Triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường catheter

Triệt đốt các rối loạn nhịp tim sử dụng năng

lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông

tim (radiofrequency catheter ablation - thường

gọi là đốt điện) được xem là một trong những

thành tựu nổi bật nhất của chuyên ngành rối

loạn nhịp trong hơn ba thập niên qua. Từ một

kỹ thuật mang tính thử nghiệm vào những năm

80 của thế kỷ trước đã phát triển nhanh chóng

thành phương pháp điều trị được áp dụng rộng

rãi ở các trung tâm tim mạch trên phạm vi toàn

thế giới 10 năm sau đó và hiện nay là lựa chọn

hàng đầu trong điều trị nhiều loại rối loạn nhịp

tim khác nhau.

Kỹ thuật đốt điện dựa trên cơ sở sử dụng

những ống thông (catheter) chuyên biệt luồn

vào trong các buồng tim để triệt bỏ định khu

các cấu trúc tim mạch cần thiết cho việc khởi

phát và duy trì các rối loạn nhịp tim.

Trong những năm đầu ở giai đoạn mới

phát triển kỹ thuật, đốt điện sử dụng dòng điện

một chiều với hiệu điện thế cao phóng trực

tiếp vào các cấu trúc tim mạch (DC shock)

với nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật và tỉ lệ biến

chứng còn cao. Sau đó, năng lượng tần số radio

(radiofrequency energy) đã được sử dụng để

thay thế dòng điện một chiều và trở thành

loại năng lượng phổ biến trong các thủ thuật

đốt điện hiện nay. Bên cạnh năng lượng tần

số radio, các loại năng lượng khác như siêu âm

(ultrasound), vi sóng (microwave), nhiệt lạnh

(cryothermal enery), tia lazer. cũng đang được

nghiên cứu ứng dụng trong điều trị rối loạn

nhịp tim.

pdf 16 trang kimcuc 7820
Bạn đang xem tài liệu "Triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường catheter", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường catheter

Triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng có tần số radio qua đường catheter
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 61
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
mở Đầu
Triệt đốt các rối loạn nhịp tim sử dụng năng 
lượng sóng có tần số radio qua đường ống thông 
tim (radiofrequency catheter ablation - thường 
gọi là đốt điện) được xem là một trong những 
thành tựu nổi bật nhất của chuyên ngành rối 
loạn nhịp trong hơn ba thập niên qua. Từ một 
kỹ thuật mang tính thử nghiệm vào những năm 
80 của thế kỷ trước đã phát triển nhanh chóng 
thành phương pháp điều trị được áp dụng rộng 
rãi ở các trung tâm tim mạch trên phạm vi toàn 
thế giới 10 năm sau đó và hiện nay là lựa chọn 
hàng đầu trong điều trị nhiều loại rối loạn nhịp 
tim khác nhau. 
Kỹ thuật đốt điện dựa trên cơ sở sử dụng 
những ống thông (catheter) chuyên biệt luồn 
vào trong các buồng tim để triệt bỏ định khu 
các cấu trúc tim mạch cần thiết cho việc khởi 
phát và duy trì các rối loạn nhịp tim. 
Trong những năm đầu ở giai đoạn mới 
phát triển kỹ thuật, đốt điện sử dụng dòng điện 
một chiều với hiệu điện thế cao phóng trực 
tiếp vào các cấu trúc tim mạch (DC shock) 
với nhiều hạn chế về mặt kỹ thuật và tỉ lệ biến 
chứng còn cao. Sau đó, năng lượng tần số radio 
(radiofrequency energy) đã được sử dụng để 
thay thế dòng điện một chiều và trở thành 
loại năng lượng phổ biến trong các thủ thuật 
đốt điện hiện nay. Bên cạnh năng lượng tần 
số radio, các loại năng lượng khác như siêu âm 
(ultrasound), vi sóng (microwave), nhiệt lạnh 
(cryothermal enery), tia lazer... cũng đang được 
nghiên cứu ứng dụng trong điều trị rối loạn 
nhịp tim.
Cơ sở vật lý của đốt điện là năng lượng sóng 
radio các với dao động tần số rất cao (khoảng 
500 KHz tức 500 000 dao động/ giây) đi vào 
vùng mô tim tiếp xúc với đầu ống thông, các ion 
trong mô tim sẽ dao động theo và sinh nhiệt do 
ma sát gây tăng nhiệt độ. Khi nhiệt độ tăng lên 
tới 60-70 độ C sẽ gây tổn thương protein không 
hồi phục và do vậy gây mất đặc tính sinh học 
của mô tim, đây là cơ sở của việc triệt bỏ các ổ 
ngoại vị hoặc các đường dẫn truyền bất thường 
đóng vai trò là cơ chất gây rối loạn nhịp tim. Các 
nghiên cứu cho thấy, chính vì dao động với tần 
số rất nhanh nên năng lượng tần số radio không 
Triệt đốt rối loạn nhịp tim bằng năng lượng sóng 
có tần số radio qua đường catheter
ThS. Phan Đình Phong - TS. Phạm Quốc Khánh
Viện Tim mạch Việt Nam
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201362
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
kích thích tim gây các rối loạn nhịp và không gây cảm giác đau cho người bệnh. Đặc tính gây nóng 
mô bằng ma sát do dao động của các ion chứ không phải truyền nhiệt trực tiếp qua đầu ống thông 
cho phép khu trú tổn thương mô tim trong vòng vài milimet đường kính và độ sâu nên việc triệt 
đốt rất đặc hiệu và an toàn. Quá trình đốt điện được kiểm soát bởi đồng thời nhiều thông số như 
cường độ năng lượng đốt, nhiệt độ và điện trở mô... hệ thống ngắt tự động sẽ được kích hoạt nếu 
các thông số này vượt qua ngưỡng an toàn được cài đặt. Thường thì cường độ năng lượng đốt thay 
đổi từ 10-50 W, nhiệt độ đầu ống thông đốt được duy trì khoảng 60-70 độ C và trở kháng mô dao 
động từ 80-120 Ohm. 
Hình 1: Lược đồ mô tả đường kính và độ sâu tổn thương mô tim gây ra do năng lượng tần số radio. Đường 
kính tổn thương: 5-10 mm, vùng cơ tim bị đốt nóng nhất có độ sâu khoảng 1 mm.
