Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit Graphen/poly(1,8-Diaminonaphthalen)

Graphen (Gr) là vật liệu có tiềm năng lớn cho rất nhiều các ứng dụng do khả năng tăng cường tinh chất điện

của chúng. Do đó, việc kết hợp Gr với vật liệu polyme dẫn điện được kỳ vọng sẽ hình thành vật liệu tổ hợp

có những đặc tính vượt trội. Trong nghiên cứu này, vật liệu composit graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen)

được chế tạo trên điện cực than thủy tinh bằng phương pháp điện hóa. Các nghiên cứu khảo sát hành vi

điện hóa thông qua kỹ thuật vôn-ampe vòng và phổ tổng trở điện hóa cho thấy màng composit có hoạt tính

điên hóa và độ ổn định cao hơn nhiều so với màng poly(1,8-diaminonaphthalen) thuần. Từ các kết quả thí

nghiệm thu được, có thể nghiên cứu phát triển cảm biến điện hóa không sử dụng chất đánh dấu trên cơ sở

vật liệu graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) dựa vào sự tăng cường tính chất điện hóa nội tại của vật liệu

composit này.

pdf 6 trang kimcuc 4320
Bạn đang xem tài liệu "Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit Graphen/poly(1,8-Diaminonaphthalen)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit Graphen/poly(1,8-Diaminonaphthalen)

Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit Graphen/poly(1,8-Diaminonaphthalen)
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
54 
Tổng hợp và nghiên cứu tính chất điện hóa của màng nanocomposit 
Graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) 
Synthesis and Electrochemical Characterization of Graphene/Poly(1,8-diaminonaphthalene) 
Nanocomposite Films 
Vũ Văn Trọng1, Trương Thị Hồng Ngọc1, Lê Quân1, Vũ Văn Huy1, Bùi Thanh Duy1, 
Nguyễn Lê Huy1,*, Nguyễn Vân Anh1, Nguyễn Tuấn Dung2 
1Trường Đại học Bách Khoa Hà Nội – Số 1, Đại Cồ Việt, Hai Bà Trưng, Hà Nội 
2 Viện Kỹ thuật Nhiệt đới - Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam 
Đến Tòa soạn: 23-12-2017; chấp nhận đăng: 28-9-2018 
Tóm tắt 
Graphen (Gr) là vật liệu có tiềm năng lớn cho rất nhiều các ứng dụng do khả năng tăng cường tinh chất điện 
của chúng. Do đó, việc kết hợp Gr với vật liệu polyme dẫn điện được kỳ vọng sẽ hình thành vật liệu tổ hợp 
có những đặc tính vượt trội. Trong nghiên cứu này, vật liệu composit graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) 
được chế tạo trên điện cực than thủy tinh bằng phương pháp điện hóa. Các nghiên cứu khảo sát hành vi 
điện hóa thông qua kỹ thuật vôn-ampe vòng và phổ tổng trở điện hóa cho thấy màng composit có hoạt tính 
điên hóa và độ ổn định cao hơn nhiều so với màng poly(1,8-diaminonaphthalen) thuần. Từ các kết quả thí 
nghiệm thu được, có thể nghiên cứu phát triển cảm biến điện hóa không sử dụng chất đánh dấu trên cơ sở 
vật liệu graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) dựa vào sự tăng cường tính chất điện hóa nội tại của vật liệu 
composit này. 
Từ khóa: graphen, poly (1,8-diaminonaphtalen), polyme dẫn điện. 
Abstract 
Graphene (Gr) was introduced as a great promise for various applications due to its enhanced electrical 
properties. Therefore, Gr would be a potential functional component to prepare conducting polymer 
composites with superior material properties. This study reports the preparation of a graphene/poly(1,8-
diaminonaphthalene) composite material on a glassy carbon electrode by electrochemical technique. The 
electrochemical behaviours recorded by cyclic voltammetry and electrochemical impedance spectroscopy 
techniques clearly indicated that the synthesized composite films were much more electroactive and more 
stable than the pure poly(1,8-diaminonaphthalene) film. From the experimental data in this work, the label-
free electrochemical sensors based on graphene/poly(1,8-diaminonaphthalene) could be developed by 
enhancing the intrinsic electrical properties of the composite material. 
Keywords: graphene, poly (1, 8-diaminonaphtalene), conductive polymer 
1. Mở đầu* 
Vật liệu graphen được mô tả là một tấm phẳng 
gồm các nguyên tử cacbon liên kết với nhau theo lai 
hóa sp2, sắp xếp thành mạng lục giác hai chiều có 
chiều dày là một nguyên tử cacbon [1]. Trong hướng 
nghiên cứu về vật liệu polyme dẫn điện, sự kết hợp 
với graphen nhanh chóng trở thành một trong những 
trọng tâm thu hút được sự quan tâm của đông đảo các 
nhà khoa học ngay sau khi vật liệu graphen được phát 
minh [2]. Kỳ vọng về sự cải thiện mạnh mẽ các tính 
chất quang, điện khi hình thành vật liệu tổ hợp 
