Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại
Bài viết tổng hợp các nghiên cứu về hoạt động thao túng hay điều tiết lợi
nhuận (earnings management) theo 4 nhóm là đánh giá chất lượng các
khoản dồn tích, thao túng dự phòng để ổn định lợi nhuận, điều tiết số liệu
để đạt các mục tiêu về lợi nhuận, và khảo sát các gian lận và sai sót đã
được phát hiện, đồng thời làm rõ những vấn đề còn tranh cãi hoặc chưa
được giải quyết ở từng hướng nghiên cứu. Các phân tích trong bài đã chỉ
ra rằng hoạtđộng thao túng lợi nhuận ở các ngân hàng thương mại ởnền
kinh tế đang phát triển và chuyểnđổi vẫn là một khoảng trống nghiên cứu
lớn. Câu hỏi về khả năng điều tiết dự phòng để ổn định lợi nhuận tại các
quốc gia châu Á như Việt Nam vẫn là một câu hỏi mở. Bên cạnh đó, tác
giảcũng chỉra cơhộiđểvận dụng các thướcđo chất lượng lợi nhuận phổ
biến trong các nghiên cứu ở lĩnh vực phi tài chính cho các ngân hàng
thương mại.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại
Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 120 Bài tổng quan DOI:10.22144/jvn.2017.637 TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU VỀ THAO TÚNG LỢI NHUẬN CÔNG BỐ BỞI CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Đào Nam Giang Khoa Kế toán – Kiểm toán, Học viện Ngân hàng Thông tin chung: Ngày nhận: 02/06/2016 Ngày chấp nhận: 28/02/2017 Title: A literature review on earnings management in banking industry Từ khóa: Thao túng/điều tiết lợi nhuận kế toán, ổn định lợi nhuận, các khoản dồn tích, dự phòng rủi ro tín dụng, phân phối của lợi nhuận Keywords: Accruals, earnings distribution, earnings management, earnings smoothing, loan loss provision ABSTRACT This paper is aimed to provide a literature review on earnings management in banking industry through 4 research groups including accruals quality, earnings smoothing through loan loss provision, benchmark beating and external indicators of earnings misstatement. The discussion on controversial issues among previous studies helps to determine research gaps and propose direction for future research. Specifically, earnings management in banking industry in developing countries rarely dealt with by previous studies and is a fertile field for future research. Besides, whether commercial banks, especially in Asian countries, using loan loss provision to smooth earnings remains an open question. Some proxies of earnings management have also been neglected in banking industry, e.g. comparing variability of earnings and variability of cashflow. TÓM TẮT Bài viết tổng hợp các nghiên cứu về hoạt động thao túng hay điều tiết lợi nhuận (earnings management) theo 4 nhóm là đánh giá chất lượng các khoản dồn tích, thao túng dự phòng để ổn định lợi nhuận, điều tiết số liệu để đạt các mục tiêu về lợi nhuận, và khảo sát các gian lận và sai sót đã được phát hiện, đồng thời làm rõ những vấn đề còn tranh cãi hoặc chưa được giải quyết ở từng hướng nghiên cứu. Các phân tích trong bài đã chỉ ra rằng hoạt động thao túng lợi nhuận ở các ngân hàng thương mại ở nền kinh tế đang phát triển và chuyển đổi vẫn là một khoảng trống nghiên cứu lớn. Câu hỏi về khả năng điều tiết dự phòng để ổn định lợi nhuận tại các quốc gia châu Á như Việt Nam vẫn là một câu hỏi mở. Bên cạnh đó, tác giả cũng chỉ ra cơ hội để vận dụng các thước đo chất lượng lợi nhuận phổ biến trong các nghiên cứu ở lĩnh vực phi tài chính cho các ngân hàng thương mại. Trích dẫn: Đào Nam Giang, 2017. Tổng quan nghiên cứu về thao túng lợi nhuận công bố bởi các ngân hàng thương mại. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần Thơ. 48d: 120-134. Giới thiệu: Theo Healy & Wahlen (1999), “Thao túng hay điều tiết lợi nhuận (earnings management) xảy ra khi các nhà quản trị sử dụng những xét đoán của họ trong quá trình lập báo cáo tài chính (BCTC) và trong việc thiết kế các giao dịch kinh tế nhằm bóp méo số liệu báo cáo hoặc làm cho các bên có liên quan hiểu sai về kết quả hoạt động kinh doanh thực của công ty, hoặc để tác động đến số liệu kế toán báo cáo về các kết quả theo hợp đồng giữa các bên”. Như vậy, việc thao túng lợi nhuận sẽ làm cho lợi nhuận báo cáo không phản ánh trung thực kết quả hoạt động của đơn vị và do đó làm suy giảm chất lượng thông tin kế toán công bố. Đây cũng chính là lý do mà trong khoảng 3 thập kỷ vừa qua, nghiên cứu đánh giá về mức độ thao túng lợi nhuận báo cáo đã trở thành một trong Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 121 những chủ đề nghiên cứu rất được quan tâm trong kế toán tài chính. Tuy nhiên, nhiều nghiên cứu về thao túng lợi nhuận kế toán đã loại trừ các ngân hàng thương mại (NHTM) khỏi mẫu nghiên cứu. Lý do các đơn vị này có những khác biệt nhất định trong hoạt động kinh doanh và kéo theo đó là các quy định về chế độ kế toán và báo cáo tài chính áp dụng. Các đơn vị trong ngành tài chính cũng bị chi phối bởi các quy định giám sát và quản lý riêng ví dụ quy định về an toàn vốn theo khuôn khổ của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế (BIS), hoặc các quy định liên quan đến thanh tra giám sát ngân hàng. Hệ thống ngân hàng cũng đóng vai trò rất quan trọng trong hệ thống tài chính và sự ổn định của nền kinh tế. Hoạt động ngân hàng lại dựa rất nhiều vào yếu tố niềm tin. Trong giám sát hoạt động ngân hàng, BIS cũng đã chỉ ra 3 cột trụ cơ bản, trong đó cột trụ thứ 3 chính là minh bạch thông tin để tăng cường sự giám sát của thị trường. Chính vì thế, các cuộc khủng hoảng tài chính gần đây (khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998, khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008), đã khiến cho công chúng cũng như các nhà quản lý, các nhà phân tích đầu tư và các nhà làm chính sách trở nên đặc biệt quan tâm tới vấn đề về chất lượng thông tin kế toán nói chung và thông tin lợi nhuận kế toán công bố nói riêng của các NHTM. Trong gần hai thập kỷ qua đã xuất hiện khá nhiều các bài viết tập trung đánh giá hành vi thao túng lợi nhuận riêng trong lĩnh vực ngân hàng. Vậy, khi tập trung vào một lĩnh vực đặc thù cách tiếp cận và phương pháp nghiên cứu có những khác biệt gì? Bài viết này tổng hợp trên 60 nghiên cứu về hành vi thao túng lợi nhuận công bố trong lĩnh vực tài chính ngân hàng để tổng kết những hướng nghiên cứu chính và chỉ ra những vấn đề còn tranh cãi cũng như một số nội dung còn chưa được quan tâm đúng mức, từ đó đề xuất hướng nghiên cứu cho tương lai. Cụ thể, kế thừa các nghiên cứu về chất lượng thông tin lợi nhuận báo cáo, các nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng cũng đánh giá mức độ số liệu kế toán bị thao túng thông qua một số các tiêu chí: Chất lượng các khoản dồn tích; điều tiết số liệu nhằm đạt được các mục tiêu lợi nhuận; điều tiết nhằm đảm bảo mức độ ổn định của lợi nhuận, và khảo sát các trường hợp sai sót gian lận đã được báo cáo. Điểm khác biệt cơ bản là do đặc thù trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, việc xác định tổng dồn tích tương đối khác biệt so với các doanh nghiệp phi tài chính. Đồng thời, trong NHTM lại luôn có những khoản dồn tích lớn, trọng yếu điển hình là dự phòng rủi ro tín dụng, ngoài ra có thể kể đến lãi/lỗ chưa thực hiện từ đầu tư chứng khoán, các khoản hạch toán theo giá trị hợp lý. Đây là nhóm thông tin được đặc biệt chú ý trong các nghiên cứu về chất lượng thông tin lợi nhuận kế toán công bố của các NHTM. 1 CÁC NGHIÊN CỨU VỀ CHẤT LƯỢNG CÁC KHOẢN DỒN TÍCH (ACCRUALS QUALITY) Các nghiên cứu đánh chất lượng thông tin lợi nhuận công bố (earnings quality) trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đi theo 2 hướng chính: xem chất lượng của tổng các khoản hạch toán dồn tích và đánh giá chất lượng các khoản dồn tích cụ thể như dự phòng rủi ro tín dụng hoặc các khoản lãi/lỗ chưa thực hiện từ đầu tư và kinh doanh chứng khoán. 