Hình 2: Tổn thương mô tim gây ra bởi năng lượng tần số radio là các vùng nội mạc bị biến mầu do nhiệt 
độ (mũi tên)
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 63
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Hiện nay, đốt điện được chỉ định cho phần 
lớn các rối loạn nhịp tim nhanh. So với điều trị 
nội khoa kinh điển và các phương pháp khác, 
đốt điện là điều trị mang tính triệt để, an toàn 
và có lợi về tính chi phí-hiệu quả, đặc biệt về 
mặt dài hạn.
chỉ Định và chống chỉ Định
1. Chỉ định
Chỉ định chi tiết của thủ thuật đốt điện sẽ 
được đề cập trong từng chuyên đề cụ thể trong 
cuốn sách này. Chỉ định đốt điện trước hết 
dựa trên tính hiệu quả - nguy cơ của thủ thuật 
và tiếp đó là sự lựa chọn của bệnh nhân trong 
trường hợp điều trị thuốc vẫn có kết quả. 
Hiện nay, có ba chỉ định được xếp loại I 
(khuyến cáo áp dụng):
Các cơn tim nhanh trên thất (supraventricular 
tachycardia) có triệu chứng do các cơ chế: 
- Tim nhanh vào lại nút nhĩ thất. 
- Tim nhanh vào lại nhĩ thất qua đường dẫn 
truyền phụ (hội chứng WPW)
- Tim nhanh nhĩ một ổ khởi phát
- Cuồng nhĩ (đặc biệt cuồng nhĩ điển hình 
bên phải)
Rung nhĩ gây triệu chứng và không đáp ứng 
với ít nhất một thuốc chống rối loạn nhịp tim, bao 
gồm hai kỹ thuật:
- Cô lập các tĩnh mạch phổi kết hợp với các 
kỹ thuật triệt đốt khác trong nhĩ trái/phải.
- Cắt đốt bộ nối nhĩ thất nhằm khống chế 
tần số thất.
Tim nhanh thất có triệu chứng, bao gồm:
- Tim nhanh thất vô căn
- Tim nhanh thất trên nền bệnh tim thực 
tổn: trong trường hợp điều trị nội khoa không 
hiệu quả hoặc bệnh nhân không dung nạp được 
thuốc chống rối loạn nhịp hoặc ở bệnh nhân đã 
cấy máy phá rung tự động (ICD) nhằm giảm số 
lần phải shock điện.
Các trường hợp khác có thể chỉ định đốt điện:
- Nhịp xoang nhanh gây triệu chứng và 
không đáp ứng với điều trị nội khoa.
- Ngoại tâm thu thất hoặc nhĩ gây triệu 
chứng, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống.
- Nhịp nhanh bộ nối có triệu chứng
Các chỉ định đang được nghiên cứu:
- Tim nhanh thất đa hình thái
- Rung thất
2. Chống chỉ định:
Các chống chỉ định chung của các thủ thuật 
tim mạch can thiệp khác:
 Nhiễm trùng tiến triển, bệnh lý nội khoa 
nặng, rối loạn đông máu nặng...
Một số chống chỉ định đặc thù:
- Huyết khối trong nhĩ trái, thất trái là 
chống chỉ định của đốt điện trong các buồng 
tim bên trái.
- Van nhân tạo là chống chỉ định với các kỹ 
thuật đốt điện cần phải đưa ống thông qua van.
- Phụ nữ có thai (vì nguy cơ nhiễm tia X 
cho mẹ và con).
chuẩn Bị Bệnh nhân 
Chuẩn bị bệnh nhân trước thủ thuật cũng 
tương tự như thủ thuật thăm dò điện sinh lý học 
tim. Bệnh nhân được thăm khám lâm sàng, ghi 
điện tâm đồ 12 chuyển đạo, xét nghiệm công 
thức máu, đông máu cơ bản, sinh hóa máu 
(chức năng thận, điện giải đồ...), làm siêu âm 
tim và các thăm dò cần thiết khác.
Bệnh nhân phải ngừng các thuốc chống 
loạn nhịp hoặc có ảnh hưởng tới đặc tính điện 
sinh lý tim ít nhất 5 lần thời gian bán hủy của 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201364
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
thuốc trước thủ thuật.
Ngừng các thuốc chống đông hoặc điều 
chỉnh liều về giới hạn an toàn nhằm tránh nguy 
cơ chảy máu.
Bệnh nhân có thể ăn nhẹ vào bữa ăn trước 
giờ làm thủ thuật trừ trường hợp cần phải gây 
mê toàn thân (đốt rung nhĩ...). 
Bệnh nhân phải ký giấy cam kết trước khi 
tiến hành thủ thuật. 
Vô cảm chỉ cần gây tê tại chỗ bằng lidocain. 
Gây mê toàn thân trong trường hợp bệnh nhân 
là trẻ nhỏ hoặc trong một số thủ thuật đốt điện 