graphen và polyme dẫn điện là nội dung được nhiều 
nghiên cứu trong lĩnh vực hóa-lý hướng tới. Phương 
pháp tổng hợp hóa học và tổng hợp điện hóa là hai 
* Địa chỉ liên hệ: Tel.: (+84) 904.371.218 
Email: huy.nguyenle@hust.edu.vn 
phương pháp cơ bản nhất trong chế tạo vật liệu 
nanocomposit. Kỹ thuật trộn hợp dung dịch và tổng 
hợp hóa học nhờ sự có mặt của chất oxy hóa mạnh 
được coi là giải pháp hiệu quả khi muốn thu sản 
phẩm lượng lớn ở dạng bột [3]. Tuy nhiên, việc 
chuyển dạng bột sang dạng màng mỏng lại tỏ ra khá 
khó khăn đòi hỏi việc lựa chọn dung môi và kỹ thuật 
phủ phức tạp. Với mục tiêu hình thành màng mỏng 
composit trên điện cực ứng dụng trong các quá trình 
điện hóa, phương pháp tổng hợp điện hóa là giải pháp 
tốt hơn cả. Một số nghiên cứu đã chế tạo màng 
composite graphen/polyme dẫn điện bằng cách phân 
tán graphen trong dung dịch monome và tiến hành 
trùng hợp polyme trong hệ huyền phù tương ứng [4]; 
hoặc tiến hành khử điện hóa graphen oxit cùng với 
quá trình trùng hợp polyme [5]; hoặc chế tạo graphen 
trực tiếp trên bề mặt điện cực và sau đó trùng hợp 
polyme lên trên điện cực biến tính [6]. Các nghiên 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
55 
cứu này đều cho thấy sự cải thiện về hoạt tính điện 
hóa, độ dẫn điện riêng, độ bền và độ ổn định của 
màng composit so với polyme thuần. Kết quả này là 
tiền đề quan trọng trong ứng dụng làm các loại cảm 
biến điện hóa, vật liệu tích trữ năng lượng và vật liệu 
tàng hình. 
Trong nội dung bài báo này, chúng tôi trình bày 
các kết quả nghiên cứu về tổng hợp và đặc trưng điện 
hóa của màng composit graphen/poly (1,8-
diaminonaphthanlen) [Gr/P(1,8DAN)]. Trong đó, 
poly (1,8-diaminonaphthanlen) [P(1,8DAN)] với hai 
nhóm amin trong phân tử monome là một polyme dẫn 
điện nhiều triển vọng trong lĩnh vực cảm biến nhờ 
khả năng cố định các phần tử sinh học và tạo phức 
với các cation kim loại [7, 8] 
2. Thực nghiệm 
2.1. Hóa chất và thiết bị 
Monome 1,8-diamoninapthalen (1,8DAN), 
HClO4, dung dịch đệm photphat (PBS, pH = 7,4) 
được chuẩn bị từ Na2HPO4 0,1M, KH2PO4 0,1 M và 
KCl 0,1 M. Các hóa chất này được mua từ hãng 
Sigma-Aldrich. Bột graphen đơn lớp (ACS Material, 
kích thước 1-5 µm, chiều dày 0,8-1,2 nm) có khả 
năng phân tán tốt trong môi trường nước với sự hỗ trợ 
của sóng siêu âm. 
Quá trình tổng hợp vật liệu và nghiên cứu tính 
chất điện hóa sử dụng máy điện hoá đa năng 
Palmsen3 điều khiển bằng phần mềm PSTrace 5.3 với 
hệ ba điện cực gồm điện cực làm việc là điện cực 
than thuỷ tinh (GC) có đường kính 3mm, điện cực đối 
là điện cực thanh bạch kim (Pt) và điện cực so sánh là 
điện cực calomen bão hoà KCl (SCE). Phổ Raman 
được đo trên hệ Raman phân giải cao (Jobin-Yvon 
LABRAM HR 800) sử dụng nguồn sáng là laser He–
Ne (bước sóng kích thích 633nm) 
2.2. Tổng hợp điện hóa tạo màng Gr/P(1,8DAN) 
Điện cực GC được mài bóng, rửa sạch bằng 
nước cất và thổi khô trong dòng khí trơ. Sau đó 5 µL 
hệ phân tán graphen trong nước, nồng độ 0,01 mg/L 
được nhỏ lên trên điện cực GC và để khô tự nhiên ở 
nhiệt độ phòng. Điện cực thu được được ký hiệu là 
GC/Gr. Tiến hành trùng hợp điện hóa tạo màng 
P(1,8DAN) trên điện cực GC/Gr bằng kỹ thuật vôn-
ampe vòng (CV) trong dung dịch HClO4 1 M chứa 
