Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp

Học thuyết tự do của Trang Tử xuất phát sâu

xa từ những tiềm ẩn văn hoá của văn minh triết

học Phương Đông khi mà hàng ngàn năm Nho

giáo thống trị tư tưởng từ Trung Hoa, Nhật Bản,

Triều Tiên và Việt Nam. Nếu điều đó có thể coi

là phần chìm sự ẩn ức của một hệ tư tưởng có

nhiều biến thái và rất sinh động này, thì tác giả

cảm giác những điều ấy như một khát vọng đi

tìm phương thức trị nước, phương thức sống gần

gũi với thiên nhiên, từ đó chế ngự thiên nhiên

bằng cách hoà hợp với nó.

Lâm Ngữ Đường nhận xét khá thâm thuý về

người Trung Hoa “mỗi con người Trung Hoa là

có một ông Khổng bên ngoài và một ông Lão bên

trong” [1]. Như vậy, trong bản thân Nho giáo đã

tiềm ẩn những ẩn số không nhỏ của Lão giáo và

cho thấy sự giao lưu học thuyết là không thể

tránh khỏi của các triết gia vĩ đại. Điều này cũng

cho thấy những biến thể tư tưởng không làm lu

mờ sự tương quan của các tư duy lớn.

pdf 12 trang kimcuc 3160
Bạn đang xem tài liệu "Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp

Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
82 
Original Article 
Theory of Freedom’s Zhuang Zhi: The Perspective of 
Limitation of Executive Power 
Pham Quang Huy* 
Legal Department, Ministry of Finance, 28 Tran Hung Dao, Hai Ba Trung, Hanoi, Vietnam 
Received 26 April 2019 
Revised 03 June 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: On the basis of the presentation, analyzing the free doctrine of Zhuang Zhi, the author 
explains the origin and the rationale for this doctrine as well as the nature of Zhuang Zhi's free 
philosophy. At the same time, the author also refers to the philosophy of freedom with the doctrine 
of the rule of law, especially the content of executive limitation to freedom. 
Keywords: Theory of freedom, Zhuang Zhi, the rule of law. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: phamquanghuy@mof.gov.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4209 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
83 
Triết lí tự do của Trang Tử: Suy ngẫm và 
tham chiếu cho nghiên cứu hành pháp 
Phạm Quang Huy* 
Vụ Pháp chế, Bộ Tài chính, Số 28 Trần Hưng Đạo, Hai Ba Trưng, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 26 tháng 4 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 03 tháng 6 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Trên cơ sở trình bày, phân tích học thuyết tự do của Trang Tử, tác giả lý giải nguồn gốc 
và lý do hình thành học thuyết này cũng như bản chất triết lý tự do của Trang Tử. Đồng thời, tác giả 
cũng tham chiếu triết lý tự do của Trang tử và học thuyết nhà nước pháp quyền, đặc biệt là nội dung 
giới hạn hành pháp để đảm bảo tự do. 
Từ khóa: Triết lý tự do, Trang Tử, pháp quyền. 
1. Đặt vấn đề* 
Học thuyết tự do của Trang Tử xuất phát sâu 
xa từ những tiềm ẩn văn hoá của văn minh triết 
học Phương Đông khi mà hàng ngàn năm Nho 
giáo thống trị tư tưởng từ Trung Hoa, Nhật Bản, 
Triều Tiên và Việt Nam. Nếu điều đó có thể coi 
là phần chìm sự ẩn ức của một hệ tư tưởng có 
nhiều biến thái và rất sinh động này, thì tác giả 
cảm giác những điều ấy như một khát vọng đi 
tìm phương thức trị nước, phương thức sống gần 
gũi với thiên nhiên, từ đó chế ngự thiên nhiên 
bằng cách hoà hợp với nó. 
Lâm Ngữ Đường nhận xét khá thâm thuý về 
người Trung Hoa “mỗi con người Trung Hoa là 
có một ông Khổng bên ngoài và một ông Lão bên 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: phamquanghuy@mof.gov.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4209 
trong” [1]. Như vậy, trong bản thân Nho giáo đã 
tiềm ẩn những ẩn số không nhỏ của Lão giáo và 
cho thấy sự giao lưu học thuyết là không thể 
tránh khỏi của các triết gia vĩ đại. Điều này cũng 
cho thấy những biến thể tư tưởng không làm lu 
mờ sự tương quan của các tư duy lớn. 
Bên cạnh đó, tác giả còn cho rằng, nhìn từ 
góc độ lịch sử thì việc Việt Nam có ảnh hưởng 
văn hoá Trung Hoa là điều chắc chắn. Do đó, 
những tìm hiểu này còn xuất phát từ những tìm 
tòi lịch sử có lợi cho sự hiểu biết về Việt Nam 
cũng như lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tác giả 
nhận thấy phong cách sống của các danh nhân 
như Nguyễn Công Trứ, hay gần đây là triết gia 
Cao Xuân Huy chắc chắn có ảnh hưởng không 
nhỏ của học thuyết Lão Trang. Điều này cho thấy 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
84 
văn minh Trung Hoa, qua cảm nhận của các nhân 
cách lớn đã trở nên tuyệt vời đến như vậy. Thâm 
thuý hơn, sâu sắc hơn và quan trọng hơn cả là 
gần với cuộc sống hơn. 
Trong lịch sử tư tưởng Việt Nam, sự ảnh 
hưởng văn hoá Trung Hoa, xét riêng từ góc độ 
Trang học là phong cách sống tự do, ẩn mình, 
sáng tạo của nhiều nhân sĩ trí thức Tây học 
nhưng uyên bác Hán học. Có thể kể đến như cố 
triết gia Cao Xuân Huy, nhà văn hoá Đào Duy 
Anh, nhà văn hoá Hoàng Xuân Hãn trong thời 
hiện đại. Quan trọng ở chỗ tác giả rất khâm phục 
những nhân cách lớn ấy và có những cố gắng 
nhất định để thực hành những điều mà tác gỉa 
tâm niệm. Ấy cũng là một lí do không nhỏ để tác 
giả theo đuổi đề tài này. 
2. Tác giả, tác phẩm và uyên nguyên học 
thuyết tự do của Trang Tử 
2.1. Tiểu sử Trang tử. 
Theo Tư Mã Thiên thì: “Trang Tử người 
huyện Mông, tên là Chu. Chu có lần làm lại ở 
thành Tất Viên thuộc huyện Mông, đồng thời với 
Lương Huệ Vương và Tề Tuyên Vương. Học 
thuyết của ông không việc gì không xét đến. 
