 
mới không sợ ế hàng, có lãi. 
Không chỉ có thế, bán mặt hàng gì 
còn phải căn cứ vào thời tiết: Chớ bán 
gà ngày gió, bán chó ngày mưa. Nếu 
bán gà, bán chó ngày mưa gió thì chó, 
gà sẽ bị xù lông, nhìn yếu ớt, bẩn thỉu 
không ai muốn mua hoặc nếu mua cũng 
trả rẻ. Vì vậy, buôn bán mặt hàng gì 
phải tính toán kĩ càng, cân nhắc giữa 
việc đầu tư và thu lợi nhuận kẻo rơi vào 
trường hợp đầu tư lớn nhưng thu lời về 
nhỏ giọt, không tương xứng với số vốn 
đã bỏ ra: Mua trâu, bán chả, Mua vải 
bán áo, Mua quan tám, bán quan tư... 
Nghệ thuật trong buôn bán ngoài việc 
biết chọn mặt hàng còn phải biết chọn 
địa điểm để buôn bán. Đó là nơi phải 
thuận lợi cho người tiêu dùng đến mua: 
Nhất cận thị, nhị cận giang. Buôn bán ở 
chợ có đông đúc người qua lại, gần 
sông, nơi tấp nập người lên kẻ xuống thì 
mới có thể Buôn gặp chầu, câu gặp chỗ. 
Ngoài ra, việc lựa chọn địa điểm buôn 
bán còn phụ thuộc vào đồng vốn: Có 
tiền buôn Đông, không tiền buôn Thái. 
Hướng về phía Đông là hướng về biển, 
tức là giao thương quốc tế, hiểu nôm na 
là buôn bán với nước ngoài. Chỉ người 
có thật nhiều tiền mới dám đầu tư kinh 
doanh trong không gian mới mẻ nhưng 
đầy đa dạng, phức tạp như thế này. 
Trong khi “buôn Thái”, tức là buôn ở 
mạn ngược, miền núi (dân cư nghèo, 
hàng hóa ít tiền) thì không cần đến quá 
nhiều vốn. Vì vậy, cần căn cứ vào khả 
năng vốn để xác định địa điểm buôn bán 
cho phù hợp. Điều này vẫn rất đúng đắn 
với việc kinh doanh ở thời hiện đại. 
Để “buôn may bán đắt”, nghệ thuật 
bán hàng là điều được dân gian đặc biệt 
chú trọng. Không phải ở thời hiện đại 
chúng ta mới có quan niệm “khách hàng 
là Thượng đế” mà từ xa xưa, ông cha ta 
đã rất chú trọng đến việc chiều khách: 
Bán hàng chiều khách. Trong buôn bán, 
lời nói có thể đem lại giá trị vật chất lớn: 
Lời nói quan tiền, thúng thóc. Người 
buôn bán cần phải tươi cười, hòa nhã, 
nói năng nhún nhường, mời chào, “lạy”, 
“dạ” để làm vừa lòng khách: Bán rao 
chào khách, Mua lạy, bán dạ. Có thể 
trên cơ sở nghệ thuật “chào hàng” ấy, 
các doanh nghiệp hiện nay đã phát triển 
thành nghệ thuật marketing, tiếp thị, 
giới thiệu sản phẩm với rất nhiều hình 
thức đa dạng. 
Để buôn bán thành công, việc hiểu 
tâm lý khách hàng là điều quan trọng. 
Tâm lý người bán là muốn nói thách, 
bán đắt để thu lợi nhuận cao. Nhưng tâm 
lý người mua lại thích mua rẻ, ưa trả bớt 
dù người đó giàu hay nghèo: Bán hàng 
nói thách, làm khách trả rẻ; Trong nhà 
có vàng, mua hàng vẫn bớt. Vì vậy, 
người bán cũng đừng lấy đó làm bực 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam 
 39 
mình mà nên biết tâm lí khách hàng để 
nói thách một chút, phòng khi bị trả bớt 
thì vẫn còn có lãi. Tuy vậy, trong buôn 
bán, bao giờ lợi ích cũng khó chia đều 
cho hai bên: Được người mua, thua 
người bán. Vậy nên, con đường hợp tình 
hợp lý nhất mà dân gian hướng tới vẫn 
luôn là: Thuận mua, vừa bán. Điều đó 
làm hài long cả chủ và khách, tránh để 
một bên bị thiệt thòi. 