monome 1,8DAN 1 mM và LiClO4 0,1 M. Khoảng 
thế quét từ −0,15 V tới +0,95 V, tốc độ quét 50 mV/s 
trong 15 vòng. Quá trình trùng hợp màng P(1,8DAN) 
thuần trên điện cực GC cũng được tiến hành trong các 
điều kiện tương tự để so sánh. 
2.3. Nghiên cứu các tính chất điện hóa của màng 
Gr/P(1,8DAN) 
Các nghiên cứu hành vi điện hóa của điện cực 
được thực hiện bằng kỹ thuật vôn-ampe vòng (CV) 
và phổ tổng trở điện hóa (EIS). Đường quét CV được 
tiến hành trong nền điện ly HClO4 0,1 M và đệm PBS 
(pH = 7,4) ở khoảng thế từ −0,4 V đến 0,7 V, tốc độ 
quét 50 mV/s. Phổ EIS được đánh giá thông qua giản 
đồ Nyquist tại điện thế mạch hở (Eocp) trong dung 
dịch dệm PBS (pH=7,4) có chứa K3[Fe(CN)6]/ 
K4[Fe(CN)6] 5 mM với tần số từ 50 kHz tới 0,01 Hz. 
Dữ liệu thu được sau khi đo được mô phỏng mạch 
tương đương bằng phần mềm đi cùng thiết bị để xác 
định thành phần điện trở trao đổi điện tích Rct. 
3. Kết quả và thảo luận 
3.1. Quá trình tổng hợp điện hóa 
Đường cong phân cực quá trình trùng hợp điện 
hóa tạo màng P(1,8DAN) trên điện cực GC và GC/Gr 
được trình bày tại hình 1. 
Hình 1. Đường CV quá trình trùng hợp màng 
P(1,8DAN) trên điện cực (A) GC và (B) GC/Gr. Tốc 
độ quét 50mV/s 
Trong cả hai hình 1A và 1B, tại đường quét đầu 
tiên, mật độ dòng của đường CV tăng mạnh từ 
khoảng thế +0,4V cho thấy quá trình oxy hóa 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
56 
monome 1,8DAN hình thành nên các gốc tự do hoạt 
động, [9] là tiền đề cho sự phát triển mạch polyme 
sau này. Đáng chú ý là trên điện cực có Gr, đỉnh pic 
oxy hóa monome xuất hiện sớm hơn (+0,4 V) so với 
điện cực GC (+0,65 V) cho thấy vai trò của Gr với 
các điện tử trong liên kết π rất linh động giúp cho 
khả năng trao đổi điện tử trên bề mặt diễn ra dễ dàng 
hơn. Tại các đường CV tiếp theo, xuất hiện các cặp 
pic tại +0,3/+0,1V là đặc trưng cho hoạt tính điện hóa 
của P(1,8DAN) trong môi trường axit chứng tỏ màng 
polyme P(1,8DAN) đã hình thành. Sự tăng cường độ 
dòng sau mỗi vòng quét của quá trình trùng hợp là chỉ 
dấu chứng tỏ quá trình phát triển màng polyme trên 
bề mặt điện cực. Ở đây có một điểm đáng chú ý, khi 
trùng hợp P(1,8DAN) trên điện cực GC (hình 1A), 
chỉ sau khoảng 5 vòng quét, cường độ dòng đã hầu 
như không tăng hoặc tăng rất nhỏ chứng tỏ màng 
polyme hình thành cản trở sự trao đổi điện tích giữa 
điện cực và dung dịch [10]. Trong khi đó, với sự có 
mặt của Gr trên điện cực, quá trình trùng hợp điện 
hóa P(1,8DAN) diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều (hình 
1B). Không chỉ mật độ dòng cao hơn khoảng 5 lần so 
với điện cực GC mà còn có sự tăng cường độ dòng 
đều đặn sau 15 vòng quét. Kết quả này cho thấy Gr 
với độ linh động điện tử cao, bề mặt riêng vượt trội 
đã cải thiện mạnh mẽ hoạt tính điện hóa và độ dẫn 
điện của màng P(1,8DAN). 
3.2. Đặc trưng qua phổ Raman 
Màng composit sau khi tổng hợp được phân tích 
bằng phổ Raman. Kết quả trình bày tại hình 2 cho 
thấy màng Gr/P(1,8DAN) thể hiện rõ ràng các dải đặc 
trưng của cả Gr và P(1,8DAN). Các pic raman cường 
độ mạnh tại ~1586 và 1449 cm−1 thể hiện dao động 
khung của nhân naphlalen, pic có cường độ yếu hơn ở 
~1358 cm−1 chính là dao động của liên kết C−N [10]. 
Thêm vào đó, pic tại 2690 cm−1 (dải 2D) là đặc trưng 