Nhưng cái gốc là theo thuyết của Lão Tử. Ông 
làm sách có hơn mời vạn chữ, đại để đều theo lối 
ngụ ngôn. Ông làm những thiên Ngư phủ, Đạo 
Chích, Khư kíp để chê cười Khổng Tử và làm 
sáng tỏ học thuyết của Lão Tử” [2]. 
Nguyễn Duy Cần theo thuyết của Tư mã 
Luận trong “Trang Tử Tống nhơn khảo”, cho 
rằng Trang Tử là người nước Tống. Tác giả Tư 
mã Luận cũng cho biết Trang Tử sống vào 
khoảng Lương Huệ Vương nguyên niên và Triệu 
Văn Vương nguyên niên, tương ứng với năm thứ 
6 đời Châu Liệt Vương và năm Châu Văn Vương 
thứ 17, nghĩa là vào khoảng 370 và 298 trước 
Tây lịch kỷ nguyên, đồng với thời của Mạnh Tử, 
Huệ Tử bên Đông phương và Aristotle, Zénon, 
Epicure bên Tây phương. 
Về thân thế, sự nghiệp của Trang Tử cũng 
khá mơ hồ. Ngoài những thiên trong Nam Hoa 
Kinh mà ông tự trở thành nhân vật đối đáp với 
Huệ Tử để bác bỏ học thuyết của học giả danh 
gia phái này ra thì chỉ có một thiên trong Sử ký 
Tư Mã Thiên là có bàn luận về ông. 
Ta thấy rằng học thuyết của ông khởi từ Lão 
Tử, và dường như ông cha bao giờ xa rời cái tôn 
chỉ ấy. Tôn chỉ “bất ngôn chi giáo” đó đã hoàn 
toàn hơn bao giờ hết trong phong cách sống tiêu 
diêu, thuận theo tự nhiên, không xu nịnh công 
quyền. Đoạn trích Thần Quy đã phần nào thể 
hiện được con người và nhân cách của ông. 
Xưa Trang Châu chiêm bao thấy mình là b-
ướm, vui phận làm bướm, tự thấy thích chí, 
không biết là Châu nữa. 
Chợt tỉnh giấc, lại thấy mình là Châu. 
Không biết Châu chiêm bao là bướm, hay 
bướm chiêm bao là Châu? 
Châu và bướm ắt phải có tính phận khác 
nhau. Ấy là Vật hoá [3]. 
Sự nghĩ này đã đưa Đạo đạt lý, đạt tình. 
Thông hiểu cái lòng vật hóa của vạn vật. Cảm 
được cái tình lồng lộng của nhân sinh. Tất thảy 
đều hài hoà trong tư duy của Trang Tử. Cho thấy 
một con người học Đạo, hiểu Đạo và hướng tới 
chỗ đạt Đạo. 
2.2. Tác phẩm Nam Hoa Kinh. 
Nam Hoa Kinh tác phẩm duy nhất và cũng là 
tác phẩm văn học – triết học bất hủ của Trang 
Tử. Sách này có thuyết cho rằng chính có 52 
thiên, nhưng truyền đến chúng ta còn 33 thiên, 
bản do Quách Tượng san định là phổ thông hơn 
cả, và là bản mà tác giả sử dụng trên cơ sở bản 
dịch Việt ngữ của ông Thu Giang Nguyễn Duy 
Cần. Nam Hoa Kinh được người đời sau chia ra 
thành: Nội thiên, Ngoại thiên và Tạp thiên. 
Trong đó, Nội thiên gồm 07 thiên với Tiêu Diêu 
Du là thiên khả dĩ thể hiện sâu sắc và tinh túy 
hơn cả triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử. 
Ngoại thiên gồm 15 thiên; Tạp thiên gồm 11 
thiên. Tô Đông Pha đời Tống trong Trang Tử từ 
đường ký (dẫn theo Thu Giang Nguyễn Duy Cần, 
Trang Tử), cho rằng: Phân biệt các chương, đặt 
tên các thiên là do nơi thế tục, không phải bản ý 
của Trang Tử. 
Như vậy, cũng như Lão Tử, Trang Châu 
dường như cho rằng việc viết ra những suy nghĩ 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 85 
về Đạo đã đi ngược lại sự thông hiểu Đạo, đi 
ngược lại thuyết bất ngôn chi giáo mà các ông 
chủ trương. Hai triết gia đã dằn lòng mình để làm 
trái lại những gì mình suy nghĩ, điều này thể hiện 
ở việc, mỗi triết gia để lại cho đời một cuốn sách, 
dường như điều đó, theo các ông, đã là quá lắm, 
quá lắm rồi. Nhưng ấy lại là một điều may mắn 
cho hậu thế. Bởi các ông đã truyền lại cho đời 
sau những suy nghĩ, những cảm nhận về một hệ 
thống triết học nhất nguyên, trong đó nguyên lí 
tự do tuyệt đối mang ý tứ sâu xa về một phương 
thức sống tiêu diêu, phóng khoáng. Điều này sẽ 
được bàn kĩ hơn ở phần sau. 
Nam Hoa Kinh là tác phẩm mang tính chất 
ngụ ngôn, phóng dụ. Văn phong hài hoà, ý tứ. 
Tuy rằng việc phân biệt chân nguỵ tư tưởng 
Trang Tử là không phải dễ, nhưng điều đó lại 
thật sự thú vị. Thu Giang Nguyễn Duy Cần cho 
rằng Nội thiên là mang ý vị chân chính của Trang 
Châu hơn cả, đặc biệt là thiên Tiêu Diêu Du. 
Ngoài ra một số thiên khác trong Ngoại thiên và 
Tạp thiên cũng có phong vị Trang Tử còn việc 
có phải do chính Trang Tử viết ra không thì đó 
là một câu chuyện cần bàn bạc kỹ lưỡng và sẽ 
mất khá nhiều thời gian. Theo tác giả thiết nghĩ 
thì Trang học cũng như các học phái khác, việc 
uyên nguyên ý chỉ thường càng về sau càng bị 
sai lạc đi rất nhiều. 
Nếu xét Nam Hoa Kinh trên phương diện 
văn học, thì quả thật ngôn ngữ trong tác phẩm 
nhiều chỗ đã đạt đến tuyệt bút. Dụ, luận gắn kết 
với nhau chặt chẽ, tới lui có quy củ. Văn phong 