kéo dài nhiều giờ (rung nhĩ, tim nhanh thất). 
Kỹ ThuậT
Thủ thuật đốt điện được tiến hành trong 
phòng thông tim (catheterization laboratory) 
với các trang thiết bị chuyên dụng như máy 
chụp mạch với màn tăng sáng, hệ thống thăm 
dò điện sinh lý học tim và máy phát năng lượng 
tần số radio. 
Thông thường, đốt điện sẽ được tiến hành 
đồng thời với thủ thuật thăm dò điện sinh lý 
học tim.
2 đến 5 điện cực chẩn đoán (diagnostic 
catheter) sẽ được đưa vào các buồng tim qua 
đường tĩnh mạch đùi bên phải và tĩnh mạch 
dưới đòn bên trái. Các vị trí đặt điện cực chẩn 
đoán bao gồm: điện cực vùng cao nhĩ phải, 
vùng mỏm thất phải, điện cực bó His, điện cực 
xoang vành.
Cùng với điện tâm đồ bề mặt 12 chuyển 
đạo thông dụng, việc ghi các điện đồ trong 
buồng tim và kích thích tim theo chương trình 
cho phép chẩn đoán chính xác cơ chế, bản chất 
các rối loạn nhịp tim và đặc biệt là các cơ chất 
gây rối loạn nhịp (substrate), đó có thể là một ổ 
ngoại vị ở tâm thất hoặc tâm nhĩ hoặc có thể là 
một đường dẫn truyền bất thường. 
Khi cơ chất của rối loạn nhịp đã được xác 
định, một loại ống thông khác sẽ được sử dụng 
là các ống thông đốt (ablation catheter), được 
thiết kế đặc biệt để vừa có thể ghi được các điện 
đồ vừa đưa năng lượng tần số radio vào các mô 
tim nơi đầu điện cực tiếp xúc. Đặc tính có thể 
gấp duỗi được (steerable) của ống thông cho 
phép các bác sĩ can thiệp có thể luồn ống thông 
đốt vào các vị trí khác nhau trong các buồng tim 
nơi có cơ chất gây loạn nhịp để triệt đốt.
Hình 3: Máy phát năng 
lượng tần số radio, với các 
nút điều chỉnh và màn hình 
hiển thị các thông số triệt đốt: 
nhiệt độ, trở kháng mô, thời 
gian đốt.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 65
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Hình 4: Đầu ống thông đốt (ablation catheter), bản điện cực đầu xa có độ dài 4 hoặc 
8 mm, là nơi tiếp xúc với mô tim được triệt đốt.
Ống thông triệt đốt trong các buồng tim bên phải thường được đưa qua đường tĩnh mạch đùi 
bên phải. Ống thông triệt đốt trong các buồng tim bên trái có thể đưa qua đường động mạch đùi 
trái đi ngược dòng vào thất trái qua động mạch chủ hoặc qua đường chọc xuyên vách liên nhĩ.
1. Triệt đốt đường dẫn truyền phụ trong Hội chứng Wolff-Parkinson-White (WPW) và cơn 
tim nhanh vào lại nhĩ thất.
Hội chứng WPW liên quan tới sự tồn tại một đường dẫn truyền bất thường (đường dẫn truyền 
phụ - accessory pathway) nối liền tâm nhĩ và tâm thất bên cạnh đường dẫn truyền bình thường 
qua nút nhĩ thất. Trong trường hợp điển hình, đường dẫn truyền phụ có thể dẫn truyền xung động 
theo chiều xuôi từ nhĩ xuống thất hoặc cả hai chiều, điện tâm đồ bề mặt đặc trưng bởi khoảng PR 
ngắn (120 ms) và sóng delta ở đầu phức bộ QRS. Đường dẫn 
truyền phụ chỉ dẫn theo chiều ngược từ thất lên nhĩ gọi là đường ẩn (concealed accessory pathway). 
Hình 5: Điện tâm đồ bề mặt của hội chứng WPW điển hình với đường dẫn truyền phụ ở vùng trước 
vách bên phải.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201366
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Biểu hiện lâm sàng của hội chứng WPW là các cơn tim nhanh vào lại nhĩ-thất thông qua đường 
dẫn truyền phụ. Bình thường xung động phát ra từ nút xoang gây khử cực hai tâm nhĩ trước sau đó 
đi qua nút nhĩ thất gây khử cực tâm thất rồi tự tắt. Khi tồn tại đường dẫn truyền phụ, xung động này 
sẽ đi ngược qua đó, vào lại tâm nhĩ gây cơn nhịp nhanh với tần số từ 140-220 ck/ph. Mặt khác, hội 