cho cấu trúc của Gr [3]. 
Hình 2. Phổ Raman của Gr, P(1,8DAN) và 
Gr/P(1,8DAN) 
3.3. Nghiên cứu tính chất điện hóa của màng 
Gr/P(1,8DAN) 
Tính chất điện hóa của điện cực màng tổ hợp 
Gr/P(1,8DAN) trên điện cực GC được nghiên cứu 
bằng kỹ thuật CV trong dung dịch HClO4 0,1 M. 
Điện cực màng P(1,8DAN) trên điện cực GC không 
phủ Gr cũng được đo đồng thời để so sánh. Kết quả 
thu được trình bày trên hình 3. 
Hình 3. Đường CV của điện cực (A) GC/P(1,8DAN) 
và (B) GC/Gr/P(1,8DAN) trong HClO4 0,1 M. Tốc độ 
quét 50 mV/s 
Có thể thấy, hoạt tính điện hóa của màng tổ hợp 
Gr/P(1,8DAN), hình 3B, mạnh hơn nhiều (mật độ 
dòng cao hơn khoảng 5 lần) so với màng P(1,8DAN) 
thuần, hình 3A, trong môi trường HClO4 0,1 M. Các 
cặp pic oxy hóa khử tại +0,07/-0,16V và 
+0,23/+0,08V là đặc trưng cho khả năng hoạt động 
điện hóa của P(1,8DAN), do các ion đối di chuyển 
vào và ra khỏi màng polyme [9, 10], xuất hiện khá rõ 
khi có mặt Gr. Khoảng cách đỉnh điện thế (∆Ep) của 
điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) là 0,15 V và ∆Ep của 
điện cực GC/P(1,8DAN) là 0,26 V. Như vậy, khoảng 
cách pic được thu hẹp lại, đồng nghĩa với sự trao đổi 
điện tử của điện cực có Gr là nhanh hơn chứng tỏ, Gr 
với đặc tính linh động điện tử cao, khi được pha tạp 
vào màng polyme đã tăng mạnh khả năng trao đổi 
điện tử giữa bề mặt điện cực biến tính và dung dịch 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
57 
điện ly. Thêm vào đó, nếu như màng P(1,8DAN) 
thuần mật độ dòng điện bị suy giảm ngay sau vòng 
quét đầu tiên thì với màng Gr/P(1,8DAN) mật độ 
dòng ổn định ngay và hầu như không bị suy giảm sau 
hơn 20 chu kỳ quét. 
Từ kết quả đo đường phân cực CV trong môi 
trường axit HClO4 trên, nghiên cứu tiếp tục thực hiện 
đánh giá tính chất điện hóa của điện cực 
GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch điện ly là đệm 
PBS (pH = 7,4), đây là môi trường tương thích sinh 
học được sử dụng phổ biến trong các nghiên cứu ứng 
dụng cảm biến sinh học. Hình 4 dưới đây đưa ra 
đường CV của điện cực GC, GC/Gr, GC/P(1,8DAN) 
và GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch đệm PBS. 
Hình 4. Đường CV của điện cực (a) GC, (b) GC/Gr, 
(c) GC/P(1,8DAN) và (d) GC/Gr/P(1,8DAN) trong 
đệm PBS (pH = 7,4), tốc độ quét 50mV/s 
Kết quả đo chỉ ra màng tổ hợp Gr/P(1,8DAN) 
thể hiện rõ rệt hoạt tính điện hóa với pic xuất hiện tại 
+0,13/−0,06 V trong môi trường đệm PBS (hình 4, 
đường d). Trong khi đó màng P(1,8DAN) thuần (hình 
4, đường c) không cho thấy rõ cặp pic này và mật độ 
dòng cũng nhỏ hơn nhiều so với màng có mặt Gr. Các 
đường CV của điện cực GC và GC/Gr cũng không 
thấy xuất hiện bất kỳ pic nào và điện lượng chuyển 
qua chất điện phân là rất nhỏ. Mật độ dòng của điện 
cực GC/Gr cao hơn so với điện cực GC chủ yếu là do 
sự thay đổi về điện tích bề mặt và/hoặc đặc tính dẫn 
điện cao của Gr. Như vậy điện cực trên cơ sở màng tổ 
hợp Gr/P(1,8DAN) có hoạt tính điện hóa khá tốt ngay 
cả trong môi trường trung tính, đây là tính chất quý 
báu bởi hầu hết các polyme dẫn điện chỉ có tính chất 
điện hóa trong môi trường axit. Sự hình thành các pic 
thể hiện trên đường CV được coi là các chỉ dấu điện 
hóa nội, nghĩa là có thể sử dụng các pic đặc trưng của 
