Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại

Bài viết tổng hợp các nghiên cứu về hoạt động thao túng hay điều tiết lợi

nhuận (earnings management) theo 4 nhóm là đánh giá chất lượng các

khoản dồn tích, thao túng dự phòng để ổn định lợi nhuận, điều tiết số liệu

để đạt các mục tiêu về lợi nhuận, và khảo sát các gian lận và sai sót đã

được phát hiện, đồng thời làm rõ những vấn đề còn tranh cãi hoặc chưa

được giải quyết ở từng hướng nghiên cứu. Các phân tích trong bài đã chỉ

ra rằng hoạtđộng thao túng lợi nhuận ở các ngân hàng thương mại ởnền

kinh tế đang phát triển và chuyểnđổi vẫn là một khoảng trống nghiên cứu

lớn. Câu hỏi về khả năng điều tiết dự phòng để ổn định lợi nhuận tại các

quốc gia châu Á như Việt Nam vẫn là một câu hỏi mở. Bên cạnh đó, tác

giảcũng chỉra cơhộiđểvận dụng các thướcđo chất lượng lợi nhuận phổ

biến trong các nghiên cứu ở lĩnh vực phi tài chính cho các ngân hàng

thương mại.

pdf 15 trang kimcuc 6400
Bạn đang xem tài liệu "Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại

Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 120 
Bài tổng quan DOI:10.22144/jvn.2017.637 
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THAO TÚNG LỢI NHUẬN CÔNG BỐ 
BỞI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 
Đào Nam Giang 
Khoa Kế toán – Kiểm toán, Học viện Ngân hàng 
Thông tin chung: 
Ngày nhận: 02/06/2016 
Ngày chấp nhận: 28/02/2017 
Title: 
A literature review on 
earnings management in 
banking industry 
Từ khóa: 
Thao túng/điều tiết lợi nhuận 
kế toán, ổn định lợi nhuận, 
các khoản dồn tích, dự phòng 
rủi ro tín dụng, phân phối 
của lợi nhuận 
Keywords: 
Accruals, earnings 
distribution, earnings 
management, earnings 
smoothing, loan loss 
provision 
ABSTRACT 
This paper is aimed to provide a literature review on earnings 
management in banking industry through 4 research groups including 
accruals quality, earnings smoothing through loan loss provision, 
benchmark beating and external indicators of earnings misstatement. The 
discussion on controversial issues among previous studies helps to 
determine research gaps and propose direction for future research. 
Specifically, earnings management in banking industry in developing 
countries rarely dealt with by previous studies and is a fertile field for 
future research. Besides, whether commercial banks, especially in Asian 
countries, using loan loss provision to smooth earnings remains an open 
question. Some proxies of earnings management have also been neglected 
in banking industry, e.g. comparing variability of earnings and variability 
of cashflow. 
TÓM TẮT 
Bài viết tổng hợp các nghiên cứu về hoạt động thao túng hay điều tiết lợi 
nhuận (earnings management) theo 4 nhóm là đánh giá chất lượng các 
khoản dồn tích, thao túng dự phòng để ổn định lợi nhuận, điều tiết số liệu 
để đạt các mục tiêu về lợi nhuận, và khảo sát các gian lận và sai sót đã 
được phát hiện, đồng thời làm rõ những vấn đề còn tranh cãi hoặc chưa 
được giải quyết ở từng hướng nghiên cứu. Các phân tích trong bài đã chỉ 
ra rằng hoạt động thao túng lợi nhuận ở các ngân hàng thương mại ở nền 
kinh tế đang phát triển và chuyển đổi vẫn là một khoảng trống nghiên cứu 
lớn. Câu hỏi về khả năng điều tiết dự phòng để ổn định lợi nhuận tại các 
quốc gia châu Á như Việt Nam vẫn là một câu hỏi mở. Bên cạnh đó, tác 
giả cũng chỉ ra cơ hội để vận dụng các thước đo chất lượng lợi nhuận phổ 
biến trong các nghiên cứu ở lĩnh vực phi tài chính cho các ngân hàng 
thương mại. 
Trích dẫn: Đào Nam Giang, 2017. Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng 
thương mại. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 48d: 120-134. 
Giới thiệu: Theo Healy & Wahlen (1999), 
“Thao túng hay điều tiết lợi nhuận (earnings 
management) xảy ra khi các nhà quản trị sử dụng 
những xét đoán của họ trong quá trình lập báo cáo 
tài chính (BCTC) và trong việc thiết kế các giao 
dịch kinh tế nhằm bóp méo số liệu báo cáo hoặc 
làm cho các bên có liên quan hiểu sai về kết quả 
hoạt động kinh doanh thực của công ty, hoặc để tác 
động đến số liệu kế toán báo cáo về các kết quả 
theo hợp đồng giữa các bên”. Như vậy, việc thao 
túng lợi nhuận sẽ làm cho lợi nhuận báo cáo không 
phản ánh trung thực kết quả hoạt động của đơn vị 
và do đó làm suy giảm chất lượng thông tin kế toán 
công bố. Đây cũng chính là lý do mà trong khoảng 
3 thập kỷ vừa qua, nghiên cứu đánh giá về mức độ 
thao túng lợi nhuận báo cáo đã trở thành một trong 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 121 
những chủ đề nghiên cứu rất được quan tâm trong 
kế toán tài chính. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu về 
thao túng lợi nhuận kế toán đã loại trừ các ngân 
hàng thương mại (NHTM) khỏi mẫu nghiên cứu. 
Lý do các đơn vị này có những khác biệt nhất định 
trong hoạt động kinh doanh và kéo theo đó là các 
quy định về chế độ kế toán và báo cáo tài chính áp 
dụng. Các đơn vị trong ngành tài chính cũng bị chi 
phối bởi các quy định giám sát và quản lý riêng ví 
dụ quy định về an toàn vốn theo khuôn khổ của 
Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), hoặc các 
quy định liên quan đến thanh tra giám sát ngân 
hàng. Hệ thống ngân hàng cũng đóng vai trò rất 
quan trọng trong hệ thống tài chính và sự ổn định 
của nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng lại dựa rất 
nhiều vào yếu tố niềm tin. Trong giám sát hoạt 
động ngân hàng, BIS cũng đã chỉ ra 3 cột trụ cơ 