chứng WPW đặc biệt nguy hiểm trong trường hợp rung nhĩ, các xung động tần số rất cao từ tâm nhĩ 
sẽ đi qua đường dẫn truyền phụ xuống khử cực tâm thất lầm tâm thất đập rất nhanh (có thể lên tới 
300 ck/ph) gây tụt huyết áp, có khi tử vong.
Hình 6: Cơn tim nhanh vào lại nhĩ thất (AVRT). Ở chuyển đạo V1 nhìn rõ sóng P dẫn truyền 
ngược đi sau phức bộ QRS với RP < PR.
Kỹ thuật triệt đốt đường dẫn truyền phụ dựa trên việc đưa đầu ống thông đốt tới tiếp xúc 
với một điểm trên vòng van hai lá hoặc ba lá nơi có đường dẫn truyền phụ đi qua. Tiếp cận 
vòng van ba lá bằng đường tĩnh mạch đùi, tiếp cận vòng van hai lá bằng đường ngược dòng 
động mạch chủ qua động mạch đùi hoặc qua đường xuyên vách liên nhĩ. Đường dẫn truyền 
phụ được định vị (mapping) dựa vào các điện đồ trong buồng tim trong lúc nhịp xoang, trong 
lúc cơn tim nhanh vào lại nhĩ thất hoặc trong lúc tạo nhịp thất và dựa vào hỉnh ảnh giải phẫu 
trên X quang.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 67
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Hình 7: Vị trí các ống thông trên hình ảnh X quang trong triệt đốt đường dẫn truyền phụ: NP: điện cực 
cùng cao nhĩ phải, His: điện cực vị trí bó His, XV: điện cực xoang vành, TP: điện cực mỏm thất phải, Abl: 
điện cực triệt đốt được đưa vào thất trái ngược chiều qua van động mạch chủ và cắm vào vòng van hai lá 
nơi có đường dẫn truyền phụ nhĩ-thất đi qua.
Hình 8: Triệt đốt đường dẫn truyền phụ điển hình trong lúc nhịp xoang. Kết quả xuất hiện ngay sau 372 
ms (hết hình ảnh WPW), điện đồ vị trí đích (trong ô vuông đỏ) có sóng nhĩ đi trước và trộn lẫn với sóng 
thất.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201368
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Tỉ lệ thành công của phương pháp đốt điện trong hội chứng WPW có thể đạt tới 90-95%, tỉ lệ 
tái phát thường thấp < 5%.
2. Cơn tim nhanh do vòng vào lại vùng nút nhĩ thất 
Là loại tim nhanh kịch phát trên thất thường gặp nhất trên lâm sàng. Cơ chất của rối loạn nhịp 
này là sự tồn tại đường dẫn truyền kép ở vùng nút nhĩ thất và mô nhĩ lân cận bao gồm một đường 
dẫn truyền nhanh (fast pathway) và một đường dẫn truyền chậm (slow pathway). Khi có điều kiện 
thuận lợi về điện học (như có ngoại tâm thu), xung động đi qua đường chậm có thể quay lại đường 
nhanh khép kín một vòng vào lại gây cơn tim nhanh với tần số từ 120-240 ck/ph.
Hình 9: Triệt đốt đường dẫn truyền phụ điển hình trong lúc tạo nhịp thất phải. Kết quả xuất hiện ngay 
sau 540 ms (xuất hiện hình ảnh phân ly thất-nhĩ), điện đồ vị trí đích (trong ô vuông đỏ) có sóng thất đi 
trước và sóng nhĩ đi ngay sát sau sóng thất.
Hình 10: Điện tâm đồ bề mặt của cơn tim nhanh vào lại nhĩ thất kiểu chậm-nhanh. Không thấy rõ hình 
ảnh sóng P do bị lẫn vào phức bộ QRS.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 69
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Điều trị cơn tim nhanh vào lại nút nhĩ thất dựa trên cơ sở việc triệt đốt một trong hai đường 
dẫn truyền qua nút nhĩ thất, đường nhanh hoặc đường chậm. Ngày nay, hầu hết các trung tâm tim 
mạch trên thế giới đều đồng thuận việc triệt bỏ đường chậm vì có tỉ lệ thành công cao hơn và ít biến 
chứng gây blốc nhĩ thất hơn. Ống thông đốt sẽ được đưa qua tĩnh mạch đùi tới vị trí triệt đốt đường 
dẫn truyền chậm ở vùng mô nhĩ phải nằm giữa bờ van hai lá và lỗ xoang tĩnh mạch vành, cách nút 
nhĩ thất khoảng 1-2 cm (còn gọi là vùng đáy tam giác Koch). Xác định vị trí đường chậm dựa vào 
điện đồ ghi được tại đầu điện cực đốt và hình ảnh giải phẫu trên X quang.