vật liệu điện cực này để nhận biết sự tương tác giữa 
phần tử sinh học dò và đích (như sự lai hóa giữa các 
chuỗi ADN, hay sự hình thành phức hợp kháng 
nguyên-kháng thể...) trong chế tạo cảm biến sinh học 
không sử dụng chất đánh dấu (label-free). 
Diện tích bề mặt hiệu dụng của điện cực 
GC/Gr/P(1,8DAN) được xác định bằng kỹ thuật CV 
trong dung dịch K3[Fe(CN)6] 4 mM pha trong KNO3 
1M thông qua phương trình Randles-Sevcik [11, 12]: 
Ipa = (2,69.105).n3/2.D1/2.C.A.ν1/2 
trong đó, Ipa là cường độ dòng tại vị trí pic (A); n là 
số điện tử trao đổi trong phản ứng oxy hóa khử (n=1); 
D là hệ số khuếch tán của chất điện ly K3[Fe(CN)6] 
trong dung dịch (D=7,6.10−6cm2/s); C là nồng độ 
mol/cm3 của K3[Fe(CN)6]; A là diện tích bề mặt hiệu 
dụng (cm2) và ν là tốc độ quét thế vòng (V/s). 
Hình 5 đưa ra đường cong CV ở các tốc độ quét 
thế khác nhau trên điện cực GC/Gr/P(1,8DAN) và đồ 
thị mô tả mối quan hệ tuyến tính của giữa cường độ 
dòng tại pic anot (Ipa) và ν1/2. Hệ số góc k của phương 
trình hồi quy giữa Ipa và ν1/2 được dùng để ước tính 
diện tích bề mặt hiệu dụng A. 
A = k/[(2,69.105).n3/2.D1/2.C] = 0,18cm2 
Hình 5. Đường phân cực CV của điện cực 
GC/Gr/P(1,8DAN) trong K3[Fe(CN)6] 4mM tại các 
tốc độ quét thế (0,02; 0,03; 0,04; 0,06; 0,10 V/s). 
Hình chèn: Đường hồi quy sự phụ thuộc cường độ pic 
anot Ipa vào tốc độ quét thế ν1/2 
Hình 6. Phổ Nyquist của điện cực GC, GC/Gr, 
GC/P(1,8DAN) và GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung 
dịch đệm PBS có chứa K3[Fe(CN)6]/K4[Fe(CN)6] 
5mM đo tại điện thế mạch hở 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
58 
3.3. Phổ tổng trở điện hóa 
Phổ tổng trở điện hóa biểu diễn qua giản đồ 
Nyquits của điện cực GC, GC/Gr, GC/P(1,8DAN) và 
GC/Gr/P(1,8DAN) trong dung dịch đệm PBS có chứa 
K3[Fe(CN)6]/K4[Fe(CN)6] 5mM được đưa ra tại hình 6. 
Như có thể thấy tại hình 6, đường kính phần bán 
cung trên phổ Nyquist tại vùng tần số cao là thước đo 
giá trị điện trở trao đổi điện tích Rct. Giá trị Rct này 
được xác định bằng cách mô phỏng mạch tương 
đương Randles như trong sơ đồ mạch điện được chèn 
trong hình 6. Nếu như Rct của điện cực GC có một 
bán cung rất nhỏ với giá trị bẳng 544,2 Ω thì sau khi 
biến tính bằng Gr giá trị Rct giảm mạnh xuống 63,9Ω. 
Kết quả này cho thấy sự linh động điện tử cao của Gr 
đã cải thiện độ dẫn điện trên bề mặt điện cực làm cho 
quá trình chuyển điện tử dễ dàng hơn. Sau quá trình 
trùng hợp điện hóa hình thành màng P(1,8DAN) trên 
điện cực GC/Gr, Rct thu được là 4.700Ω, giá trị này 
nhỏ hơn so với Rct của điện cực P(1,8DAN) thuần 
khoảng 3 lần (Rct của điện cực GC/P(1,8DAN) là 
13.900Ω). Kết quả này cho thấy vai trò của Gr trong 
màng composit, cải thiện hoạt tính điện hóa của màng 
polyme dẫn điện P(1,8DAN). Như vậy, tính chất dẫn 
điện của màng composite trên cơ sở P(1,8DAN) đã có 
sự cải thiện đáng kể mang lại tiềm năng ứng dụng của 
vật liệu này trong chế tạo cảm biến sinh học đo theo 
nguyên lý trở kháng điện hóa hoặc trên linh kiện vi 
cân tinh thể thạch anh (QCM). 
4. Kết luận 
Nghiên cứu trình bày các kết quả ban đầu về quá 
trình trùng hợp điện hóa tạo màng nanocomposit 
graphen/poly(1,8-diaminonaphthalen) trong môi 
trường nước trên điện cực than thủy tinh. Các khảo 