bản, trong đó cột trụ thứ 3 chính là minh bạch 
thông tin để tăng cường sự giám sát của thị trường. 
Chính vì thế, các cuộc khủng hoảng tài chính gần 
đây (khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, 
khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008), đã khiến 
cho công chúng cũng như các nhà quản lý, các nhà 
phân tích đầu tư và các nhà làm chính sách trở nên 
đặc biệt quan tâm tới vấn đề về chất lượng thông 
tin kế toán nói chung và thông tin lợi nhuận kế toán 
công bố nói riêng của các NHTM. Trong gần hai 
thập kỷ qua đã xuất hiện khá nhiều các bài viết tập 
trung đánh giá hành vi thao túng lợi nhuận riêng 
trong lĩnh vực ngân hàng. Vậy, khi tập trung vào 
một lĩnh vực đặc thù cách tiếp cận và phương pháp 
nghiên cứu có những khác biệt gì? Bài viết này 
tổng hợp trên 60 nghiên cứu về hành vi thao túng 
lợi nhuận công bố trong lĩnh vực tài chính ngân 
hàng để tổng kết những hướng nghiên cứu chính và 
chỉ ra những vấn đề còn tranh cãi cũng như một số 
nội dung còn chưa được quan tâm đúng mức, từ đó 
đề xuất hướng nghiên cứu cho tương lai. Cụ thể, kế 
thừa các nghiên cứu về chất lượng thông tin lợi 
nhuận báo cáo, các nghiên cứu trong lĩnh vực ngân 
hàng cũng đánh giá mức độ số liệu kế toán bị thao 
túng thông qua một số các tiêu chí: Chất lượng các 
khoản dồn tích; điều tiết số liệu nhằm đạt được các 
mục tiêu lợi nhuận; điều tiết nhằm đảm bảo mức độ 
ổn định của lợi nhuận, và khảo sát các trường hợp 
sai sót gian lận đã được báo cáo. Điểm khác biệt cơ 
bản là do đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngân 
hàng, việc xác định tổng dồn tích tương đối khác 
biệt so với các doanh nghiệp phi tài chính. Đồng 
thời, trong NHTM lại luôn có những khoản dồn 
tích lớn, trọng yếu điển hình là dự phòng rủi ro tín 
dụng, ngoài ra có thể kể đến lãi/lỗ chưa thực hiện 
từ đầu tư chứng khoán, các khoản hạch toán theo 
giá trị hợp lý. Đây là nhóm thông tin được đặc biệt 
chú ý trong các nghiên cứu về chất lượng thông tin 
lợi nhuận kế toán công bố của các NHTM. 
1 CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG 
CÁC KHOẢN DỒN TÍCH (ACCRUALS 
QUALITY) 
Các nghiên cứu đánh chất lượng thông tin lợi 
nhuận công bố (earnings quality) trong lĩnh vực tài 
chính ngân hàng đi theo 2 hướng chính: xem chất 
lượng của tổng các khoản hạch toán dồn tích và 
đánh giá chất lượng các khoản dồn tích cụ thể như 
dự phòng rủi ro tín dụng hoặc các khoản lãi/lỗ chưa 
thực hiện từ đầu tư và kinh doanh chứng khoán. 
1.1 Các nghiên cứu xác định tổng dồn tích 
và tổng dồn tích bất thường 
Mô hình của Jone (1991) và sau đó được hiệu 
chỉnh bởi Dechow et al. (1995) là một trong những 
mô hình kinh điển trong ước tính giá trị tổng dồn 
tích và dồn tích bất thường để đánh giá chất lượng 
thông tin lợi nhuận kế toán công bố. Tuy nhiên, do 
đặc thù trong hoạt động kinh doanh và kế toán của 
các ngân hàng nên việc áp dụng trực tiếp mô hình 
của Jone cho lĩnh vực này là không khả thi. Cụ thể 
theo mô hình của Jone, giá trị hạch toán dồn tích 
được xác định bằng thay đổi trong vốn lưu động 
(không bao gồm tiền; thuế và các khoản phải nộp 
ngân sách) trừ đi chi phí khấu hao. Các khoản dồn 
tích bị chi phối bởi 2 nhân tố chính là tăng trưởng 
doanh thu và giá trị tài sản cố định. Do đó, tổng 
dồn tích bất thường là phần dư trong mô hình hồi 
quy của giá trị dồn tích với các biến tác động là 
tăng trưởng doanh thu và tài sản cố định hữu hình. 
Khi áp dụng cho lĩnh vực ngân hàng, có 2 vấn đề 
phát sinh với mô hình này: 
 Về cách xác định giá trị dồn tích: Các ngân 
hàng không phân chia tài sản ngắn hạn và dài hạn, 
chi phí khấu hao cũng chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn 
trong tổng chi phí nên việc xác định giá trị dồn tích 
theo công thức của Jone là không khả thi và không 
phù hợp. 
 Về việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến 
giá trị dồn tích (và cũng là các biến độc lập trong 
mô hình xác định giá trị dồn tích bất thường): Giá 
trị tài sản cố định chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong 
tổng tài sản của ngân hàng và do đó không phải là 
nhân tố chính ảnh hưởng đến giá trị các khoản dồn 
tích. Hơn nữa, thu nhập và chi phí của các ngân 
hàng thương mại được phân loại theo bản chất 
không phải theo chức năng nên báo cáo kết quả 
hoạt động kinh doanh không có chỉ tiêu tổng doanh 
thu mà chỉ có thu nhập, chi phí và lợi nhuận ở từng 
