Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam

Tính ổn định đã trở thành một trong các yêu cầu căn bản đối với pháp luật từ cả góc độ

lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển nơi pháp

luật được thay đổi, cải cách thường xuyên với quy mô và cường độ lớn. Tuy có tầm quan trọng

như vậy nhưng tính ổn định của pháp luật lại chưa hề có được sự phân tích thấu đáo cũng như

đồng thuận về cả khái niệm, chức năng, vai trò trong lý thuyết pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến

việc áp dụng và xây dựng các tiêu chí, phương pháp đảm bảo tính ổn định của pháp luật trên thực

tế thiếu hiệu quả, thậm chí thất bại. Trong bối cảnh đó, bài viết này góp phần vào việc phân tích

các lý thuyết về tính ổn định của pháp luật trên thế giới để đưa ra một cách hiểu thống nhất. Qua

đó, bước đầu đề xuất các tiêu chí, cách thức để có thể bảo đảm tính ổn định của pháp luật trên thực

tế cho Việt Nam.

pdf 10 trang kimcuc 4960
Bạn đang xem tài liệu "Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam

Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 
20 
Review Article 
Legal Stability from International Theories and Experiences: 
Lessons Learnt for Vietnam 
Tran Kien* 
VNU School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam 
Received 15 November 2019 
Revised 01 December 2019; Accepted 20 December 2019 
Abstract: Stability has become one of the basic requirements for the law from both theoretical and 
practical perspectives, especially for developing countries where laws are often changed and 
reformed with large scale and intensity. Despite its importance, the stability of the law has never 
had a thorough analysis as well as a consensus on the concepts, functions and roles in comparative 
law theories. This led to the application and development of criteria and methods to ensure the 
stability of the law in practice, ineffective, even failed. In this context, this article contributes to 
the analysis of the theory of legal stability in the world to provide a unified understanding. 
Thereby, initially proposing criteria and ways to ensure the stability of law in reality for Vietnam. 
Keywords: Law; stability; rule of law; justice; reform. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: trankien@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4246 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 
21 
Tính ổn định của Pháp luật: Lý thuyết, kinh nghiệm 
quốc tế và khả năng áp dụng cho Việt Nam 
Nguyễn Ngọc Chí* 
Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 15 tháng 11 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 01 tháng 12 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 20 tháng 12 năm 2019 
Tóm tắt: Tính ổn định đã trở thành một trong các yêu cầu căn bản đối với pháp luật từ cả góc độ 
lý thuyết lẫn thực tiễn áp dụng pháp luật, đặc biệt đối với các quốc gia đang phát triển nơi pháp 
luật được thay đổi, cải cách thường xuyên với quy mô và cường độ lớn. Tuy có tầm quan trọng 
như vậy nhưng tính ổn định của pháp luật lại chưa hề có được sự phân tích thấu đáo cũng như 
đồng thuận về cả khái niệm, chức năng, vai trò trong lý thuyết pháp luật quốc tế. Điều này dẫn đến 
việc áp dụng và xây dựng các tiêu chí, phương pháp đảm bảo tính ổn định của pháp luật trên thực 