Điều thú vị là nếu như triều đình 
phong kiến luôn đồng nhất mánh khóe 
buôn bán với “phi đạo đức” thì cha ông 
ta tỏ ra rất “cởi mở” khi thừa nhận mánh 
lới, một chút gian lận trong nghề buôn là 
điều có thực, có thể thông cảm được: 
Bán đong buông, buôn đong be; Lắm 
mồm chị hàng cá, lắm lá chị hàng nem, 
Mua đầy bán vơi... Để tăng lợi nhuận, 
người bán có thể bán “điêu”, cân đong 
vơi đi một chút hoặc độn thêm nguyên 
liệu cho món hàng trở nên đầy đặn hơn. 
Đó là thực tế phổ biến, không thể tránh 
khỏi. Thái độ của dân gian trong trường 
hợp này là “trung dung”, không đồng 
tình cũng không phê phán. Tuy nhiên, 
dường như cha ông ta vẫn muốn hướng 
đến lợi nhuận lâu dài, vững bền bằng con 
đường kinh doanh chính đáng như: Buôn 
tận gốc, bán tận ngọn. Quá trình từ mua 
vào đến bán ra nếu càng qua ít tay trung 
gian, càng rút ngắn khoảng cách người 
bán - người mua thì giá thành sẽ hạ, đồng 
nghĩa với việc hàng bán sẽ dễ dàng hơn 
và lợi nhuận thu về sẽ trọn vẹn mà không 
phải chia sẻ cho bất kỳ ai. 
Trong kinh doanh không thể không 
có những rủi ro. Dân gian đã chỉ ra nguy 
cơ lớn nhất trong kinh doanh là không 
bán được hàng, để hàng tồn đồng nghĩa 
với việc không có lãi và cũng không thể 
thu hồi vốn. Nếu không khéo léo và xử 
lý nhanh rất dễ bị mất cả vốn. Do vậy, 
khi bán hàng, nếu khách trả chưa đủ vốn 
thì nên nài nỉ, chèo kéo, tha thiết nhưng 
nếu khách đã trả qua vốn, chỉ cần có lãi 
chút ít thì nên bán ngay: Trong vốn thì 
nài, ngoài vốn thì buông. Nếu như hàng 
vẫn có nguy cơ tồn đọng thì người bán 
có thể không lấy lãi, chỉ bán giá gốc để 
nhanh hết hàng nhằm thu hồi vốn: 
Chẳng được ăn cũng lăn được vốn, Cầm 
mất lãi, chẳng bằng bán vãi ngay đi. 
Thậm chí tệ hơn, lỗ vốn cũng cần giải 
phóng hàng: Thà bán đổ còn hơn xách 
rổ về không. Các doanh nghiệp ngày nay 
đã chứng tỏ cách thức này đúng đắn khi 
áp dụng các chiêu giảm giá, khuyến mãi 
hay “xả hàng” khi mặt hàng đứng trước 
nguy cơ bị tồn đọng. 
Lương Văn Can ở đầu thế kỷ XX khi 
viết cuốn Thương học phương châm đã 
nhận thức được sự thiết yếu của đạo đức 
trong kinh doanh bởi: “Cổ nhân thường 
khinh sự buôn là mạt nghệ bởi vì người 
đời xưa trọng đạo đức mà khinh công 
lợi, thấy người buôn tham lợi mà ít nói 
thực, sợ mất cái lòng đạo đức đi”(3). Tuy 
(3) Dương Thị Liễu (Chủ biên) (2012), Giáo 
trình Văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế 
quốc dân, Hà Nội, tr. 315. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 40 
nhiên, từ rất lâu trước đó, cha ông đã thể 
hiện tầm nhìn chiến lược khi đặc biệt đề 
cao đạo đức kinh doanh. “Đạo đức kinh 
doanh là một tập hợp các nguyên tắc, 
chuẩn mực, có tác dụng điều chỉnh, 
đánh giá, hướng dẫn và kiểm soát hành 
vi của các chủ thể kinh doanh”(4). Chỉ có 
đạo đức trong kinh doanh mới giúp 
người bán duy trì công việc của mình 
lâu dài. Chính vì vậy, dân gian chủ 
trương nên bán rẻ cho khách hàng, tránh 
vì tham lãi mà để hàng tồn đọng: Bán rẻ 
còn hơn đẻ lãi, Nhiều ăn lãi, ít bán vốn. 