1.1 Các nghiên cứu xác định tổng dồn tích và tổng dồn tích bất thường Mô hình của Jone (1991) và sau đó được hiệu chỉnh bởi Dechow et al. (1995) là một trong những mô hình kinh điển trong ước tính giá trị tổng dồn tích và dồn tích bất thường để đánh giá chất lượng thông tin lợi nhuận kế toán công bố. Tuy nhiên, do đặc thù trong hoạt động kinh doanh và kế toán của các ngân hàng nên việc áp dụng trực tiếp mô hình của Jone cho lĩnh vực này là không khả thi. Cụ thể theo mô hình của Jone, giá trị hạch toán dồn tích được xác định bằng thay đổi trong vốn lưu động (không bao gồm tiền; thuế và các khoản phải nộp ngân sách) trừ đi chi phí khấu hao. Các khoản dồn tích bị chi phối bởi 2 nhân tố chính là tăng trưởng doanh thu và giá trị tài sản cố định. Do đó, tổng dồn tích bất thường là phần dư trong mô hình hồi quy của giá trị dồn tích với các biến tác động là tăng trưởng doanh thu và tài sản cố định hữu hình. Khi áp dụng cho lĩnh vực ngân hàng, có 2 vấn đề phát sinh với mô hình này: Về cách xác định giá trị dồn tích: Các ngân hàng không phân chia tài sản ngắn hạn và dài hạn, chi phí khấu hao cũng chỉ chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong tổng chi phí nên việc xác định giá trị dồn tích theo công thức của Jone là không khả thi và không phù hợp. Về việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến giá trị dồn tích (và cũng là các biến độc lập trong mô hình xác định giá trị dồn tích bất thường): Giá trị tài sản cố định chỉ chiếm một tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản của ngân hàng và do đó không phải là nhân tố chính ảnh hưởng đến giá trị các khoản dồn tích. Hơn nữa, thu nhập và chi phí của các ngân hàng thương mại được phân loại theo bản chất không phải theo chức năng nên báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh không có chỉ tiêu tổng doanh thu mà chỉ có thu nhập, chi phí và lợi nhuận ở từng mảng hoạt động. Yasuda et al. (2004) đã điều chỉnh mô hình của Jone để áp dụng cho lĩnh vực ngân hàng ở hai điểm: Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 122 Thay đổi công thức xác định giá trị các khoản dồn tích. Yasuda định nghĩa tổng dồn tích là chênh lệch giữa lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và lưu chuyển tiền thuần từ hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, do báo cáo tài chính của các NHTM Nhật Bản giai đoạn trước 1990 không trình bày thông tin về luồng tiền từ hoạt động kinh doanh. Do đó, chỉ tiêu này được xác định gián tiếp bằng cách lấy lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh và trừ đi một số thu nhập, chi phí không bằng tiền. Do đó, tổng các khoản dồn tích được xác định bằng: ACCR = EXPL + GLSS – NCEX + ΔWC Trong đó: EXPL là các khoản lãi/lỗ bất thường GLSS: Lãi lỗ từ bán chứng khoán NCEX: Chi phí không bằng tiền, gồm chi phí khấu hao, dự phòng rủi ro tín dụng, chi phí xử lý nợ xấu, giảm giá trị chứng khoán và trái phiếu, các chi phí hoạt động khác ΔWC: Tăng/giảm của vốn lưu động, được xác định bằng: Tăng/giảm chi phí trả trước + Tăng/giảm trong thu nhập dồn tích + Tăng/giảm tài sản khác – Tăng/giảm chi phí dồn tích – Tăng/giảm doanh thu chưa thực hiện – Tăng/giảm nợ khác. Như vậy, công thức xác định tổng dồn tích đã được điều chỉnh để phản ánh các đặc điểm của ngân hàng ví dụ bao gồm chi phí dự phòng rủi ro tín dụng, lãi/lỗ từ bán chứng khoán. Việc xác định tăng/giảm trong vốn lưu động cũng phức tạp hơn so với các doanh nghiệp phi tài chính. Các nhân tố ảnh hưởng đến tổng dồn tích gồm 2 nhân tố là tăng/giảm trong thu nhập hoạt động (operating income) và tài sản cố định của ngân hàng. Mô hình hiệu chỉnh này sau đó đã được một số nhà nghiên cứu sử dụng, ví dụ Leventis & Dimitropoulos (2012), Ugbede et al. (2013a), Ugbede et al. (2013b), Abaoub et al. (2013). Tuy nhiên, khi xác định giá trị dồn tích bất thường, các tác giả vẫn căn