mảng hoạt động. 
Yasuda et al. (2004) đã điều chỉnh mô hình của 
Jone để áp dụng cho lĩnh vực ngân hàng ở hai 
điểm: 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 122 
 Thay đổi công thức xác định giá trị các 
khoản dồn tích. Yasuda định nghĩa tổng dồn tích là 
chênh lệch giữa lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh 
và lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. 
Tuy nhiên, do báo cáo tài chính của các NHTM 
Nhật Bản giai đoạn trước 1990 không trình bày 
thông tin về luồng tiền từ hoạt động kinh doanh. 
Do đó, chỉ tiêu này được xác định gián tiếp bằng 
cách lấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và trừ 
đi một số thu nhập, chi phí không bằng tiền. Do đó, 
tổng các khoản dồn tích được xác định bằng: 
ACCR = EXPL + GLSS – NCEX + ΔWC 
Trong đó: EXPL là các khoản lãi/lỗ bất thường 
 GLSS: Lãi lỗ từ bán chứng khoán 
 NCEX: Chi phí không bằng tiền, gồm 
chi phí khấu hao, dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí 
xử lý nợ xấu, giảm giá trị chứng khoán và trái 
phiếu, các chi phí hoạt động khác 
 ΔWC: Tăng/giảm của vốn lưu động, 
được xác định bằng: Tăng/giảm chi phí trả trước + 
Tăng/giảm trong thu nhập dồn tích + Tăng/giảm tài 
sản khác – Tăng/giảm chi phí dồn tích – Tăng/giảm 
doanh thu chưa thực hiện – Tăng/giảm nợ khác. 
Như vậy, công thức xác định tổng dồn tích đã 
được điều chỉnh để phản ánh các đặc điểm của 
ngân hàng ví dụ bao gồm chi phí dự phòng rủi ro 
tín dụng, lãi/lỗ từ bán chứng khoán. Việc xác định 
tăng/giảm trong vốn lưu động cũng phức tạp hơn 
so với các doanh nghiệp phi tài chính. 
 Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng dồn tích 
gồm 2 nhân tố là tăng/giảm trong thu nhập hoạt 
động (operating income) và tài sản cố định của 
ngân hàng. 
Mô hình hiệu chỉnh này sau đó đã được một số 
nhà nghiên cứu sử dụng, ví dụ Leventis & 
Dimitropoulos (2012), Ugbede et al. (2013a), 
Ugbede et al. (2013b), Abaoub et al. (2013). Tuy 
nhiên, khi xác định giá trị dồn tích bất thường, các 
tác giả vẫn căn cứ vào phần dư từ mô hình hồi quy 
của tổng dồn tích với tăng trưởng thu nhập hoạt 
động và giá trị tài sản cố định hữu hình. Đây chưa 
hẳn là hai nhân tố có ảnh hưởng rõ nét và quyết 
định đến tổng dồn tích của các NHTM. Do đó, 
hướng tiếp cận này không phổ biến trong nghiên 
cứu về chất lượng thông tin lợi nhuận công bố 
trong các NHTM. 
1.2 Đánh giá chất lượng các khoản dồn tích 
cụ thể 
Do khó khăn trong việc xác định tổng dồn tích 
nên các nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng tập 
trung vào việc đánh giá chất lượng của một số 
khoản dồn tích cụ thể, ví dụ các khoản dự phòng 
hay lãi/lỗ chưa thực hiện từ đầu tư, kinh doanh 
chứng khoán. Hướng nghiên cứu này đặc biệt hữu 
ích trong việc đánh giá tác động của các nhân tố 
khác nhau đến chất lượng thông tin thông qua xem 
xét mối quan hệ giữa các yếu tố tác động và mức 
dồn tích bất thường. Dự phòng rủi ro tín dụng là 
khoản hạch toán lớn và quan trọng nhất của các 
NHTM và xuất hiện trong hầu hết các nghiên cứu 
đánh giá về hoạt động điều tiết thu nhập nhằm 
tránh lỗ, báo cáo lợi nhuận cao hơn và tránh sự trồi 
sụt quá mức của lợi nhuận trong ngân hàng. Các 
nghiên cứu điển hình có thể kể đến như Ahmed et 
al. (1999), Wall & Koch (2000), Kanagaretnam et 
al. (2003), Agarwal et al. (2007), Fonseca & 
González (2008), Kanagaretnam et al. (2010b), 
Kanagaretnam et al. (2011), Leventis et al. (2011), 
Cheng (2012), Leventis & Dimitropoulos (2012), 
Meisel (2013), Beatty & Liao (2014), 
Kanagaretnam et al. (2014), Hansen (2015),... Về 
cơ bản, phần lớn các nghiên cứu đều khẳng định sự 
tồn tại của các động thái thao túng lợi nhuận báo 
cáo cho các mục đích khác nhau thông qua dự 
phòng rủi ro. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những kết luận 
trái chiều theo đó, các NHTM không sử dụng các 
khoản dồn tích để thao túng lợi nhuận, ví dụ Beatty 
et al. (1995) hoặc Ahmed et al. (1999). Sự không 
thống nhất này cũng được tái khẳng định trong 
tổng kết về các nghiên cứu liên quan đến kế toán 
dự phòng rủi ro trong các NHTM của Wall & Koch 
(2000) và tổng quan nghiên cứu kế toán tài chính 
trong lĩnh vực ngân hàng của Beatty & Liao 
(2014). 
Các nghiên cứu trước cũng đưa ra bằng chứng 
về việc các NHTM sử dụng lãi/lỗ chưa thực hiện từ 
kinh doanh và đầu tư chứng khoán, hoặc lợi dụng 
việc hạch toán theo giá trị hợp lý để thao túng lợi 