tế thiếu hiệu quả, thậm chí thất bại. Trong bối cảnh đó, bài viết này góp phần vào việc phân tích 
các lý thuyết về tính ổn định của pháp luật trên thế giới để đưa ra một cách hiểu thống nhất. Qua 
đó, bước đầu đề xuất các tiêu chí, cách thức để có thể bảo đảm tính ổn định của pháp luật trên thực 
tế cho Việt Nam. 
Từ khóa: Pháp luật, tính ổn định, pháp quyền, công lý, cải cách. 
I. Khái quát chung về lý thuyết và thực tiễn 
ổn định pháp luật trên thế giới * 
1.1. Tính ổn định của pháp luật là một trong 
những câu hỏi cơ bản của cả lý thuyết lẫn thực 
tiễn pháp luật trên thế giới. Từ góc độ lý thuyết, 
tính ổn định đã được tiếp cận từ nhiều góc độ 
bởi nhiều trường phái triết học khác nhau như 
là một yếu tố cấu thành của một hệ thống pháp 
luật dựa trên pháp quyền có cơ sở đạo đức bắt 
nguồn từ luật tự nhiên và hướng đến mục tiêu 
đảm bảo công lý và phát triển bền vững. Từ góc 
độ thực tiễn, ổn định đã trở thành một tiêu chí 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: trankien@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4246 
quan trọng để xây dựng, thực thi và đánh giá 
pháp luật. Tuy có ý nghĩa cả về lý thuyết và 
thực tiễn như vậy nhưng học lý và kinh nghiệm 
quốc tế cho thấy sự chia rẽ và bất đồng không 
nhỏ đối với cách hiểu và áp dụng tiêu chí này. 
Jefferson, một trong các tác giả của Hiến pháp 
Mỹ nổi tiếng, tổng thống thứ ba của Hợp chúng 
quốc Hoa Kỳ cho rằng pháp luật phải ổn định 
hoặc bền vững qua thời gian và việc thay đổi 
pháp luật quá thường xuyên không phải là một 
tính trạng đáng hoan nghênh. Frederic Bastiat, 
tại một trong những chuyên khảo nổi tiếng của 
mình có tên gọi Pháp Luật đã khẳng định 
“Không được tồn tại luật pháp cưỡng đoạt – 
nếu có thì phải bãi bỏ nó ngay: đó là nguyên 
tắc của công lý, hòa bình, trật tự, ổn định và 
hài hòa”. [1] Fuller, một trong các triết gia luật 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 
22 
học nổi tiếng nhất thế kỷ 20 trong chuyên khảo 
kinh điển của mình “Đạo đức của pháp luật” đã 
vay mượn câu chuyện ẩn dụ về vị vua Rex, một 
người mong muốn cải cách pháp luật của mình 
theo chiều hướng tốt hơn nhưng đã thất bại do 
vi phạm tám yêu cầu căn bản của pháp luật. 
Trong đó có sai lầm khi đã thay đổi các quy tắc 
pháp lý một cách thường xuyên khiến cho các 
chủ thể không thể biết để tuân theo. [2, tr 79] 
Từ chính tám sai lầm dẫn đến thất bại của 
pháp luật này, Fuller đã nâng lên thành các tiêu 
chuẩn bên trong của pháp luật bao gồm: (1) 
Không chứa đựng quy phạm cụ thể (kiểu chỉ 
chứa toàn các khẩu hiệu mà không chứa đầy đủ 
mô thức quy phạm theo đúng công thức giả 
định, quy định và chế tài); (2) Không công khai 
(văn bản đã được ban hành nhưng đối tượng bị 
điều chỉnh lại không biết hoặc khó biết được); 
(3) Chứa đựng quy phạm khó hiểu, không rõ 
ràng hoặc hiểu theo nhiều nghĩa khác nhau 
(điều này khiến cho thông điệp của văn bản trở 
nên không rõ ràng); (4) Áp dụng hiệu lực hồi 
tố; (5) Chứa đựng các quy định mâu thuẫn 
nhau; (6) Đưa ra các yêu cầu vượt quá khả năng 
chấp hành của người bị điều chỉnh hoặc vượt 
quá khả năng thi hành của cơ quan thực thi 
pháp luật; (7) Không ổn định (thay đổi quá 
nhanh chóng); (8) Không đảm bảo chữ tín trong 