nhàn tản, tiêu diêu, có khí vị của mây gió. Bay 
đấy mà trôi đấy. Chảy đấy mà rơi đấy. Hơi văn 
có sức sống nảy nở của mùa xuân, có cái giá lạnh 
của mùa đông. Đôi lúc lại man mác như thu về. 
Có khi lại rực rỡ hè sang. Vạn hoá luân chuyển 
luôn luôn không ngừng nghỉ. 
2.3. Uyên nguyên triết lý tự do của Trang tử 
Triết lí tự do của Trang Tử được thể hiện 
bàng bạc trong văn phong của Trang Tử, nhưng 
kể đến uyên nguyên sâu xa triết lí ấy, không thể 
không nhắc tới học thuyết triết học của Lão Tử 
trong Đạo Đức Kinh. Nguồn cội triết lí Trang Tử 
nói chung được nhiều học giả cho rằng khởi lên 
từ sự học của Lão Tử. Theo đó, “Học thuyết của 
ông không có việc gì là không xét đến. Nhưng 
gốc là theo thuyết của Lão Tử” [4]. 
Như vậy, sự học của Lão Tử có thể coi là gốc 
của cái học Trang Tử. Nhưng qua bộ óc vĩ đại 
của mình, triết gia họ Trang đã thể hiện riêng biệt 
ra lối học của mình trong “Nam Hoa Kinh”, sâu 
sắc châm biếm bằng những ngụ ngôn hóm hỉnh, 
hài hước và ý tứ. Suy ngẫm sự học của Lão cũng 
như của Trang, nếu chỉ suy xét theo câu chữ thì 
sự nghĩ đó thật là tệ hại. Điều khó là biết thả lòng 
theo hơi văn, dốc ruột mình theo tứ, cảm chân ý 
của mình theo khí văn, may chăng mới hiểu được 
đôi chút tấm lòng của cổ nhân. 
Lão Tử người làng Khúc Nhân, Hưng Lệ 
huyện Khổ, nước Sở, họ Lý, tên tự là Bá Dương, 
tên thuỵ là Đam. Ông là quan sử giữ nhà chứa 
sách của nhà Chu. Khổng Tử đến Chu, muốn hỏi 
Lão Tử về lễ, Lão Tử nói: 
- Những người ông nói đều đã tan xương nát 
thịt cả rồi, chỉ còn lời nói của họ thôi. Vả lại, 
người quân tử gặp thời thì xe ngựa ngênh ngang, 
không gặp thời thì như cỏ bông xoay chuyển. Tôi 
nghe nói : Người buôn giỏi thì biết giấu của báu, 
khiến người ta thấy dường như không có hàng; 
người quân tử có đức tốt thì diện mạo dường như 
ngu si. Ông nên bỏ cái khí kiêu ngạo cùng cái 
lòng ham muốn nhiều, cái vẻ hăm hở cùng cái 
chí tham lam đi. Những cái đấy đều không có 
ích gì cho ông; tôi chỉ bảo ông có thế thôi. 
 Khổng Tử đi ra, bảo học trò: 
- Con chim, ta biết nó bay, con cá ta biết nó 
lội, con thú ta biết nó chạy. Đối với loài chạy thì 
ta có thể dùng lưới để săn, đối với loài lội thì ta 
dùng câu để bắt; đối với loài bay thì ta có thể 
dùng tên để bắn; đến như con Rồng cưỡi mây cưỡi 
gió lên trời, ta không sao biết được. Hôm nay gặp 
Lão Tử, ông ta có lẽ là con Rồng chăng? [5]. 
Trên đây là những dòng trích dẫn trong Sử 
ký Tư Mã Thiên, nó đã cho ta những hiểu biết sơ 
khởi về học thuyết của Lão Tử. Ông quan niệm 
không làm mà như làm. Tác giả cần trao đổi về 
vấn đề này - vấn đề Vô vi nhi vô bất vi - bởi theo 
tác giả đây không phải là biểu hiện của chủ nghĩa 
xuất thế hay yếm thế. Nếu bàn như vậy thì sự 
thực chưa hiểu hết tấm lòng của cổ nhân. Tác giả 
thiết nghĩ học thuyết của Lão Tử chỉ gợi mở sự 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
86 
tìm hiểu tự nhiên dưới góc độ nhất nguyên và sau 
đó là thuận theo nó. Tư tưởng yếm thế xuất thế 
là do người sau hiểu và thực hành theo cách hiểu 
những chỉ dạy của Lão Tử. Trong phần sau tác 
giả sẽ bàn kĩ hơn nữa vấn đề này. 
Về thân thế của Lão Tử, ngoài sự mơ hồ 
được viết trong Sử Ký Tư Mã Thiên ở Lão Tử 
Truyện được dẫn ra ở trên thì không còn gì khác 
trong chính sử. Có lẽ đây cũng là một ẩn ý trong 
phong cách sống của triết nhân khi lời ông phô 
diễn trong Đạo Đức Kinh chính là sự trở về với 
Đạo. Chính vì vậy, ngay cả việc viết ra tác phẩm 
triết học bất hủ này thì ông cũng đã dằn lòng 
mình, làm trái với lòng minh khi bắt buộc phải 
để lại chút danh cho hậu thế. 
Phùng Hữu Lan cho rằng cuốn Đạo Đức 
Kinh được viết ở vào khoảng sau thời đại của 
Huệ Thi và Công tôn Long, nghĩa là sau thời đại 
của Khổng Tử khá lâu. Ông lập luận dựa trên cơ 
sở đạo vô danh của Lão Tử nhằm phản bác phái 
danh gia của hai vị trên, có danh rồi mới xuất 
hiện vô danh, do đó tác phẩm triết học của Lão 
Tử phải xuất hiện sau những tác phẩm của phái 
danh gia. Đó là điều cần xem xét và tìm hiểu kĩ 
[6]. 
Cũng theo ông Phùng Hữu Lan thì có ba giai 
đoạn của triết học Đạo gia: 
1. Giai đoạn thứ nhất là giai đoạn triết học vị 
kỷ của Dương Chu 
2. Giai đoạn thứ hai là Lão Tử với tác phẩm 
đang bàn luận Đạo Đức Kinh bắt đầu nâng cao 
và phổ diễn học thuyết vô danh, đạo thường và 
trở lại cái động của Đạo (chương 40) 
3. Giai đoạn thứ ba là Nam Hoa Kinh của 