nhuận, ví dụ Agarwal et al. (2007), Leventis & 
Dimitropoulos (2012), Barth et al. (2012a), Kilic et 
al. (2013), Wang & Sallehu (2014). Tuy nhiên, các 
nghiên cứu này chủ yếu tập trung ở các ngân hàng 
Mỹ và Nhật Bản. Nói cách khác, chất lượng của 
các khoản hạch toán dồn tích cụ thể ngoài dự 
phòng rủi ro tín dụng chưa thực sự được quan tâm 
thích đáng trong các nghiên cứu khác. 
Khi tập trung đánh giá chất lượng của các 
khoản dự phòng rủi ro tín dụng, cách xây dựng mô 
hình sử dụng để xác định mức dự phòng có thể giải 
thích được và dự phòng bất thường cũng là một 
vấn đề có thể gây tranh cãi. Các nghiên cứu về chất 
lượng của các khoản hạch toán dồn tích cho các 
lĩnh vực phi tài chính chủ yếu sử dụng một số mô 
hình phổ biến, điển hình là mô hình của Jone và 
mô hình của Dechow-Dichew – theo trích dẫn 
trong Dechow et al. (2010). Nhưng các nghiên cứu 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 123 
về mức dự phòng bất thường của ngân hàng sử 
dụng khá nhiều các mô hình khác nhau. Sự khác 
nhau chủ yếu là từ việc lựa chọn các biến kiểm soát 
để đưa vào mô hình, ví dụ có đưa vào mô hình các 
biến về chi phí xử lý nợ xấu; hệ số an toàn vốn 
CAR, cơ cấu danh mục cho vay, tỷ lệ dự phòng 
cho vay trên tổng dư nợ hay không? Hay nói cách 
khác, các nhà nghiên cứu trước không hoàn toàn 
thống nhất trong việc xác định những nhân tố nào 
ảnh hưởng đến mức dự phòng cần trích lập? Beatty 
& Liao (2014) đã tổng kết ít nhất 9 mô hình khác 
nhau đã được các nhà nghiên cứu trước sử dụng 
trong đánh giá mức dự phòng bất thường. Trên cơ 
sở phân tích nhân tố và kiểm định lại đồng thời cả 
9 mô hình trên cùng một bộ dữ liệu, Beatty & Liao 
(2014) đã đề xuất thêm 4 mô hình mới để đánh giá 
về dự phòng bất thường (xem phụ lục 1). Mặc dù 
vậy, Beatty & Liao (2014) cũng nhấn mạnh rằng 
không nhất thiết các nghiên cứu trong tương lai 
phải sử dụng mô hình phổ biến nhất hay có được 
sự đồng thuận cao nhất. 
Để thấy rõ hơn sự đa dạng trong các mô hình sử 
dụng, Bảng 1 tập hợp các biến kiểm soát được các 
nghiên cứu trước đưa vào mô hình để xác định giá 
trị khách quan hay không bị điều tiết của dự phòng. 
Bảng 1: Biến kiểm soát xác định giá trị dự phòng k ...  vay, có thể ảnh hưởng 
trọng yếu đến lợi nhuận của đơn vị ngân hàng. 
6 KẾT LUẬN 
Các nghiên cứu về hành vi thao túng lợi nhuận 
báo cáo trong lĩnh vực ngân hàng có thể được phân 
loại thành 4 nhóm lớn là nghiên cứu chất lượng các 
khoản dồn tích; hành vi điều tiết số liệu để đạt 
được các mục tiêu lợi nhuận; thao túng số liệu để 
ổn định lợi nhuận báo cáo và xem xét những chỉ 
báo bên ngoài về báo cáo sai. Tuy nhiên, các 
nghiên cứu này chủ yếu sử dụng số liệu nghiên cứu 
từ các quốc gia phát triển, các nghiên cứu tại các 
nước đang phát triển và các thị trường mới nổi còn 
khá mờ nhạt. Một số hướng nghiên cứu chưa có kết 
luận thống nhất như việc sử dụng dự phòng rủi ro 
tín dụng để ổn định lợi nhuận báo cáo hay cách 
thức xác định giá trị dự phòng khách quan, cách 
xác định khoảng cách tổ khi phân tích phân phối 
thống kê lợi nhuận. Một số lĩnh vực chưa được 
khai thác một cách thỏa đáng như so sánh độ dao 
động của lợi nhuận và luồng tiền, đánh giá chất 
lượng các khoản dồn tích cụ thể ngoài dự phòng rủi 
to tín dụng (ví dụ thu nhập lãi dồn tích). 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Abaoub, E., Homrani, K., & Gamra, S. B. (2013). 
The Determinants of Earnings Management: 
Empirical Evidence in the Tunisian Banking 
Industry (1999-2010). Journal of Business 
Studies Quarterly, 4(3), 62-72. 
Agarwal, S., Chomsisengphet, S., Liu, C., & Ghon 
Rhee, S. (2007). Earnings management behaviors 
under different economic environments: 
Evidence from Japanese banks. International 
Review of Economics & Finance, 16(3), 429-443. 
doi:  
Ahmed, A. S., Takeda, C., & Thomas, S. (1999). Bank 
loan loss provisions: a reexamination of capital 
management, earnings management and signaling 
effects. Journal of Accounting and Economics, 
28(1), 1-25. doi: 
4101(99)00017-8 
Akindayomi, A. (2012). Earnings management and 
the banking crisis of the 1990s: evidence from 
Nigeria. Academy of Accounting and Financial 
Studies Journal, 16(3), 119-135. 
Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal 
control regulation affect financial reporting? Journal 
of Accounting and Economics, 49(1–2), 58-74. doi: 
Anandarajan, A., Hasan, I., & Lozano-Vivas, A. 