cứ vào phần dư từ mô hình hồi quy của tổng dồn tích với tăng trưởng thu nhập hoạt động và giá trị tài sản cố định hữu hình. Đây chưa hẳn là hai nhân tố có ảnh hưởng rõ nét và quyết định đến tổng dồn tích của các NHTM. Do đó, hướng tiếp cận này không phổ biến trong nghiên cứu về chất lượng thông tin lợi nhuận công bố trong các NHTM. 1.2 Đánh giá chất lượng các khoản dồn tích cụ thể Do khó khăn trong việc xác định tổng dồn tích nên các nghiên cứu trong lĩnh vực ngân hàng tập trung vào việc đánh giá chất lượng của một số khoản dồn tích cụ thể, ví dụ các khoản dự phòng hay lãi/lỗ chưa thực hiện từ đầu tư, kinh doanh chứng khoán. Hướng nghiên cứu này đặc biệt hữu ích trong việc đánh giá tác động của các nhân tố khác nhau đến chất lượng thông tin thông qua xem xét mối quan hệ giữa các yếu tố tác động và mức dồn tích bất thường. Dự phòng rủi ro tín dụng là khoản hạch toán lớn và quan trọng nhất của các NHTM và xuất hiện trong hầu hết các nghiên cứu đánh giá về hoạt động điều tiết thu nhập nhằm tránh lỗ, báo cáo lợi nhuận cao hơn và tránh sự trồi sụt quá mức của lợi nhuận trong ngân hàng. Các nghiên cứu điển hình có thể kể đến như Ahmed et al. (1999), Wall & Koch (2000), Kanagaretnam et al. (2003), Agarwal et al. (2007), Fonseca & González (2008), Kanagaretnam et al. (2010b), Kanagaretnam et al. (2011), Leventis et al. (2011), Cheng (2012), Leventis & Dimitropoulos (2012), Meisel (2013), Beatty & Liao (2014), Kanagaretnam et al. (2014), Hansen (2015),... Về cơ bản, phần lớn các nghiên cứu đều khẳng định sự tồn tại của các động thái thao túng lợi nhuận báo cáo cho các mục đích khác nhau thông qua dự phòng rủi ro. Tuy nhiên, vẫn tồn tại những kết luận trái chiều theo đó, các NHTM không sử dụng các khoản dồn tích để thao túng lợi nhuận, ví dụ Beatty et al. (1995) hoặc Ahmed et al. (1999). Sự không thống nhất này cũng được tái khẳng định trong tổng kết về các nghiên cứu liên quan đến kế toán dự phòng rủi ro trong các NHTM của Wall & Koch (2000) và tổng quan nghiên cứu kế toán tài chính trong lĩnh vực ngân hàng của Beatty & Liao (2014). Các nghiên cứu trước cũng đưa ra bằng chứng về việc các NHTM sử dụng lãi/lỗ chưa thực hiện từ kinh doanh và đầu tư chứng khoán, hoặc lợi dụng việc hạch toán theo giá trị hợp lý để thao túng lợi nhuận, ví dụ Agarwal et al. (2007), Leventis & Dimitropoulos (2012), Barth et al. (2012a), Kilic et al. (2013), Wang & Sallehu (2014). Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu tập trung ở các ngân hàng Mỹ và Nhật Bản. Nói cách khác, chất lượng của các khoản hạch toán dồn tích cụ thể ngoài dự phòng rủi ro tín dụng chưa thực sự được quan tâm thích đáng trong các nghiên cứu khác. Khi tập trung đánh giá chất lượng của các khoản dự phòng rủi ro tín dụng, cách xây dựng mô hình sử dụng để xác định mức dự phòng có thể giải thích được và dự phòng bất thường cũng là một vấn đề có thể gây tranh cãi. Các nghiên cứu về chất lượng của các khoản hạch toán dồn tích cho các lĩnh vực phi tài chính chủ yếu sử dụng một số mô hình phổ biến, điển hình là mô hình của Jone và mô hình của Dechow-Dichew – theo trích dẫn trong Dechow et al. (2010). Nhưng các nghiên cứu Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 123 về mức dự phòng bất thường của ngân hàng sử dụng khá nhiều các mô hình khác nhau. Sự khác nhau chủ yếu là từ việc lựa chọn các biến kiểm soát để đưa vào mô hình, ví dụ có đưa vào mô hình các biến về chi phí xử lý nợ xấu; hệ số an toàn vốn CAR, cơ cấu danh mục cho vay, tỷ lệ dự phòng cho vay trên tổng dư nợ hay không? Hay nói cách khác, các nhà nghiên cứu trước không hoàn toàn thống nhất trong việc xác định những nhân tố nào ảnh hưởng đến mức dự phòng cần trích lập? Beatty & Liao (2014) đã tổng kết ít nhất 9 mô hình khác nhau đã được các nhà nghiên cứu trước sử dụng trong đánh giá mức dự phòng bất thường. Trên cơ sở phân tích nhân tố và kiểm định lại