thi hành pháp luật (tức là luật pháp yêu cầu một 
đằng như cơ quan thực thi pháp luật lại thực thi 
một nẻo). [2, 80] 
Joseph Raz cho dù không hoàn toàn đồng ý 
với Fuller, cũng khẳng định lại yêu cầu này 
trong chuyên khảo kinh điển về Thẩm quyền 
của pháp luật. [3] Gần đây hơn, trích dẫn 
Roscoe Pound, Brunnee và Toope khẳng định 
rằng luật phải ổn định để luật pháp có thể thực 
hiện chức năng là tiêu chuẩn của hành vi. [4] 
Điều này nhận được một sự chia sẻ hạn chế đến 
từ các học giả khác. Adam Hill là một ví dụ khi 
ông thừa nhận rằng tính ổn định là một trong 
tám tiêu chí để dẫn dắt và đánh giá hành vi, 
cách cư xử của chủ thể trong xã hội dù đó chỉ 
phù hợp với khung khổ lý thuyết pháp luật thực 
định. [5] 
Có thể do sự vận động của các học giả này 
dù có các lý thuyết và quan điểm khác nhau, 
yêu cầu về tính ổn định của pháp luật bắt đầu 
được nhìn nhận và áp dụng như một tiêu chuẩn 
đánh giá trong thực tiễn. Trong các tiêu chí 
dùng để đánh giá một nền pháp quyền của dự 
án World Justice Project, ổn định là một thuộc 
tính bắt buộc của pháp luật công bằng, đến lượt 
mình là một trong bốn thành tố phổ quát của 
pháp quyền. [6] Một loạt các báo cáo khác 
cũng đề cập trực tiếp hay gián tiếp đến tính ổn 
định hay sự ổn định như là một thuộc tính quan 
trọng, cần có của pháp luật như: Báo cáo cạnh 
tranh toàn cầu của Diễn đàn kinh tế thế giới1; 
Báo cáo về môi trường kinh doanh của Ngân 
hàng thế giới. Hay chỉ số về sự chắc chắn/ổn 
định của pháp luật của các nước châu Âu lục 
địa gần đây - Index of Legal Certainty. [7] 
Trong thực tiễn cũng có không ít các phê 
bình chỉ trích được đưa ra đối với một số quốc 
gia hoặc hệ thống pháp luật do thiếu đi sự ổn 
định. Jan Cipiur, trong một nghiên cứu ngắn đã 
phê bình pháp luật Ba Lan là hệ thống pháp luật 
thiếu ổn định nhất ở châu Âu. [8] Điều này bắt 
nguồn từ việc thống kê và so sánh cho thấy chỉ 
riêng trong năm 2014 Ba Lan đã ban hành 1749 
văn bản quy phạm pháp luật với tổng số trang 
lên tới hơn hai mươi lăm ngàn trang giấy. 
Brunnee và Toope cũng cho rằng luật quốc tế 
gặp phải tình trạng thiếu ổn định do có quá 
nhiều nguồn luật áp dụng từ ví dụ điển hình là 
việc duy trì tính ổn định cho các điều ước quốc 
tế phòng chống ma túy và các thuốc gây 
nghiện. [9] Từ góc độ tài phán quốc gia, một số 
học giả Mỹ cũng đã đặt ra vấn đề cần phải xây 
dựng tính ổn định cho án lệ một trong các 
nguồn luật quan trọng nhất của hệ thống Thông 
luật trong hoạt động xét xử của thẩm phán. [10] 
Thậm chí, đã có cả các nghiên cứu định lượng 
sử dụng công cụ toán thống kê để tính xem việc 
các tòa cấp cao hủy bỏ các bản án của tòa cấp 
________ 
1Báo cáo này dùng từ “policy instability” (sự thiếu 
ổn định trong chính sách) để đề cập tới hiện tượng 
pháp luật không ổn định. 
 <
2017/05FullReport/TheGlobalCompetitivenessRepo
rt2016-2017_FINAL.pdf>. 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 23 
dưới có thể dẫn đến sự bất ổn định trong án lệ 
tại Mỹ như thế nào. [11] 
Tuy được đề cập và khẳng định như một 
thuộc tính quan trọng của pháp luật trong một 
số nghiên cứu hàn lâm cũng như bắt đầu được 
áp dụng như một tiêu chí để đánh giá pháp luật 
trong các chỉ số, báo cáo thực tiễn, tính ổn định 
- Stability lại chưa bao giờ được diễn giải và 
minh họa một cách rõ ràng. Giống như Adam 