(2003). The role of loan loss provision in 
earnings management, capital management and 
signaling - the Spanish experience. Advances in 
International Accounting, 16(0), 45-65. doi: 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 132 
5 
Anandarajan, A., Hasan, I., & McCarthy, C. (2007). 
Use of loan loss provisions for capital, earnings 
management and signalling by Australian banks. 
Accounting and Finance, 47(3), 357-379. 
Barth, M. E., Gómez-Biscarri, J., Kasznik, R., & 
López-Espinosa, G. (2012). Fair value 
accounting, earnings management and the use of 
available-for-sale instruments by bank managers: 
School of Economics and Business 
Administration, University of Navarra. 
Barth, M. E., Landsman, W. R., Lang, M., & Williams, 
C. (2012). Are IFRS-based and US GAAP-based 
accounting amounts comparable? Journal of 
Accounting and Economics, 54(1), 68-93. 
Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. 
(2008). International Accounting Standards and 
Accounting Quality. Journal of Accounting 
Research, 46(3), 467-498. doi: 10.1111/j.1475-
679X.2008.00287.x 
Beatty, A., Chamberlain, S. L., & Magliolo, J. 
(1995). Managing financial reports of 
commercial banks: The influence of taxes, 
regulatory capital, and earnings. Journal of 
Accounting Research, 231-261. 
Beatty, A., & Liao, S. (2014). Financial accounting 
in the banking industry: A review of the 
empirical literature. Journal of Accounting and 
Economics, 58(2–3), 339-383. doi: 
Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). 
Earnings management to avoid earnings declines 
across pubicily and privately held banks. The 
Accounting Review, 77(3), 547-570. 
Biurrun, V., & Rudolf, M. (2010). Mitigating Bank 
Earnings Management - The Role of Regulation 
and Supervision. Rochester: Social Science 
Research Network. 
Bouvatier, V., Lepetit, L., & Strobel, F. (2014). Bank 
income smoothing, ownership concentration and 
the regulatory environment. Journal of Banking 
& Finance, 41(0), 253-270. doi: 
Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997). Earnings 
management to avoid earnings decreases and 
losses. Journal of Accounting and Economics, 
24(1), 99-126. 
Cheng, X. (2012). Managing specific accruals vs. 
structuring transactions: Evidence from banking 
industry. Advances in Accounting, 28(1), 22-37. 
doi:  
Chi-Chun, L., & Ryan, S. G. (2006). Income 
Smoothing over the Business Cycle: Changes in 
Banks' Coordinated Management of Provisions 
for Loan Losses and Loan Charge-Offs from the 
Pre-1990 Bust to the 1990s Boom. The 
Accounting Review, 81(2), 421-441. 
Curcio, D., Dyer, D., Gallo, A., & Gianfrancesco, I. 
(2014). Determinants of banks’ provisioning policies 
during the crisis. Managerial Finance, 40(10), 987-
1006. doi: doi:10.1108/MF-10-2013-0295. 
DeBoskey, D. G., & Jiang, W. (2012). Earnings 
management and auditor specialization in the 
post-sox era: An examination of the banking 
industry. Journal of Banking & Finance, 36(2), 
613-623. doi: 
Dechow, P., Ge, W., & Schrand, C. (2010). 
Understanding earnings quality: A review of the 
proxies, their determinants and their 
consequences. Journal of Accounting and 
Economics, 50(2–3), 344-401. doi: 
Dechow, P. M., Sloan, R. G., & Sweeney, A. P. 
(1995). Detecting earnings management. The 
Accounting Review, 70(2), 193-225. 
Dimitropoulos, P. E., Asteriou, D., Kousenidis, D., 
& Leventis, S. (2013). The impact of IFRS on 
accounting quality: Evidence from Greece. 
Advances in Accounting, 29(1), 108-123. doi: 
Dương Nguyễn Thanh Tâm, (2013) Tác động của 
cấu trúc nợ đến chất lượng lợi nhuận của doanh 
nghiệp, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 85 
(tháng 4/2013), trang 51-58. 
El Sood, H. A. (2012). Loan loss provisioning and 
income smoothing in US banks pre and post the 
financial crisis. International Review of 
Financial Analysis, 25(0), 64-72. doi: 
Fonseca, A. R., & González, F. (2008). Cross-
country determinants of bank income smoothing 
by managing loan-loss provisions. Journal of 
Banking & Finance, 32(2), 217-228. doi: 
Gebhardt, G. u., & Novotny-Farkas, Z. (2011). 
Mandatory IFRS Adoption and Accounting 
Quality of European Banks. Journal of Business 
Finance & Accounting, 38(3-4), 289-333. doi: 
10.1111/j.1468-5957.2011.02242.x. 
Genay, H. (1998). Assessing the condition of 
Japanese banks: How informative are accounting 