đồng thời cả 9 mô hình trên cùng một bộ dữ liệu, Beatty & Liao (2014) đã đề xuất thêm 4 mô hình mới để đánh giá về dự phòng bất thường (xem phụ lục 1). Mặc dù vậy, Beatty & Liao (2014) cũng nhấn mạnh rằng không nhất thiết các nghiên cứu trong tương lai phải sử dụng mô hình phổ biến nhất hay có được sự đồng thuận cao nhất. Để thấy rõ hơn sự đa dạng trong các mô hình sử dụng, Bảng 1 tập hợp các biến kiểm soát được các nghiên cứu trước đưa vào mô hình để xác định giá trị khách quan hay không bị điều tiết của dự phòng. Bảng 1: Biến kiểm soát xác định giá trị dự phòng k ... vay, có thể ảnh hưởng trọng yếu đến lợi nhuận của đơn vị ngân hàng. 6 KẾT LUẬN Các nghiên cứu về hành vi thao túng lợi nhuận báo cáo trong lĩnh vực ngân hàng có thể được phân loại thành 4 nhóm lớn là nghiên cứu chất lượng các khoản dồn tích; hành vi điều tiết số liệu để đạt được các mục tiêu lợi nhuận; thao túng số liệu để ổn định lợi nhuận báo cáo và xem xét những chỉ báo bên ngoài về báo cáo sai. Tuy nhiên, các nghiên cứu này chủ yếu sử dụng số liệu nghiên cứu từ các quốc gia phát triển, các nghiên cứu tại các nước đang phát triển và các thị trường mới nổi còn khá mờ nhạt. Một số hướng nghiên cứu chưa có kết luận thống nhất như việc sử dụng dự phòng rủi ro tín dụng để ổn định lợi nhuận báo cáo hay cách thức xác định giá trị dự phòng khách quan, cách xác định khoảng cách tổ khi phân tích phân phối thống kê lợi nhuận. Một số lĩnh vực chưa được khai thác một cách thỏa đáng như so sánh độ dao động của lợi nhuận và luồng tiền, đánh giá chất lượng các khoản dồn tích cụ thể ngoài dự phòng rủi to tín dụng (ví dụ thu nhập lãi dồn tích). TÀI LIỆU THAM KHẢO Abaoub, E., Homrani, K., & Gamra, S. B. (2013). The Determinants of Earnings Management: Empirical Evidence in the Tunisian Banking Industry (1999-2010). Journal of Business Studies Quarterly, 4(3), 62-72. Agarwal, S., Chomsisengphet, S., Liu, C., & Ghon Rhee, S. (2007). Earnings management behaviors under different economic environments: Evidence from Japanese banks. International Review of Economics & Finance, 16(3), 429-443. doi: Ahmed, A. S., Takeda, C., & Thomas, S. (1999). Bank loan loss provisions: a reexamination of capital management, earnings management and signaling effects. Journal of Accounting and Economics, 28(1), 1-25. doi: 4101(99)00017-8 Akindayomi, A. (2012). Earnings management and the banking crisis of the 1990s: evidence from Nigeria. Academy of Accounting and Financial Studies Journal, 16(3), 119-135. Altamuro, J., & Beatty, A. (2010). How does internal control regulation affect financial reporting? Journal of Accounting and Economics, 49(1–2), 58-74. doi: Anandarajan, A., Hasan, I., & Lozano-Vivas, A. (2003). The role of loan loss provision in earnings management, capital management and signaling - the Spanish experience. Advances in International Accounting, 16(0), 45-65. doi: Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 132 5 Anandarajan, A., Hasan, I., & McCarthy, C. (2007). Use of loan loss provisions for capital, earnings management and signalling by Australian banks. Accounting and Finance, 47(3), 357-379. Barth, M. E., Gómez-Biscarri, J., Kasznik, R., & López-Espinosa, G. (2012). Fair value accounting, earnings management and the use of available-for-sale instruments by bank managers: School of Economics and Business Administration, University of Navarra. Barth, M. E., Landsman, W. R., Lang, M., & Williams, C. (2012). Are IFRS-based and US GAAP-based accounting amounts comparable? Journal of Accounting and Economics, 54(1), 68-93. Barth, M. E., Landsman, W. R., & Lang, M. H. (2008). International Accounting Standards and Accounting Quality. Journal of Accounting Research, 46(3), 467-498. doi: 10.1111/j.1475- 679X.2008.00287.x Beatty, A., Chamberlain, S. L., & Magliolo, J. (1995). Managing financial reports of commercial