Trang Tử, với triết học tự do tuyệt đối, hạnh 
phúc tuyệt đối, thuyết Thiên Quân và Vạn Hoá. 
Thông qua những câu chuyện ngụ ngôn hài hước 
và ý vị trong Nam Hoa Kinh 
Theo lí thuyết này thì nguồn gốc sâu xa của 
Đạo cũng như triết học của Trang Tử, cần tìm 
hiểu ở cả ba giai đoạn nêu trên, thế nhưng theo 
tác giả bản thì việc tìm hiểu uyên nguyên triết lí 
tự do tuyệt đối của Trang Tử thì sự nghiên cứu 
trong học thuyết triết học vô vi nhi trị và Đạo của 
Lão Tử trong Đạo Đức Kinh là hợp lí hơn cả. Do 
đó, sau đây, tác giả sẽ trình bày hai luận điểm 
nêu trên. 
a) Đạo 
Chúng ta hãy cùng nhau theo dõi thiên đầu 
tiên rất tinh hoa và ý tứ như một tuyên ngôn học 
phái của Lão Tử: “Đạo khả Đạo, phi thường 
Đạo, Danh khả Danh, phi thường Danh”(Đạo 
(mà ta) có thể gọi được, không (còn) phải là Đạo 
thường, Danh mà ta có thể gọi được, không còn 
phải là Danh thường) 
Bản thể Đạo chính là nguyên lí tuyệt đối, đó 
cũng chính là xương sống tư tởng Lão Tử. Đạo 
không thể nắm lấy, sờ thấy được mà phải cảm 
nhận bằng trực giác và nhiều khi cả tâm linh nữa. 
Trong hơi văn của tác phẩm, ta thấy có điều gì 
như sự quay vòng, sự điệp trùng của ngôn ngữ, 
điều này khơi gợi khá nhiều trong tâm thức ta khi 
đọc và tìm hiểu bản chất của Đạo. Đạo phải 
chăng là nguyên lí tuyệt đối dọc và Đức là 
nguyên lí tuyệt đối ngang như ở phần trên đã mô 
tả trực quan bằng hình ảnh tờ giấy được xoay 
theo bốn phương tám hướng. Cái không gian sự 
sống dọc ngang này khơi gợi rất nhiều điều trong 
suy ngẫm của ta. Sự biến ảo của vũ trụ. Sự khôn 
lường của thời gian. Nhưng trong cảm nhận của 
tác giả về Đạo Đức Kinh. Tất cả đều quy về Một. 
Một chính là Mẹ của Không Thời gian. Đạo lan 
toả trong không gian như không khí dưỡng nuôi 
trời đất, cỏ cây, muôn vật và loài người. Nó bàng 
bạc trong tiềm thức và dường như là khó có thể 
nhận ra được. Ý niệm triết học của Lão Tử hướng 
tới học thuyết nguyên lí tuyệt đối. Có điều gì 
xuyên suốt trong tâm thức của sự sống. 
Đạo không bất biến. Đạo biến ảo như thể trò 
chơi trốn tìm của cuộc sống. Hiểu được nó không 
chỉ có một công việc đọc sách, mà hơn thế là  ...  trị đích thực của tự do. 
Nếu phương Đông đi từ sự hoà hợp tự nhiên 
và dần dần đẩy thành triết lí tự do thì phương Tây 
trong tư tưởng của họ được phát triển và đi lên 
từ những cuộc cách mạng. Tóm lại tư duy của 
phương Tây đi lên từ sự phát triển về vật chất của 
con người dẫn đến những biến đổi tương đương. 
Bên cạnh đó tư duy tự do của phương Đông là sự 
hoà hợp giữa con người với tự nhiên từ thể xác, 
tâm hồn và tư tưởng. Mỗi con đường một khác 
nhưng con đường tư tưởng từ Đạo của Lão Tử 
đến tự do tuyệt đối của Trang Tử là một sự phát 
triển hiếm có trong lịch sử tư tưởng nhân loại. 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
90 
Tóm lại, Cao Xuân Huy nhận định về triết lý 
tự do của Trang Tử như sau: “Trong trạng thái tự 
nhiên con người được hưởng tự do tuyệt đối và 
bình đẳng tuyệt đối. Con người phải có tự do 
tuyệt đối mới thuận theo tính tự nhiên của mình 
để được hưởng hạnh phúc” [9]. 
3.3. Từ tự do đến vô vi 
Nếu Lão Tử với học thuyết Đạo và diễn giảI 
thành vô vi vô bất vi, thì Trang Tử lại tư duy theo 
đó như một phương thức trị nước vô vi nhi trị. 
Xét ở một khía cạnh nào đó, mỗi triết gia tuy 
cùng học phái nhưng đã không ngừng tạo ra 
những nét riêng biệt về tư tưởng. Ở đây, đó là 
triết lí tự do của Trang Tử và vô vi theo cách 
nghĩ của ông. Trang Châu suy nghĩ dựa trên hai 
phương diện: 
Thứ nhất, tự do được hiểu theo nghĩa sống 
sát hợp với tự nhiên, thích hợp với tự nhiên, hoà 
theo tự nhiên. Từ ý niệm này có thể đẩy lên theo 
những tương quan logic khác nhau về học thuyết. 
Có cảm nghĩ điều này ông tư duy cho một bản 
thể, từ đó suy ra cho bản thể vũ trụ. Học thuyết 
của ông vì thế nhuốm màu chủ quan của tư tưởng 
tự do cá nhân. Điều này càng lạ lùng khi có đôI 
điểm trùng hợp trong tư duy Đông Tây. 
Thứ hai, Trang Châu suy xét trên bình diện 
phương thức trị nước được thể nghiệm dưới hình 
thức vô vi nhi trị. Điểm này có ý trùng khớp và 
phát triển lên từ học thuyết chính trị của Lão Tử. 
Ông tư duy trên mô thức trị quốc xuất phát từ 
việc tôn trọng sự hoà hợp của bản thể với vũ trụ. 
Nói khác đi là sự tôn trọng của chính quyền đối 
với tự do tuyệt đối của con người. Một điều chắc 
chắn đây là điểm trùng hợp khá ngẫu nhiên với 