Hill đã nhận định “chúng ta thiếu đi một kiến 
giải mạch lạc tại sao sự ổn định lại là một yếu 
tố cần thiết để để pháp luật có khả năng hướng 
dẫn hành vi”. [5] Nhận định này có cơ sở cả về 
lý thuyết lẫn thực tiễn. Về mặt lý thuyết, có thể 
nói khái niệm tính ổn định của pháp luật chưa 
bao giờ được định nghĩa rõ ràng cả về nội hàm 
lẫn ngoại diên. Chức năng, vai trò của tính ổn 
định trong mối liên hệ với pháp luật nói chung 
cũng chưa được làm rõ, đặc biệt là trong tương 
quan với các thuộc tích gần gũi và có khuynh 
hướng chồng lấn khác như tính chắc chắn - 
Certainty hay tính có thể dự đoán được - 
Predictability. Đặc biệt, vai trò của tính ổn định 
cũng không nhận được sự đồng thuận. Đây là 
yêu cầu của pháp quyền, hay đó chỉ là một 
thuộc tính đạo đức của pháp luật. Và quan trọng 
nhất, tính ổn định của pháp luật là một khái 
niệm tự mâu thuẫn: giữa giữ nguyên và nhu cầu 
thay đổi. Chính việc thiếu kiến giải mạch lạc từ 
góc độ lý thuyết này đã dẫn đến việc xây dựng 
tiêu chí tính ổn định của pháp luật trên thực tế 
và sử dụng nó để đánh giá và xây dựng sự ổn 
định cho luật pháp trở nên khó khăn. 
1. Nội hàm và chức năng của tính ổn định 
của pháp luật 
Thực tế, qua nghiên cứu kinh nghiệm và 
thực tiễn quốc tế, tác giả của bài viết này chưa 
tìm được một định nghĩa cũng như chức năng 
chính thức nào về tính ổn định của pháp luật 
trong cả các chuyên khảo hàn lâm lẫn nghiên 
cứu thực tiễn. Từ các công trình lý thuyết, 
Frederic Bastiat không đưa ra bất kỳ một giải 
thích nào cho tuyên bố của mình về các nguyên 
tắc của công lý liên quan đến tính ổn định của 
pháp luật. Trong khi đó, Fuller, triết gia chủ 
chốt trong việc biến tính ổn định trở thành một 
trong tám thuộc tính căn bản của pháp luật cũng 
không đưa ra một định nghĩa thuyết phục. 
Thậm chí, trong phần lập luận ngắn ngủi dành 
cho tính ổn định của pháp luật, Fuller còn thừa 
nhận rằng tính ổn định qua thời gian là nguyên 
tắc ít phù hợp nhất và rằng chả có cơ quan lập 
hiến nào lại thiếu sáng suốt đến mức đưa ra một 
hạn chế mang tính cứng nhắc không cho phép 
sửa đổi hiến pháp trong thời gian nhất định. [2] 
Điều đáng tiếc hoặc bất ngờ nhất là Fuller sau 
đó lại đổi chủ đề khi không bàn về tính ổn định 
của pháp luật mà lại bàn về hiệu lực hồi tố của 
pháp luật. Cho dù đây đều là hai nguyên nhân 
gây ra sự thiếu ổn định thì vẫn phải nói rằng 
tính ổn định và hiệu lực hồi tố là hai vấn đề 
khác nhau. [2, tr 80 - 81] 
Điều này dẫn đến vấn đề thứ hai là vai trò, 
vị trí của tiêu chí về tính ổn định của pháp luật, 
đặc biệt trong tương quan với pháp quyền. Liệu 
tính ổn định của pháp luật là một tiêu chí độc 
lập, hay nó cũng chính là một nội hàm của tính 
chắc chắn - Certainty hoặc là tính có thể dự 
đoán được - Predictability, cũng là một yêu cầu 
đối với pháp luật trong một chế độ pháp quyền. 
[12] Hay tính ổn định và tính chắc chắn là các 
yêu cầu khác nhau và rằng chức năng chính của 
tính ổn định là gì? [13] Một mặt, như đã chỉ ra 
ở trên một số học giả coi tính ổn định là một 
tiêu chí độc lập đối với pháp luật và pháp 
quyền, tồn tại song song và tách biệt với các 
tiêu chí về tính chắc chắn hoặc tính có thể dự 
đoán được. Mặt khác, nhiều học giả không coi 
tính ổn định là yêu cầu độc lập. Dicey, Tom 