Trong buôn bán, ông cha ta kịch liệt phê 
phán, lên án việc buôn gian bán lận, thật 
giả lẫn lộn để lừa gạt khách hàng: Treo 
đầu dê, bán thịt chó, Bán mướp đắng 
giả làm bầu, Bán mạt cưa giả làm cám, 
Tiền thật mua của giả, Buôn tranh bán 
cướp Điều đó đồng nghĩa với việc cần 
phải buôn bán trung thực, tạo sự tin cậy 
nơi khách hàng. 
Đạo đức trong kinh doanh còn thể 
hiện ở chỗ phải đảm bảo chất lượng 
hàng hóa tương ứng với giá cả: Của rẻ 
là của ôi, Đắt xắt ra miếng. Người buôn 
bán phải tạo được niềm tin bằng việc 
đảm bảo chất lượng hàng hóa sẽ đúng 
với số tiền khách hàng đã bỏ ra: Tiền 
nào của ấy. Khách hàng không nên ham 
rẻ và người bán cũng không nên vì sợ 
bán đắt mà kinh doanh hàng kém chất 
lượng bởi sản phẩm tốt sẽ không bị ế 
hàng: Của ngon ai để chợ trưa. 
Trong buôn bán, việc xử lý mối quan 
hệ giữa người bán và khách hàng cần 
phải linh hoạt, khéo léo. Việc bán như 
thế nào phải căn cứ vào đối tượng khách 
hàng, không phải ai cũng như ai: Ăn lãi 
tùy chốn, bán vốn tùy nơi. Chữ “tùy” 
chính là chỉ sự linh hoạt, “tùy cơ ứng 
biến” của người bán. Rất nhiều khi 
người bán trở thành “nạn nhân” của thói 
gạt nợ, quỵt tiền hoặc cả nể. Vì vậy, dù 
coi trọng đạo đức, tình nghĩa nhưng dân 
gian cũng tỉnh táo khuyên người bán 
nên cứng rắn trong kinh doanh: Bán 
chịu mất mối hàng, Tiền trao cháo 
múc... Khi bán chịu, người mua với tâm 
lý không muốn trả nợ sẽ tìm cách trốn 
tránh, không đến mua hàng lần nữa nên 
sẽ bị mất mối hàng. Vậy nên, một 
nguyên tắc trong kinh doanh là có tiền 
mới có hàng. Nếu trả tiền ngay thì bán 
rẻ, nếu khách hàng mua chịu thì bán đắt 
hơn chút ít; còn nếu trong trường hợp 
buộc phải bán chịu thì người bán cũng 
cần khéo léo điều phối: Rẻ tiền mặt, đắt 
tiền chịu.(4) 
Bên cạnh đó, dân gian vừa khuyên 
người bán nên tạo dựng mối quan hệ 
thân thiết với khách hàng: Quen mặt đắt 
hàng. Nhưng trong buôn bán không 
được “cả nể”. Sự nể nang, mối quan hệ 
ruột thịt sẽ dẫn đến nhiều phiền toái 
(như bán lỗ vốn, bán chịu...) ảnh hưởng 
xấu đến hiệu quả kinh doanh, thậm chí 
mất vốn: Nể cô, nể dì còn gì là vốn. Vì 
(4) Dương Thị Liễu (Chủ biên) (2012), Giáo 
trình Văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế 
quốc dân, Hà Nội, tr. 106. 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam 
 41 
vậy, rạch ròi việc buôn bán với tình 
cảm, quan hệ ruột thịt là điều nên làm. 