Hình 11: Vị trí các ống thông trên hình ảnh X quang trong triệt đốt đường chậm ở tư thế nghiêng trái 30 
độ (trái) và nghiêng phải 30 độ (phải): NP: điện cực cùng cao nhĩ phải, His: điện cực vị trí bó His, XV: 
điện cực xoang vành, TP: điện cực mỏm thất phải, Abl: điện cực triệt đốt được đưa vào vùng đáy của tam 
giác Koch, dưới vị trí điện cực bó His khoảng 2 cm và ngang mức với lỗ xoang vành.
Hình 12: Triệt đốt đường chậm. Điện đồ vị trí đích (trong ô vuông đỏ) hình ảnh sóng nhĩ nhiều thành 
phần, biên độ thấp đi trước sóng thất, tỉ lệ biên độ sóng nhĩ/thất là 1/5. Kết quả triệt đốt đường chậm 
thành công thể hiện bằng sự xuất hiện nhịp bộ nối gia tốc ngay sau khi phát năng lượng tần số radio.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201370
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Tỉ lệ thành công của phương pháp đốt điện trong trường hợp này có thể lên tới 98-99%, biến 
chứng blốc nhĩ thất rất hiếm gặp (khoảng 1%).
3. Cuồng nhĩ và tim nhanh nhĩ đơn ổ
Cơ chế là do các vòng vào lại trong cơ nhĩ hoặc các ổ ngoại vị bất thường ở nhĩ trái hoặc nhĩ 
phải. Đốt điện các rối loạn nhịp này dựa trên cơ sở cắt đứt các vòng vào lại hoặc triệt bỏ các ổ ngoại 
vị. Triệt đốt trong nhĩ phải được thực hiện bằng cách đưa ống thông đốt qua đường tĩnh mạch đùi, 
triệt đốt trong nhĩ trái cần phải chọc vách liên nhĩ hoặc luồn ống thông từ nhĩ phải qua lỗ bầu dục. 
Hiện nay, đốt điện điều trị các cơn cuồng nhĩ (nhất là cuồng nhĩ không điển hình) và tim nhanh 
nhĩ được thực hiện dễ dàng hơn nhờ hệ thống lập bản đồ điện học và giải phẫu ba chiều các buồng 
tim (CARTO, En Site...). Hệ thống sẽ tái tạo đặc điểm giải phẫu tâm nhĩ cũng như trình tự hoạt hoá 
điện học trong cơn nhịp nhanh, do vậy giúp cho việc xác định cơ chất gây rối loạn nhịp một cách 
chính xác. Các tổng kết từ nhiều trung tâm cho thấy, hiện nay tỉ lệ thành công của đốt điện trong 
điều trị cuồng nhĩ điển hình đạt tới 90-95%.
Hình 13: Vị trí các ống thông trên hình ảnh X quang trong triệt đốt cuồng 
nhĩ điển hình: NP: điện cực cùng cao nhĩ phải, His: điện cực vị trí bó His, 
XV: điện cực xoang vành, HALO: điện cực trong buồng nhĩ với nhiều cặp 
điện cực, Abl: điện cực triệt đốt được đưa vào vùng eo van ba lá (ishmus) 
nằm ở vùng đáy nhĩ phải.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 71
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
4. Tim nhanh thất đơn dạng và ngoại tâm thu thất
Phần lớn có nguồn gốc từ đường ra thất phải hoặc ở vách liên thất bên trái, thường xảy ra trên 
những người không có bệnh lý tim mạch thực tổn. Cơn tim nhanh thất có nguồn gốc từ đường ra 
thất phải biểu hiện trên điện tâm đồ với QRS có dạng blốc nhánh trái và trục điện tim quay xuống 
dưới, cơn tim nhanh thất có nguồn gốc từ mặt trái vách liên thất có điện tâm đồ với dạng blốc nhánh 
phải và trục điện tim hướng lên trên. Ngoài ra, tim nhanh thất/ ngoại tâm thu thất vô căn còn có 
thể khởi phát từ những vị trí khác như xoang Valsalva, trên van động mạch phổi, vòng van ba lá, vị 
trí cạnh bó His, vòng van hai lá... 
Triệt đốt các cơn tim nhanh thất được thực hiện bằng cách đưa ống thông đốt vào trong các 
buồng thất qua đường tĩnh mạch hoặc động mạch đùi hoặc qua đường xuyên vách liên nhĩ. Ổ 
ngoại vị được xác định bằng vị trí ghi được điện thế hoạt hoá nội mạc sớm nhất (earliest activation 
mapping) hoặc bằng phương pháp tạo nhịp (pace mapping).
Hình 14: Vị trí các ống thông trên hình ảnh X quang trong triệt đốt ngoại 