banks: The influence of taxes, regulatory capital, and earnings. Journal of Accounting Research, 231-261. Beatty, A., & Liao, S. (2014). Financial accounting in the banking industry: A review of the empirical literature. Journal of Accounting and Economics, 58(2–3), 339-383. doi: Beatty, A. L., Ke, B., & Petroni, K. R. (2002). Earnings management to avoid earnings declines across pubicily and privately held banks. The Accounting Review, 77(3), 547-570. Biurrun, V., & Rudolf, M. (2010). Mitigating Bank Earnings Management - The Role of Regulation and Supervision. Rochester: Social Science Research Network. Bouvatier, V., Lepetit, L., & Strobel, F. (2014). Bank income smoothing, ownership concentration and the regulatory environment. Journal of Banking & Finance, 41(0), 253-270. doi: Burgstahler, D., & Dichev, I. (1997). Earnings management to avoid earnings decreases and losses. Journal of Accounting and Economics, 24(1), 99-126. Cheng, X. (2012). Managing specific accruals vs. structuring transactions: Evidence from banking industry. Advances in Accounting, 28(1), 22-37. doi: Chi-Chun, L., & Ryan, S. G. (2006). Income Smoothing over the Business Cycle: Changes in Banks' Coordinated Management of Provisions for Loan Losses and Loan Charge-Offs from the Pre-1990 Bust to the 1990s Boom. The Accounting Review, 81(2), 421-441. Curcio, D., Dyer, D., Gallo, A., & Gianfrancesco, I. (2014). Determinants of banks’ provisioning policies during the crisis. Managerial Finance, 40(10), 987- 1006. doi: doi:10.1108/MF-10-2013-0295. DeBoskey, D. G., & Jiang, W. (2012). Earnings management and auditor specialization in the post-sox era: An examination of the banking industry. Journal of Banking & Finance, 36(2), 613-623. doi: Dechow, P., Ge, W., & Schrand, C. (2010). Understanding earnings quality: A review of the proxies, their determinants and their consequences. Journal of Accounting and Economics, 50(2–3), 344-401. doi: Dechow, P. M., Sloan, R. G., & Sweeney, A. P. (1995). Detecting earnings management. The Accounting Review, 70(2), 193-225. Dimitropoulos, P. E., Asteriou, D., Kousenidis, D., & Leventis, S. (2013). The impact of IFRS on accounting quality: Evidence from Greece. Advances in Accounting, 29(1), 108-123. doi: Dương Nguyễn Thanh Tâm, (2013) Tác động của cấu trúc nợ đến chất lượng lợi nhuận của doanh nghiệp, Tạp chí Công nghệ ngân hàng, số 85 (tháng 4/2013), trang 51-58. El Sood, H. A. (2012). Loan loss provisioning and income smoothing in US banks pre and post the financial crisis. International Review of Financial Analysis, 25(0), 64-72. doi: Fonseca, A. R., & González, F. (2008). Cross- country determinants of bank income smoothing by managing loan-loss provisions. Journal of Banking & Finance, 32(2), 217-228. doi: Gebhardt, G. u., & Novotny-Farkas, Z. (2011). Mandatory IFRS Adoption and Accounting Quality of European Banks. Journal of Business Finance & Accounting, 38(3-4), 289-333. doi: 10.1111/j.1468-5957.2011.02242.x. Genay, H. (1998). Assessing the condition of Japanese banks: How informative are accounting earnings? Economic Perspectives - Federal Reserve Bank of Chicago, 22, 12-34. Green, B. P., & Reinstein, A. (2004). Banking industry financial statement fraud and the effects of regulation enforcement and increased public scrutiny. Research in Accounting Regulation, 17, 87-106. doi: 0457(04)17005-7. Hakim Ben, O., & Mersni, H. (2014). The use of discretionary loan loss provisions by Islamic banks and conventional banks in the Middle East region. Studies in Economics and Finance, 31(1), 106-128. doi: 2013-0017. Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 133 Hamdi, F. M., & Zarai, M. A. (2012). Earnings management to avoid earnings decreases and losses: empirical evidence from Islamic banking industry. Research Journal of Finance and Accounting, 3(3), 88-106. Hansen, G. (2015). Managerial discretion over loan loss reserve during the global financial crisis. The International Journal of Business and Finance Research, 9(1), 51-61. Hassan, M. S., & Mohd-Saleh, N. (2010). The value relevance of financial instruments disclosure in Malaysian firms listed in the main board of bursa Malaysia. International Journal of Economics and Management, 4(2), 243-270. Healy, P. M., & Wahlen, J. M. (1999). A Review of the Earnings Management Literature and Its Implications for Standard Setting. Accounting Horizons, 13(4), 365-383. Iatridis, G. (2010). International Financial Reporting Standards and the quality of financial statement information. International Review of Financial Analysis, 19(3), 193-204. doi: Ismail, A. G. b., Shaharudin, R. S., & Samudhram, A. R. (2005). Do Malaysian Banks Manage Earnings Through Loan Loss Provisions? Journal of Financial Reporting and Accounting, 3(1), 41-47. doi: doi:10.1108/19852510580000336. Jeanjean, T., & Stolowy, H. (2008). Do accounting standards matter? An exploratory analysis of earnings management before and after IFRS adoption. Journal of Accounting and Public Policy, 27(6), 480-494. doi: Kanagaretnam, K., Krishnan, G. V., & Lobo, G. J. (2010). An Empirical Analysis of Auditor Independence in the Banking Industry. The Accounting Review, 85(6), 2011-2046. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2010). Auditor reputation and earnings management: International evidence from the banking industry. Journal of Banking & Finance, 34(10), 2318- 2327. doi: Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2011). Effects of national culture on earnings quality of banks. Journal of International Business Studies, 42(6), 853-874. Kanagaretnam, K., Lim, C. Y., & Lobo, G. J. (2014). Effects of international institutional factors on earnings quality of banks. Journal of Banking & Finance, 39(0), 87-106. doi: Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Dong-Hoon, Y. (2004). Joint Tests of Signaling and Income Smoothing through Bank Loan Loss Provisions*. Contemporary Accounting Research, 21(4), 843-884. Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Mathieu, R. (2003). Managerial Incentives for Income Smoothing Through Bank Loan Loss Provisions. Review of Quantitative Finance and Accounting, 20(1), 63-80. Kanagaretnam, K., Lobo, G. J., & Yang, D.-H. (2005). Determinants of signaling by banks through loan loss provisions. Journal of Business Research, 58(3), 312-320. doi: Kilic, E., Lobo, G. J., Ranasinghe, T., & Sivaramakrishnan, K. (2013). The Impact of SFAS 133 on Income Smoothing by Banks through Loan Loss Provisions. The Accounting Review, 88(1), 233-260. Laeven, L., & Majnoni, G. (2003). Loan loss provisioning and economic slowdowns: too much, too late? Journal of Financial Intermediation, 12(2), 178-197. doi: Lang, M., Raedy, J. S., & Yetman, M. H. (2003). How Representative Are Firms That Are Cross- Listed in the United States? An Analysis of Accounting Quality. Journal of Accounting Research, 41(2), 363-386. doi: 10.1111/1475- 679X.00108. Leuz, C., Nanda, D., & Wysocki, P. D. (2003). Earnings management and investor protection: an international comparison. Journal of Financial Economics, 69(3), 505-527. Leventis, S., & Dimitropoulos, P. (2012). The role of corporate governance in earnings management: experience from US banks. Journal of Applied Accounting Research, 13(2), 161-177. doi: Leventis, S., Dimitropoulos, P. E., & Anandarajan, A. (2011). Loan Loss Provisions, Earnings Management and Capital Management under IFRS: The Case of EU Commercial Banks. Journal of Financial Services Research, 40(1-2), 103-122. doi: 010-0096-1. Maia, S. C., Bressan, V. G. F., Lamounier, W. M., & Braga, M. J. (2013). Earnings management in Brazilian credit unions*. Brazilian Business