Có thể thấy, trong khi bàn về lĩnh vực 
kinh doanh, dân gian đã thể hiện trí tuệ 
sáng suốt, tỉnh táo, rất thực tế nhưng vẫn 
có tình, có đạo đức. Triết lý kinh doanh 
của dân gian hướng đến không phải là 
tìm kiếm lợi nhuận trước mắt theo kiểu 
“ăn xổi ở thì” mà là kinh doanh bền 
vững dựa trên nền tảng đạo đức và văn 
hóa. Kinh doanh có tính toán, có nghệ 
thuật và đạo đức chính là cốt lõi trong 
triết lý kinh doanh mà dân gian muốn 
gửi gắm trong thành ngữ và tục ngữ. 
5. Kết luận 
Tư tưởng triết lý của dân gian bao giờ 
cũng được đúc kết từ thực tiễn và được 
thực tiễn kiểm nghiệm để trở thành chân 
lý. Tuy nghề kinh doanh hiện nay đã có 
nét khác biệt với nghề buôn bán xưa 
nhưng bản chất của hoạt động kinh 
doanh vẫn không thay đổi. Vì vậy, dù có 
những tư tưởng không còn phù hợp với 
thời hiện đại nhưng những triết lý kinh 
doanh của dân gian vẫn còn rất nhiều giá 
trị đối với định hướng kinh doanh của 
các doanh nghiệp, doanh nhân hiện nay. 
Trước hết, để kinh doanh hiệu quả, 
bền vững, các doanh nghiệp cần xây 
dựng triết lý kinh doanh. “Triết lý kinh 
doanh là những tư tưởng triết học phản 
ánh thực tiễn kinh doanh qua con đường 
trải nghiệm, suy ngẫm và khái quát hóa 
của các chủ thể kinh doanh và chỉ dẫn 
cho hoạt động kinh doanh”(5). Đó là tài 
sản tinh thần của doanh nghiệp, là cái 
tinh thần “thấm sâu vào toàn thể doanh 
nghiệp, từ đó hình thành một sức mạnh 
thống nhất”, tạo ra một lực hướng tâm 
chung. Xây dựng triết lý kinh doanh là 
cần thiết bởi nó sẽ góp phần tạo lập nên 
văn hóa doanh nghiệp, là yếu tố có vai 
trò quyết định trong việc thúc đẩy và 
bảo tồn nền văn hóa này, qua đó góp 
phần tạo nên một nguồn nội lực mạnh 
mẽ. Triết lý doanh nghiệp là cơ sở bảo 
tồn phong thái và bản sắc văn hóa của 
doanh nghiệp.(5) 
Thứ hai, trong kinh doanh, doanh 
nghiệp cần bảo toàn vốn bằng mọi giá. 
Hoạt động kinh doanh bao giờ cũng cần 
đến xuất phát điểm là vốn. Có vốn mới 
có lãi và để huy động đủ vốn không phải 
là điều dễ dàng. Tuy nhiên, các doanh 
nghiệp đôi khi vì quá ham lợi nhuận mà 
mạo hiểm đồng vốn, đẩy doanh nghiệp 
đến nguy cơ “mất cả chì lẫn chài”. Do 
vậy, lợi nhuận có thể chưa có, nhiều hoặc 
ít nhưng nhất thiết người kinh doanh phải 
bằng mọi cách để bảo toàn nguồn vốn. 
Và cách mà dân gian đề xuất đó là phải 
đẩy nhanh số lượng hàng bán, không để 
dành hàng hóa chờ lãi cao. Trong trường 
hợp cần thiết, phải “xả hàng” để tránh 
nguy cơ tồn đọng, “vốn chết”. 
Thứ ba, việc hình thành văn hóa kinh 
doanh là điều cần thiết đối với doanh 
nghiệp. “Văn hóa kinh doanh là toàn bộ 
(5) Dương Thị Liễu (Chủ biên) (2012), Giáo 
trình Văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế 
quốc dân, Hà Nội, tr. 72. 
Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(82) - 2014 
 42 
các nhân tố văn hóa được chủ thể kinh 
doanh chọn lọc, tạo ra, sử dụng và biểu 
hiện trong hoạt động kinh doanh tạo nên 
bản sắc kinh doanh của chủ thể đó”(6). 