sát về tính chất điện hóa của màng composit thông 
qua phổ tổng trở điện hóa và phương pháp vôn-ampe 
vòng trong môi trường axit cũng như trung tính đã 
được thực hiện. Kết quả cho thấy sự có mặt của 
graphen đã cải thiện rõ rệt hoạt tính điện hóa của điện 
cực. Đặc biệt, pic xuất hiện trong nền điện ly trung 
tính được coi là chỉ dấu điện hóa nội hiệu quả cho 
ứng dụng chế tạo cảm biến sinh học điện hóa không 
sử dụng chất đánh dấu. 
Tài liệu tham khảo 
[1] M.J. Allen, V.C. Tung, R.B. Kaner, Honeycomb 
Carbon: A Review of Graphene, Chem. Rev. 110 
(2010) 132-145. 
[2] G. Kaur, R. Adhikari, P. Cass, M. Bown, P. 
Gunatillake, Electrically conductive polymers and 
composites for biomedical applications, RSC Adv. 5 
(2015) 37553-37567. 
[3] N.T. Dung, V.H. Duy, Đ.T.T. Huyền, N.V. Tú, N.V. 
Chúc, N.H. Bình, T.Đ. Lâm, N.X. Phúc, T. Hoàng, 
Chế tạo và nghiên cứu tính chất màng tổ hợp dạng đa 
lớp graphen/poly(1,5-diaminonaphthalen), Tạp chí 
Khoa học và Công nghệ 52 (2014) 115-122. 
[4] H.D. Vu, L.H. Nguyen, T.D. Nguyen, H.B. Nguyen, 
T.L. Nguyen, D.L. Tran, Anodic stripping 
voltammetric determination of Cd2+ and Pb2+ using 
interpenetrated MWCNT/P1,5-DAN as an enhanced 
sensing interface, Ionics 21 (2015) 571-578. 
[5] T.D. Nguyen, T.T.H. Dang, H. Thai, L.H. Nguyen, 
D.L. Tran, B. Piro, M.C. Pham, One-step 
Electrosynthesis of Poly(1,5-
diaminonaphthalene)/Graphene Nanocomposite as 
Platform for Lead Detection in Water, 
Electroanalysis 28 (2016) 1907-1913. 
[6] N.V. Chuc, N.H. Binh, C.T. Thanh, N.V. Tu, N.L. 
Huy, N.T. Dzung, P.N. Minh, V.T. Thu, T.D. Lam, 
Electrochemical Immunosensor for Detection of 
Atrazine Based on Polyaniline/Graphene, J. Mater. 
Sci. Technol. 32 (2016) 539-544. 
[7] M. El Rhazi, S. Majid, Electrochemical sensors based 
on polydiaminonaphthalene and 
polyphenylenediamine for monitoring metal 
pollutants, Trends Environ. Anal. Chem. 2 (2014) 33-
42. 
[8] V.A. Nguyen, H.L. Nguyen, D.T. Nguyen, Q.P. Do, 
L.D. Tran, Electrosynthesized poly(1,5-
diaminonaphthalene)/polypyrrole nanowires bilayer 
as an immunosensor platform for breast cancer 
biomarker CA 15-3, Curr. Appl. Phys. 17 (2017) 
1422-1429. 
[9] M. Tagowska, B. Pałys, M. Mazur, M. Skompska, K. 
Jackowska, In situ deposition of poly(1,8-
diaminonaphthalene): from thin films to nanometer-
sized structures, Electrochim. Acta 50 (2005) 2363-
2370. 
[10] N.T. Dung, P.N. Bách, Đ.L. Anh, T.T.X. Hằng, Tổng 
hợp điện hóa màng poly(1,8-diaminonaphtalen) trong 
môi trường nước, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 
46 (2008) 97-101. 
[11] J. Shi, J.C. Claussen, E.S. McLamore, A. ul Haque, 
D. Jaroch, A.R. Diggs, P. Calvo-Marzal, J.L. Rickus, 
D.M. Porterfield, A comparative study of enzyme 
immobilization strategies for multi-walled carbon 
nanotube glucose biosensors, Nanotechno., 22 (2011) 
355502. 
[12] M.P. Siswana, K.I. Ozoemena, T. Nyokong, 
Electrocatalysis of asulam on cobalt phthalocyanine 
modified multi-walled carbon nanotubes immobilized 
on a basal plane pyrolytic graphite electrode, 
Electrochim. Acta. 52 (2006) 114-122. 
Tạp chí Khoa học và Công nghệ 129 (2018) 054-058 
59 

File đính kèm:

  • pdftong_hop_va_nghien_cuu_tinh_chat_dien_hoa_cua_mang_nanocompo.pdf