tâm thu thất khởi phát từ đường ra thất phải trên góc nghiêng phải 30 độ: 
Pig: ống thông Pigtail chụp buồng thất phải, Abl: điện cực triệt đốt được 
đưa vào vùng đường ra thất phải, ngay dưới van động mạch phổi
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201372
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
Hình 15: Triệt đốt ngoại tâm thu thất khởi phát từ đường ra thất phải. Xác định vị trí ổ khởi phát bằng 
phương pháp tạo nhịp thất (pace mapping). Đầu điện cực đốt đã đặt đúng vào ổ ngoại vị nên khi tạo 
nhịp qua điện cực đốt sẽ gây ra được các phức bộ QRS giống với ngoại tâm thu xuất hiện tự phát 12/12 
chuyển đạo.
Hình 16: Vị trí các ống thông trên hình ảnh X quang trong triệt đốt ngoại tâm thu thất khởi phát từ 
xoang Valsalva trên góc nghiêng trái 30 độ: XV: điện cực xoang vành, Pig: ống thông Pigtail chụp xoang 
Valsalva, Abl: điện cực triệt đốt được đưa vào trong lòng xoang Valsalva lá vành trái, phía trên khoảng 1 
cm là lỗ xuất phát của thân chung động mạch vành trái.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 73
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Hiện nay, tỉ lệ thành công của đốt 
điện đối với các cơn tim nhanh thất đơn 
dạng/ ngoại tâm thu thất vô căn vào 
khoảng > 90%.
Đối với các cơn tim nhanh thất trên 
nền bệnh tim thiếu máu cục bộ, do cơ chất 
gây loạn nhịp phức tạp, liên quan đến các 
vùng cơ tim thiếu máu hoặc tổ chức sẹo 
sau hoại tử cơ tim nên kỹ thuật triệt đốt 
thường quy như trên gặp khó khăn và có 
tỉ lệ thành công thấp. Hiện nay, sử dụng 
hệ thống lập bản đồ điện học và giải phẫu 
ba chiều sẽ xác định vùng cơ tim hóa sẹo 
ở tâm thất giúp định hướng cho thủ thuật 
triệt đốt, tiếp cận ngoại mạc bên cạnh tiếp 
cận nội mạc đã giúp nâng cao đáng kể tỉ lệ 
thành công.
Hình 17: Triệt đốt ngoại tâm thu thất khởi phát từ xoang Valsalva lá vành trái. Xác định vị trí ổ khởi 
phát bằng phương pháp ghi điện thế sớm nhất. Điện thế thất ghi được ở vị trí đầu điện cực đốt sớm hơn 
phức bộ QRS trên điện tâm đồ bề mặt 51 ms.
Hình 18: Hình ảnh tái tạo trên không gian ba chiều bản 
đồ giải phẫu-điện học buồng thất trái với vùng sẹo cơ tim 
ở vùng trước rộng (màu đỏ), là cơ chất gây ra cơn tim 
nhanh thất. Các chấm màu đỏ là các điểm triệt đốt xung 
quanh vùng tổ chức sẹo.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201374
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
5. Rung nhĩ
Kỹ thuật đốt điện trong rung nhĩ dựa trên cơ sở tái tạo hình ảnh giải phẫu ba chiều tâm nhĩ trái 
và các tĩnh mạch phổi, việc kết hợp kỹ thuật tái tạo dựa trên catheter với hình ảnh chụp cắt lớp vi 
tính đa dãy (MSCT) giúp tái tạo hình ảnh giải phẫu chính xác và chi tiết hơn.
Đốt điện được chứng minh hiệu quả cao nhất đối với các cơn rung nhĩ kịch phát. Cơ chất chủ 
yếu là các ổ ngoại vị nằm trong các tĩnh mạch phổi. Kỹ thuật triệt đốt dựa trên cơ sở cắt đứt các sợi 
cơ tim nối liền giữa tâm nhĩ và các tĩnh mạch phổi để các ổ ngoại vị không thể phát xung động lan 
vào tâm nhĩ trái. 
Triệt đốt trong tâm nhĩ trái thường sử dụng các ống thông với các lỗ bên để truyền dịch làm 
lạnh mô nhĩ (irrigated catheter hay cool-flow catheter), công nghệ này giúp cho năng lượng tần 
số radio có thể truyền được sâu hơn vào mô nhĩ gây nên các tổn thương xuyên thành (transmural 
lesion) nhờ vậy có thể cô lập được triệt để hơn các tĩnh mạch phổi. Bên cạnh đó đốt điện kết hợp 
tưới lạnh giúp làm giảm đáng kể tỉ lệ biến chứng thủng tâm nhĩ.
Tỉ lệ thành công của thủ thuật đối với rung nhĩ kịch phát theo tổng kết từ các trung tâm là 