Thực tiễn kinh doanh ở nước ta những 
năm sau Đổi mới cho thấy, nếu doanh 
nghiệp chỉ quan tâm đến việc tìm kiếm 
lợi nhuận, “ăn xổi” thì sẽ không tạo 
được hình ảnh đẹp và niềm tin nơi 
khách hàng. doanh nghiệp ấy sẽ sớm bị 
đào thải. Chỉ khi xây dựng được văn hóa 
kinh doanh thì doanh nghiệp mới có thể 
kinh doanh một cách... có văn hóa và 
tạo được sự phát triển bền vững. Văn 
hóa kinh doanh biểu hiện cụ thể qua đạo 
đức kinh doanh, nghệ thuật bán hàng, 
nghiêm túc trong việc kiểm soát chất 
lượng hàng hóa, xử lý khéo léo mối 
quan hệ người bán - người mua, doanh 
nghiệp - bạn hàng... 
Thứ tư, việc kinh doanh rất cần đến tổ 
chức. Trong thời trung đại, đó là tổ chức 
phường, hội hoặc một nhóm người cùng 
khu vực buôn bán. Ngày nay, sự liên kết 
ấy có hệ thống, được tổ chức chặt chẽ 
hơn, đó là hội liên hiệp các doanh 
nghiệp cùng ngành nghề. Sự liên kết này 
sẽ giúp doanh nghiệp được được bảo trợ 
quyền và lợi ích khi tham gia vào thị 
trường, đồng thời cũng buộc doanh 
nghiệp phải tuân theo các nghĩa vụ, 
trách nhiệm để đảm bảo lợi ích chung. 
Thứ năm, dù vận dụng triết lý kinh 
doanh trong thành ngữ, tục ngữ ở mức 
độ và cách thức như thế nào thì doanh 
nghiệp cũng cần phải nhận thức được 
rằng, mỗi thành ngữ, tục ngữ là mỗi bài 
học khác nhau, thậm chí giữa chúng còn 
có sự mâu thuẫn bởi bàn về buôn bán, 
kinh doanh là bàn về công việc vô cùng 
phức tạp. Có thể triết lý này áp dụng 
thành công với doanh nghiệp này nhưng 
lại kém hiệu quả với doanh nghiệp khác. 
Vì vậy, không nên áp dụng thành ngữ, 
tục ngữ một cách máy móc mà cần đúc 
rút, tổng hợp triết lý trong thành ngữ, 
tục ngữ để xây dựng triết lý kinh doanh 
phù hợp với doanh nghiệp mình.(6) 
Tài liệu tham khảo 
1. Nguyễn Thị Ngọc Anh (2013), Văn hóa 
kinh doanh ở Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị 
quốc gia - Sự thật, Hà Nội. 
2. Nguyễn Cừ, Nguyễn Thị Huế, Trần Thị 
An (biên tập, 2003), Tuyển tập tục ngữ, ca dao 
Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội. 
3. Đỗ Minh Cương (2001), Văn hóa và triết 
lý kinh doanh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
4. Ngô Đình Giao (Chủ biên) (1997), Môi 
trường kinh doanh và đạo đức kinh doanh, Nxb 
Giáo dục, Hà Nội. 
5. Nguyễn Xuân Kính (Chủ biên), Nguyễn 
Thúy Loan, Phan Lan Hương, Nguyễn Luân 
(2002), Kho tàng tục ngữ người Việt, Nxb Văn 
hóa Thông tin, Hà Nội. 
6. Dương Thị Liễu (Chủ biên) ( 2012), Giáo 
trình Văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế 
quốc dân, Hà Nội. 
(6) Dương Thị Liễu (Chủ biên) (2012), Giáo 
trình Văn hóa kinh doanh, Nxb Đại học Kinh tế 
quốc dân, Hà Nội, tr. 23. 
Triết lý kinh doanh trong thành ngữ, tục ngữ Việt Nam 
 43 

File đính kèm:

  • pdftriet_ly_kinh_doanh_trong_thanh_ngu_tuc_ngu_viet_nam.pdf