triết lí tự do cá nhân và tiếp sau đó là giới hạn 
chính quyền của Tây phương. 
Nếu suy nghĩ theo hai quan điểm nêu trên, ta 
có cảm giác như đang cố gán ghép học thuyết tự 
do tuyệt đối của Trang Châu vào một khía cạnh 
mới của học thuyết nhà nước pháp quyền. Không 
hẳn là như vậy khi Trang Tử suy nghĩ phát khởi 
từ triết thuyết vô vi của Lão Tử và phát triển nó 
thành phương thức sống tiêu diêu. Phương Tây 
và phương Đông thiết nghĩ chưa hẳn đã tư duy 
một cách trùng khít nhưng ít ra đã có một số giao 
lưu về mặt tư tưởng. Mọi con đường đều dẫn đến 
La Mã. Đó là một câu châm ngôn của người 
phương Tây. 
4. Từ triết lý tự do của Trang Tử đến việc 
nghiên cứu hành pháp trong bối cảnh xây dựng 
Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay 
4.1. Tham chiếu triết lý tự do của Trang tử và 
học thuyết nhà nước pháp quyền. 
Việc suy ngẫm triết lí tự do của Trang Tử 
phục vụ cho hành pháp là một ý tưởng mới, lạ 
lẫm và nhiều khi là chưa thuyết phục. Chính vì 
thế, trước khi tích hợp hai vấn đề nêu trên, thì tác 
giả sẽ giải quyết trước tiên câu hỏi sau: (1) triết 
lí tự do của Trang Tử có liên quan tới học thuyết 
tự do của Tây phương hay không và nếu có thì 
như thế nào; (2) sau khi giải quyết câu hỏi trên, 
chúng ta sẽ cùng nhau bàn bạc xem việc xuất 
phát từ triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử thì 
cần làm gì để đảm bảo tự do nếu đứng góc độ 
của hành pháp (còn về thuật ngữ “hành pháp”, 
tại bài viết này được hiểu trên phương diện công 
việc của chính quyền trong việc quản lí xã hội 
bằng quyền lực nhà nước). 
Triết lí tự do của Trang Tử có liên quan tới 
học thuyết tự do của Tây phương hay không. Câu 
hỏi này đặt ra nhằm giải quyết vấn đề có hay 
không có sự tương quan giữa học thuyết phương 
Tây và phương Đông hay chỉ là sự gán ghép của 
tư duy con người. Việc tìm hiểu những luận cứ 
khoa học nhằm kiến giảI thoả đáng điều này hẳn 
nhiên là không phải dễ, tuy nhiên, đó lại là một 
tiền đề có lí để tiếp tục trong phương án tìm 
nguyên do của sự hạn chế quyền lực nhà nước 
(chữ dùng của PGS.TS Nguyễn Đăng Dung). 
Trong tác phẩm cùng tên của mình PGS.TS 
Nguyễn Đăng Dung đã cho rằng việc hạn chế 
quyền lực là vô cùng cần thiết và ông kiến giải 
nguyên nhân của sự hạn chế này chính là việc 
đảm bảo tự do cho con người cũng như những 
quyền nguyên thuỷ của họ [10]. 
Lê Đình Chân nhìn nhận nguyên do của sự 
hạn chế chánh quyền cũng như nguồn gốc của lý 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 91 
thuyết tự do công cộng: “Thiệt ra, khái niệm hạn 
chế chánh quyền bắt nguồn ở Thiên chúa 
giáo.Trước hết, theo Jesus Christ, con người ta 
được quan niệm như là hình ảnh của thần linh. 
Do đó, con người ở trên đoàn thể. Thứ chi: sự 
hiện hữu của Giáo hội Thiên chúa (Eglise 
catholique) đưa đến sự phân biệt giữa quyền 
chánh trị và quyền tôn giáo, thời Trung cổ, đã 
thất bại.” [11]. Như vậy, theo ông Lê Đình Chân 
thì học thuyết “hạn chế chánh quyền” là phát 
xuất từ lí thuyết tự do công cộng, và lí thuyết này 
thì tiên khởi từ Thiên chúa giáo. Tôn giáo này 
cho rằng cá nhân con người đứng trên đoàn thể, 
và như vậy quyền khởi thuỷ, quyền tự nhiên của 
họ phải được tôn trọng hơn quyền lực của chính 
quyền. Từ đây xuất phát lên những đặc điểm cơ 
bản của quyền nguyên thủy của con người cũng 
như ý niệm chính quyền phải tôn trọng nhân 
phẩm, có vậy quyền con người mới được thực 
thi. Khi bình luận về lý thuyết tự do của Trang 
Tử, Cao Xuân Huy cũng chỉ ra điều kiện của tự 
do tuyệt đối: “Bình đẳng tuyệt đối là điều kiện 
của tự do tuyệt đối, vì rằng nếu thừa nhận giữa 
người và người, vật và vật, người này có cái gì 
hơn người kia, vật này có cái gì hơn vật kia, thì 
tức là người nào hơn, vật nào hơn phải cải tạo 
người nào kém, vật nào kém, như thế thì những 
người, những vật bị cải tạo không được hoàn 
toàn được tự do nữa” [12]. 
Theo Herbert J. Muller, xét từ góc độ lịch sử, 
triết lý tự do của phương Tây được hình thành 
theo chiều dài lịch sử Thiên chúa giáo, các cuộc 
Thập tự chinh Trung cổ, thấm đẫm máu và nước 
mắt [13]. Từ dặm dài lịch sử, người phương Tây 
mới định nghĩa tự do thành: quyền nói, hành 
động không bị cản trở hoặc kiềm chế; điều kiện 
hoặc quyền có thể hoặc được phép làm, nói, suy 
nghĩ bất cứ điều gì bạn muốn, mà không bị 
kiểm soát hoặc giới hạnKinh điển là định 