Review, 10(4), 91-109. Meisel, S. I. (2013). Detecting Earnings Management in Bank Merger Targets Using an Industry Specific Model. Southern Business Review, 38(1), 1-20. Nguyễn Việt Dũng. (2010). Value-relevance of financial statement information: A flexible application of modern theories to the Vietnamese stock market. Quarterly Journal of Economics, 84, 488-500. Nguyễn Thị Khánh Phương (2015), Nghiên cứu mối quan hệ giữa thông tin kế toán và giá cổ phiếu của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, Luận án tiến sỹ, Đại học Kinh tế quốc dân Hà Nội. Tap̣ chı́ Khoa hoc̣ Trường Đaị hoc̣ Cần Thơ Tập 48, Phần D (2017): 120-134 134 Nguyễn Thị Thanh Hương, Lê Thị Xuân, Đào Nam Giang, Nguyễn Hồng Yến, Phùng Thị Hải Yến, và Phạm Thị Thơm (2006), Giải pháp nâng cao chất lượng hệ thống thông tin kế toán – thống kê trong quản trị tài chính ngân hàng thương mại, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Viện VNH 2003-2004 của Ngân hàng Nhà nước. Nguyễn Thị Thanh Hương, Lê Anh Xuân, Phạm Thị Thơm, Phùng Thị Hải Yến, Đặng Thị Thùy Dương và Đoàn Thị Ngọc Phượng (2008), Áp dụng chuẩn mực kế toán quốc tế trong lĩnh vực kế toán ngân hàng tại Việt Nam, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp ngành KHN 2007-05, Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Nguyễn Thị Thu Hiền (2010), “Hoàn thiện kế toán công cụ tài chính tại các NH ở Việt Nam”, Luận án tiến sỹ, ĐH Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh. Nobes, C., & Parker, R. H. (2008). Comparative international accounting: Pearson Education. Packer, F., & Zhu, H. (2012). Loan loss provisioning practices of Asian banks, BIS Working Paper, No. 375. Available at SSRN: https://ssrn.com/abstract=2038215 or Quttainah, M. A., Song, L., & Wu, Q. (2013). Do Islamic Banks Employ Less Earnings Management? Journal of International Financial Management & Accounting, 24(3), 203-233. doi: Shen, C.-H., & Chih, H.-L. (2005). Investor protection, prospect theory, and earnings management: An international comparison of the banking industry. Journal of Banking & Finance, 29(10), 2675-2697. doi: Shrieves, R. E., & Dahl, D. (2003). Discretionary accounting and the behavior of Japanese banks under financial duress. Journal of Banking & Finance, 27(7), 1219-1243. doi: Stlowy, H., & Breton, G. (2004). Accounts Manipulation: A Literature Review and Proposed Conceptual Framework. Review of Accounting & Finance, 3(1), 5-66. Taktak, N. B., Shabou, R., & Dumontier, P. (2010). Income Smoothing Practices: Evidence from Banks Operating in OECD Countries. International Journal of Economics and Finance, 2(4), 140-150. Ugbede, O., Lizam, M., & Kaseri, A. (2013). Corporate governance and earnings management: empirical evidence from Malaysian and Nigerian banks. Asian Journal of Management Sciences & Education, 2(4), 1-21. Ugbede, O., Lizam, M., Kaseri, A., & Lame, S. M. (2013). Do Malaysian and Nigerian Accounting Standards Produce Similar Earnings Quality for Banks? International Journal of Management Sciences and Business Research, 2(7), 1-16. doi: 10.2308/acch.2010.24.3.355 Wall, L. D., & Koch, T. W. (2000). Bank loan-loss accounting: A review of theoretical and empirical evidence. Economic Review - Federal Reserve Bank of Atlanta, 85(2), 1-19. Wang, R. Z., & Sallehu, M. (2014). THE HIDDEN MESSAGE IN AFS SECURITIES OF US BANKS. The International Journal of Business and Finance Research, 8(3), 59-70. Yasuda, Y., Okuda, S. y., & Konishi, M. (2004). The Relationship Between Bank Risk and Earnings Management: Evidence from Japan. Review of Quantitative Finance and Accounting, 22(3), 233-248. Zhou, J., & Chen, K. Y. (2004). Audit committee, board characteristics and earnings management by commercial banks. Unpublished Manuscript.
File đính kèm:
- tong_quan_nghien_cuu_ve_thao_tung_loi_nhuan_cong_bo_boi_cac.pdf