khoảng 70-85%.
Đối với rung nhĩ dai dẳng và mạn tính, bên cạnh các ổ ngoại vị, cơ chất còn có sự tham gia của 
các vùng mô ở nhĩ trái, kỹ thuật triệt đốt thường phải kết hợp thêm các đường đốt cô lập khác trong 
nhĩ trái giống như phẫu thuật Maze (linear ablation) và/hoặc triệt đốt các vùng mô nhĩ có phức bộ 
điện học phân mảnh phức tạp (CFAE hay CAFE).
Hình 19: Đầu ống thông đốt với các lỗ bên để tưới dịch làm lạnh mô (irrigated ablation catheter), catheter 
này có thể giúp đưa được năng lượng tần số radio thấm sâu hơn, tạo nên những tổn thương xuyên thành 
tâm nhĩ.
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.2013 75
ĐÀO TẠO LIÊN TỤC x
Tỉ lệ thành công của đốt điện đối với rung 
nhĩ mạn tính thấp hơn (khoảng 50% hoặc thấp 
hơn). Khoảng 25% số bệnh nhân cần 2 hoặc 
nhiều hơn số lần làm thủ thuật mới có thể duy 
trì nhịp xoang hiệu quả. Mặc dù đã có rất nhiều 
tiến bộ về kỹ thuật và công nghệ đốt điện, rung 
nhĩ mạn tính vẫn còn là một thách thức lớn và 
đòi hỏi tiếp tục có những nghiên cứu cải tiến kỹ 
thuật trong tương lai.
Biến chứng
Biến chứng nặng của đốt điện gặp trong 
khoảng 3% số ca thủ thuật và tùy thuộc nhiều 
vào loại chỉ định. Tỉ lệ biến chứng cao hơn ở 
các thủ thuật điều trị rung nhĩ, tim nhanh thất 
và nhìn chung rất thấp ở các trường hợp tim 
nhanh trên thất. Trong đó, tai biến tắc mạch, 
huyết khối chiếm khoảng 1%, tử vong chiếm 
khoảng 0,1- 0,2%.
1. Các biến chứng tại tim:
- Block nhĩ thất độ cao
- Thủng tim gây tràn máu màng tim (cao 
nhất ở thủ thuật đốt điện rung nhĩ: khoảng 
3-6%).
- Tắc động mạch vành, co thắt động mạch vành
- Viêm màng ngoài tim
- Tổn thương van tim
2. Biến chứng mạch máu
- Chảy máu vào phúc mạc
- Tụ máu chỗ chọc mạch
- Tổn thương nội mạc mạch máu
- Tai biến mạch não
- Tụt huyết áp
- Tắc mạch do cục máu đông hay do khí
3. Biến chứng phổi
- Tăng áp động mạch phổi, ho máu do hẹp 
tĩnh mạch phổi (sau đốt điện rung nhĩ)
- Tràn máu màng phổi (thường liên quan 
đến chọc tĩnh mạch dưới đòn)
Hình 20: Hình ảnh tái tạo ba trên không gian ba chiều tâm nhĩ trái và 4 tĩnh mạch phổi. Kỹ thuật triệt 
đốt rung nhĩ kịch phát dự trên cô lập 4 tĩnh mạch phổi bằng các đường đốt điện liên tiếp nhau (các chấm 
màu đỏ). 
TẠP CHÍ Tim mẠCH HọC việT nam - số 64.201376
y ĐÀO TẠO LIÊN TỤC
4. Các biến chứng khác
- Dò nhĩ trái - thực quản (đặc biệt trong đốt 
rung nhĩ)
- Kích ứng dạ dày
- Liệt cơ hoành
- Bỏng da do tia X
- Nhiễm trùng tại vị trí chọc mạch
- Rối loạn nhịp tim
5. Nguy cơ nhiễm xạ
- Nguy cơ nhiễm xạ của thủ thuật đốt điện 
nhìn chung là thấp. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. David J. Wilber, MD, Douglas L. Packer, MD, William G. Stevenson, MD (2008)
Catheter Ablation of Cardiac Arrhythmias - Basic Concepts and Clinical Applications. Third Edition. Blackwell 
Futura publishing company.
2. Francis D. Murgatroyd (2002)
Handbook of Cardiac Electrophysiology - A practical guide to invasive EP studies and Catheter Ablation. 
Remedica Pulishing.
3. Igor Singer (1997) 
Interventional Electrophysiology. Williams-Wilkins publishing company.
4. Mohammad Shenasa, MD, Gerhard Hindricks, MD, Martin Borggrefe, MD, Gunter Breithardt, 
MD (2009)
Cardiac Mapping. Third edition. Wiley-Blackwell publishing company.
5. Roberto De Ponti, MD (2008)
From Signals to Colours: A Case-based Atlas of Electroanatomic Mapping in Complex Atrial Arrhythmias. 
Springer.

File đính kèm:

  • pdftriet_dot_roi_loan_nhip_tim_bang_nang_luong_song_co_tan_so_r.pdf