nghĩa tại Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ: “Mọi 
người sinh ra đều bình đẳng, Tạo hóa ban cho 
họ những quyền bất khả xâm phạm, trong những 
quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và 
quyền mưu cầu hạnh phúc” (all men are created 
equal, that they are endowed by their Creator 
with certain unalienable Rights, that among 
these are Life, Liberty and the pursuit of 
Happiness) [14]. 
Đối chiếu với triết lí tự do của Trang Tử, ta 
thấy rằng điều này có điểm tương đồng. Tương 
đồng ở chỗ Trang Tử cũng cho rằng việc con 
người cần sống thuận theo tự nhiên, kẻ trị thiên 
hạ cũng vậy, phải nương theo tự nhiên để phòng 
và giữ thiên hạ. Một khi anh đã thuận theo tự 
nhiên để sống, nói khác đi anh phải được tự do 
để làm theo điều đó. Bên cạnh việc tự do để sống 
thuận theo tự nhiên, anh cần hiểu bản chất của sự 
vật ở tầm cao, có thế anh mới đạt được hạnh phúc 
tuyệt đối. Như vậy, trong học thuyết của ông có 
nhắc đến tự do, để khởi từ đây, ông chỉ ra phép 
trị nước tựa như việc chăn ngựa, chỉ cần ngừa 
những tính xấu của nó. Như ông đã viết trong 
thiên Tại Hựu: Ta nghe Phòng và Giữ thiên hạ, 
chứ không nghe chuyện trị thiên hạ. Phòng, là sợ 
thiên hạ đắm đuối mà mất Tánh; Giữ, là sợ thiên 
hạ dời đổi mà mất Đức. Thiên hạ mà không đắm 
đuốiđến mất Tánh, không dời đổi đến mất 
Đức,tại sao lại có chuyện trị thiên hạ? [15]. Đây 
là học thuyết khởi phát từ triết luận vô vi nhi trị 
của Lão Tử đã bàn ở trên. Tuy nhiên nếu đứng ở 
phương diện so sánh giữa học thuyết tự do công 
cộng của Phương Tây và lí thuyết tự do tuyệt đối 
của Trang Tử thì ắt hẳn đều thống nhất ở điểm 
cần tôn trọng tự nhiên, tự đó tôn trọng những 
quyền nguyên thuỷ của loài người. 
Từ những kiến giải nêu trên, tác giả cho rằng 
chắc chắn có mối tương đồng giữa hai học thuyết 
tự do của phương Đông và phương Tây. Tác giả 
không tư duy từ phương diện là cả hai nhà thuỷ 
tổ của lí thuyết ấy nghĩ giống nhau. Không có 
chuyện Trang Tử nghĩ y như Đức Chúa Ki – tô 
và ngược lại ngẫu nhiên mà Đức Chúa Ki – tô 
nghĩ không khác gì Trang Tử. Nếu tư duy như 
vậy thì ắt hẳn đây là một sự áp đặt không hơn 
không kém. Do đó, ở những luận giảI nêu trên 
thì tác giả đã khẳng định là chỉ có tương quan 
giữa hai học thuyết về sự tôn trọng tự nhiên và 
con người, ngoài ra còn sự ngẫu nhiên nào không 
thì tác giả chưa kiểm chứng được. 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 
92 
4.2. Giới hạn hành pháp để đảm bảo tự do - một 
hướng nghiên cứu về hành pháp trong điều kiện 
xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. 
Nguyễn Đăng Dung chia ra các hình thức 
hạn chế quyền lực nhà nước như sau : 
1. Hạn chế quyền lực nhà nước từ bên trong: 
việc phân chia, phân công, phân nhiệm và tự 
kiểm tra bằng cơ chế kìm chế đối trọng; việc 
chính phủ phải chịu trách nhiệm. 
2. Hạn chế quyền lực nhà nước từ bên ngoài 
như việc thực thi tự do báo chí; việc công khai 
hoá, minh bạch hoá chính quyền; hay việc bỏ 
phiếu trưng cầu dân ý; hoặc ngay như sự vô tư, 
độc lập của tư pháp cũng là một phương thức 
thực hiện hạn chế quyền lực nhà nước. 
3. Ngoài ra các nội dung khác cơ bản của 
triết lí hạn chế quyền lực nhà nước còn ở chỗ 
phải bảo đảm nhân quyền không bị vi phạm cũng 
như các chức danh quan trọng của nhà nước cần 
được bầu cử và có nhiệm kì. 
Bên cạnh đó tham chiếu với triết lí tự do 
tuyệt đối của Trang Tử và học thuyết vô vi nhi trị 
mà ông phát triển của Lão Tử thì có hai điểm 
tương đồng sau: 
Thứ nhất, quyền tự nhiên của con người phải 
được tôn trọng. Nếu như Trang Tử nhìn ở góc độ 
sống thuận theo tự nhiên nghĩa là ở tầm tiền đề 
luận, thì các học giả đương đại nhìn từ khía cạnh 
phát triển của vấn đề. Có sự thừa nhận học thuyết 
giữa hai bên. 
Thứ hai, việc minh bạch và công khai hoá 
chính quyền. Đối với Trang Tử là ở triết thuyết 
phòng và giữ thiên hạ, còn các học giả thời hiện 
đại thì lấy đó là sự minh bạch hoá chính quyền. 
Nói nôm na nghĩa là nếu kẻ phòng và giữ thiên 
hạ (như chữ dùng của Trang Tử) sống thuận theo 
tự nhiên, trong sáng như tự nhiên, thì không cần 
trị thiên hạ vẫn tuân phục. Hình ảnh gương mẫu 
của một lãnh tụ có ý nghĩa hơn rất nhiều so với 
những tập bàI giảng đồ sộ về luân lý. Đó là ý kiến 
của Trang Châu. 
Hai điểm tương đồng nêu trên là những suy 
luận có lí từ việc đối chiếu góc nhìn của hai học 