earnings? Economic Perspectives - Federal 
Reserve Bank of Chicago, 22, 12-34. 
Green, B. P., & Reinstein, A. (2004). Banking 
industry financial statement fraud and the effects 
of regulation enforcement and increased public 
scrutiny. Research in Accounting Regulation, 17, 
87-106. doi: 
0457(04)17005-7. 
Hakim Ben, O., & Mersni, H. (2014). The use of 
discretionary loan loss provisions by Islamic 
banks and conventional banks in the Middle East 
region. Studies in Economics and Finance, 31(1), 
106-128. doi: 
2013-0017. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 133 
Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). Earnings 
management to avoid earnings decreases and 
losses: empirical evidence from Islamic banking 
industry. Research Journal of Finance and 
Accounting, 3(3), 88-106. 
Hansen, G. (2015). Managerial discretion over loan 
loss reserve during the global financial crisis. 
The International Journal of Business and 
Finance Research, 9(1), 51-61. 
Hassan, M. S., & Mohd-Saleh, N. (2010). The value 
relevance of financial instruments disclosure in 
Malaysian firms listed in the main board of bursa 
Malaysia. International Journal of Economics 
and Management, 4(2), 243-270. 
Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A Review of 
the Earnings Management Literature and Its 
Implications for Standard Setting. Accounting 
Horizons, 13(4), 365-383. 
Iatridis, G. (2010). International Financial Reporting 
Standards and the quality of financial statement 
information. International Review of Financial 
Analysis, 19(3), 193-204. doi: 
Ismail, A. G. b., Shaharudin, R. S., & Samudhram, A. 
R. (2005). Do Malaysian Banks Manage Earnings 
Through Loan Loss Provisions? Journal of 
Financial Reporting and Accounting, 3(1), 41-47. 
doi: doi:10.1108/19852510580000336. 
Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). Do accounting 
standards matter? An exploratory analysis of 
earnings management before and after IFRS 
adoption. Journal of Accounting and Public Policy, 
27(6), 480-494. doi: 
Kanagaretnam, K., Krishnan, G. V., & Lobo, G. J. 
(2010). An Empirical Analysis of Auditor 
Independence in the Banking Industry. The 
Accounting Review, 85(6), 2011-2046. 
Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2010). 
Auditor reputation and earnings management: 
International evidence from the banking industry. 
Journal of Banking & Finance, 34(10), 2318-
2327. doi: 
Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011). 
Effects of national culture on earnings quality of 
banks. Journal of International Business Studies, 
42(6), 853-874. 
Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2014). 
Effects of international institutional factors on 
earnings quality of banks. Journal of Banking & 
Finance, 39(0), 87-106. doi: 
Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Dong-Hoon, Y. 
(2004). Joint Tests of Signaling and Income 
Smoothing through Bank Loan Loss 
Provisions*. Contemporary Accounting 
Research, 21(4), 843-884. 
Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Mathieu, R. (2003). 
Managerial Incentives for Income Smoothing 
Through Bank Loan Loss Provisions. Review of 
Quantitative Finance and Accounting, 20(1), 63-80. 
Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Yang, D.-H. 
(2005). Determinants of signaling by banks 
through loan loss provisions. Journal of Business 
Research, 58(3), 312-320. doi: 
Kilic, E., Lobo, G. J., Ranasinghe, T., & 
Sivaramakrishnan, K. (2013). The Impact of 
SFAS 133 on Income Smoothing by Banks 
through Loan Loss Provisions. The Accounting 
Review, 88(1), 233-260. 
Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). Loan loss 
provisioning and economic slowdowns: too much, 
too late? Journal of Financial Intermediation, 
12(2), 178-197. doi: 
Lang, M., Raedy, J. S., & Yetman, M. H. (2003). 
How Representative Are Firms That Are Cross-
Listed in the United States? An Analysis of 
Accounting Quality. Journal of Accounting 
Research, 41(2), 363-386. doi: 10.1111/1475-
679X.00108. 
Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). 
Earnings management and investor protection: 
an international comparison. Journal of 
Financial Economics, 69(3), 505-527. 
Leventis, S., & Dimitropoulos, P. (2012). The role of 
corporate governance in earnings management: 
experience from US banks. Journal of Applied 