thuyết. Lý giải cho yếu tố mà có thể coi là gượng 
gạo khi sắp đặt hai vấn đề ở đây chính là địa dư 
và lịch sử. Người phương Đông sống ở một vùng 
có địa dư khí hậu khác với người phương Tây, 
bên cạnh đó thời mà Trang Tử sống là một giai 
đoạn có nhiều biến động của lịch sử Trung Quốc. 
Do đó sự tương đồng mà tác giả nêu trên ắt hẳn 
có những lu mờ nhất định nếu nhìn theo độ lùi 
của lịch sử và phân tích dựa trên cảm quan địa lí 
tự nhiên. nếu độc giả nào quan tâm có thể xem 
cuốn Đại cương triết học sử Trung Quốc, trong 
đó, nhà triết học sử Phùng Hữu Lan sẽ minh thị 
hơn nữa vấn đề này. 
Như vậy, triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử 
có tương quan nhất định đối với học thuyết tự do 
công cộng của các học giả cận hiện đại. Do đó 
quá trình suy luận trên hoàn toàn hợp lôgic để 
minh thị một số vấn đề học thuyết triết học 
phương Đông và sau sẽ làm nền tảng áp dụng 
trong tư tưởng nghiên cứu. Đây cũng là một hữu 
ích trong nghiên cứu tư tưởng Đông phương. 
Thuật ngữ nhà nước pháp quyền nên được 
hiểu theo khái niệm Anh Mỹ như thể là cụm từ 
“the rule of law”. Nghĩa là trong một chế độ công 
pháp mà mọi sự đều được hành xử dưới sự suy 
xét của pháp luật. Pháp luật là tối cao như thể 
dòng chữ được đắp nổi trên vòm cổng của Tối 
cao Pháp viện Hoa Kỳ “Equal Justice Under 
Law”) (Công bình Công lý dưới Luật). Điều này 
cho thấy sự thượng tôn pháp luật trong một nhà 
nước pháp quyền. Tiếp theo những tìm hiểu 
mang tính cơ bản nhất về nhà nước pháp quyền 
làm cảnh huống cho những suy nghĩ về việc giới 
hạn hành pháp để đảm bảo tự do. Như trên đã tìm 
hiểu về việc giới hạn chính quyền xuất phát tự ý 
nghĩ thượng tôn cá nhân trên đoàn thể trong giáo 
lí của Thiên chúa giáo. Từ đây xuất phát cho việc 
giới hạn chính quyền nhằm đảm bảo cho sự tồn 
tại của cá nhân trước đoàn thể, quốc gia hay 
chính quyền. Do đó, hướng nghiên cứu này tiếp 
nối những gì mà cổ nhân đã suy nghĩ từ nhiều thế 
kỷ trước, tuy nhiên, góc nhìn của tác giả xuất 
phát từ triết lí tự do tuyệt đối của Trang Tử cũng 
như phục vụ cho công cuộc xây dựng nhà nước 
pháp quyền trong tương lai. 
P.Q. Huy / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 82-93 93 
5. Tóm lại 
việc nghiên cứu hành pháp xuất phát từ triết 
lí tự do tuyệt đối của Trang Tử theo hướng giới 
hạn quyền lực hành pháp nhằm đảm bảo tự do cá 
nhân là một suy nghĩ hợp lí và khá mới mẻ cho 
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt 
Nam hiện nay. Trong bối cảnh Đạo giáo xâm 
nhập vào Việt Nam thông qua tín ngưỡng thờ 
Thái Thượng Lão Quân, đạo sĩ trừ tà ma, “giáng 
cơ, giáng bút”rất gần gũi với người dân Việt 
Nam thì hướng nghiên cứu xuất phát từ tìm hiểu 
triết lý tự do phương Đông, đặc biệt là triết lý tự 
do của Trang Tử để có những ứng dụng phù hợp 
vào xây dựng pháp quyền là một hướng nên làm. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Thu Giang, Nguyễn Duy Cần, Cái cười của 
thánh nhân của, NXB Thanh Niên, Hà Nội, 1999 
trang 12. 
[2] Tư Mã Thiên, Phan Ngọc dịch, Sử Ký Tư Mã Thiên, 
NXB Văn học, Hà Nội, 2001, trang 301. 
[3] Trang Tử, “Mộng hồ điệp”, dẫn theo Thu Giang 
Nguyễn Duy Cần, Sđd, trang 71. 
[4] Sử Ký Tư Mã Thiên, Sđd, trang 301. 
[5] Sử Ký Tư Mã Thiên, Sđd, trang 299. 
[6] Hồ Thích, Nguyễn Văn Dương dịch, Đại cương 
triết học sử Trung Quốc, NXB Thanh Niên, 1999, 
trang 105. 
[7] Thu Giang Nguyễn Duy Cần dịch Lão Tử Đạo Đức 
Kinh, Thanh Niên, 1999, trang 283. 
[8] Đại cương triết học sử Trung Quốc, sđd, tr 117. 
[9] Trang Tử Nam Hoa Kinh, sđd, tr 98 - 100. 
[10] Cao Xuân Huy, Triết học Phương Đông gợi những 
điểm nhìn tham chiếu, NXB Văn học, 1995 tr 494. 
[11] Nguyễn Đăng Dung, Sự hạn chế quyền lực nhà 
nước, NXB Đại học Quốc gia. 2005, 
[12] Lê Đình Chân, Luật Hiến pháp và các định chế 
chính trị, Đại học Luật khoa Sài Gòn, Sài Gòn, 
1974, tr265. 
[13] J. Herbert Muller, Freedom in Western World: 
From the Dark Ages to the Rise of Democracy, 
Harper Colophon Books, New York, London, 
1963, p275. 
[14] The Constitution of the United States of America 
with Explanatory Notes, adapted from The World 
Book Encyclopedia, International Information 
Program, Department of State of the U.S, 2004, 
pg73 
[15] Trang Tử Nam Hoa Kinh, sđd, tr 59., truy cập ngày 
18/12/2018. 

File đính kèm:

  • pdftriet_li_tu_do_cua_trang_tu_suy_ngam_va_tham_chieu_cho_nghie.pdf