Accounting Research, 13(2), 161-177. doi: 
Leventis, S., Dimitropoulos, P. E., & Anandarajan, 
A. (2011). Loan Loss Provisions, Earnings 
Management and Capital Management under 
IFRS: The Case of EU Commercial Banks. 
Journal of Financial Services Research, 40(1-2), 
103-122. doi: 
010-0096-1. 
Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & 
Braga, M. J. (2013). Earnings management in 
Brazilian credit unions*. Brazilian Business 
Review, 10(4), 91-109. 
Meisel, S. I. (2013). Detecting Earnings 
Management in Bank Merger Targets Using an 
Industry Specific Model. Southern Business 
Review, 38(1), 1-20. 
Nguyễn Việt Dũng. (2010). Value-relevance of 
financial statement information: A flexible 
application of modern theories to the Vietnamese 
stock market. Quarterly Journal of Economics, 
84, 488-500. 
Nguyễn Thị Khánh Phương (2015), Nghiên cứu mối 
quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu 
của các công ty niêm yết trên thị trường chứng 
khoán Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh 
tế quốc dân Hà Nội. 
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 
 134 
Nguyễn Thị Thanh Hương, Lê Thị Xuân, Đào Nam 
Giang, Nguyễn Hồng Yến, Phùng Thị Hải Yến, 
và Phạm Thị Thơm (2006), Giải pháp nâng cao 
chất lượng hệ thống thông tin kế toán – thống kê 
trong quản trị tài chính ngân hàng thương mại, 
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện VNH 
2003-2004 của Ngân hàng Nhà nước. 
Nguyễn Thị Thanh Hương, Lê Anh Xuân, Phạm Thị 
Thơm, Phùng Thị Hải Yến, Đặng Thị Thùy 
Dương và Đoàn Thị Ngọc Phượng (2008), Áp 
dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong lĩnh vực 
kế toán ngân hàng tại Việt Nam, Đề tài nghiên 
cứu khoa học cấp ngành KHN 2007-05, Ngân 
hàng nhà nước Việt Nam. 
Nguyễn Thị Thu Hiền (2010), “Hoàn thiện kế toán 
công cụ tài chính tại các NH ở Việt Nam”, Luận 
án tiến sỹ, ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. 
Nobes, C., & Parker, R. H. (2008). Comparative 
international accounting: Pearson Education. 
Packer, F., & Zhu, H. (2012). Loan loss provisioning 
practices of Asian banks, BIS Working Paper, 
No. 375. Available at SSRN: 
https://ssrn.com/abstract=2038215 or 
Quttainah, M. A., Song, L., & Wu, Q. (2013). Do 
Islamic Banks Employ Less Earnings 
Management? Journal of International Financial 
Management & Accounting, 24(3), 203-233. doi: 
Shen, C.-H., & Chih, H.-L. (2005). Investor 
protection, prospect theory, and earnings 
management: An international comparison of the 
banking industry. Journal of Banking & Finance, 
29(10), 2675-2697. doi: 
Shrieves, R. E., & Dahl, D. (2003). Discretionary 
accounting and the behavior of Japanese banks 
under financial duress. Journal of Banking & 
Finance, 27(7), 1219-1243. doi: 
Stlowy, H., & Breton, G. (2004). Accounts 
Manipulation: A Literature Review and Proposed 
Conceptual Framework. Review of Accounting & 
Finance, 3(1), 5-66. 
Taktak, N. B., Shabou, R., & Dumontier, P. (2010). 
Income Smoothing Practices: Evidence from 
Banks Operating in OECD Countries. 
International Journal of Economics and Finance, 
2(4), 140-150. 
Ugbede, O., Lizam, M., & Kaseri, A. (2013). 
Corporate governance and earnings management: 
empirical evidence from Malaysian and Nigerian 
banks. Asian Journal of Management Sciences & 
Education, 2(4), 1-21. 
Ugbede, O., Lizam, M., Kaseri, A., & Lame, S. M. 
(2013). Do Malaysian and Nigerian Accounting 
Standards Produce Similar Earnings Quality for 
Banks? International Journal of Management 
Sciences and Business Research, 2(7), 1-16. doi: 
10.2308/acch.2010.24.3.355 
Wall, L. D., & Koch, T. W. (2000). Bank loan-loss 
accounting: A review of theoretical and 
empirical evidence. Economic Review - Federal 
Reserve Bank of Atlanta, 85(2), 1-19. 
Wang, R. Z., & Sallehu, M. (2014). THE HIDDEN 
MESSAGE IN AFS SECURITIES OF US 
BANKS. The International Journal of Business 
and Finance Research, 8(3), 59-70. 
Yasuda, Y., Okuda, S. y., & Konishi, M. (2004). The 
Relationship Between Bank Risk and Earnings 
Management: Evidence from Japan. Review of 
Quantitative Finance and Accounting, 22(3), 
233-248. 
Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). Audit committee, 
board characteristics and earnings management 
by commercial banks. Unpublished Manuscript. 

File đính kèm:

  • pdftong_quan_nghien_cuu_ve_thao_tung_loi_nhuan_cong_bo_boi_cac.pdf