Bingham là các ví dụ điển hình. Trong khi tính 
chắc chắn và tính có thể dự đoán cũng được 
khẳng định là một thuộc tính quan trọng của 
pháp quyền. Tom Bingham, một trong các thẩm 
phán vĩ đại nhất Vương quốc Anh thế kỷ 20 
cũng khẳng định điều này trong chuyên luận 
ngắn nhưng quan trọng của ông về Pháp quyền 
trong khi ông không hề nhắc gì đến tính ổn định 
- Stability. [14] Hơn thế nữa, các báo cáo đánh 
giá, các chỉ số, các bảng xếp hạng về pháp luật 
có tính đại diện đều không coi tính ổn định là 
một tiêu chí, yêu cầu riêng của pháp luật. Thậm 
chí, các báo cáo, đánh giá này đều coi tính ổn 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 
24 
định là một nội dung của tính chắc chắn. Ổn 
định chỉ là một nội dung rất nhỏ thuộc về tiêu 
chí pháp luật công bằng trong Chỉ số pháp 
quyền của World Justice Project. Ổn định cũng 
chỉ là sự thể hiện của tính chắc chắn trong Chỉ 
số chắc chắn của pháp luật - Index of Legal 
Certainty. Tính ổn định cũng chỉ được xem là 
một nội dung của tính chắc chắn trong các tiêu 
chí đánh giá pháp quyền của Hội đồng Venice 
thuộc Hội đồng châu Âu. [15] Cách tiếp cận 
này cũng được tìm thấy trong không ít các báo 
cáo, đánh giá hoặc chỉ số về pháp luật khác. Nó 
không chỉ phản ánh sự thiếu đồng thuận trong 
việc xác định vai trò và vị trí của yêu cầu về 
tính ổn định của pháp luật mà còn gián tiếp cho 
thấy sự khó khăn trong việc xây dựng các tiêu 
chí, phương pháp cụ thể để đánh giá tiêu chí 
này. 
Một vấn đề quan trọng khác là trong khi 
tính chắc chắn và có thể dự đoán được có chức 
năng rõ ràng thì không tìm thấy một chức năng 
tương tự cho tính ổn định từ góc độ lý thuyết. 
Chắc chắn và có thể dự đoán được thực hiện hai 
chức năng. Một, nó cho phép các chủ thể của 
pháp luật có thể tự tin tham gia và các quan hệ 
xã hội, hành xử phù hợp với các quy tắc pháp lý 
và thứ hai là nó góp phần chống lại các hành vi 
lạm quyền, sai trái của các công chức nhà nước 
khi cho phép chủ thể bị áp dụng đánh giá được 
hành vi của các công chức đó có đúng luật 
không. [16] Báo cáo Chỉ số chắc chắn của pháp 
luật – Index of Legal Certainty giải thích thêm 
rằng sự chắc chắn thể hiện giá trị định tính của 
của một hệ thống pháp luật xuất pháp từ yêu 
cầu về chất lượng của quy phạm và chất lượng 
của việc giải thích quy phạm. [7] Hội đồng 
Venice dành một sự giải thích ngắn gọn cho 
tiêu chí ổn định của pháp luật trong Tiêu chí 
Pháp quyền của mình. Theo Hội đồng Venice, 
tính bất ổn hoặc thiếu nhất quán có thể tác động 
(tiêu cực) đến khả năng của chủ thể trong việc 
dự liệu cho cách cư xử của mình. [15] Tuy 
nhiên, Hội đồng cũng cảnh báo luôn rằng tính 
ổn định không phải là một mục tiêu cuối cùng, 
mục tiêu tự thân. Luật phải có khả năng thay 
đổi khi hoàn cảnh thay đổi. 
Qua sự giải thích này, có có nhận ra có 
không ít điểm tương đồng giữa tính chắc chắn 
và tính ổn định, thậm chí ổn định là một thuộc 
tính của tính chắc chắn. Tiêu chí và chức năng 
đặt ra đối với tí ... h thay đổi pháp luật. Về điều kiện, sự 
thay đổi phải (i) nhận được sự góp ý và tham 
vấn của công chúng và (ii) không được tác động 
tiêu cực, hồi tố đến các trông đợi (Expectations) 
hợp pháp của chủ thể. Hai câu hỏi có thể sử 
dụng để đánh giá tính ổn định là: (i) luật pháp là 
ổn định cho đến mức độ mà việc thay đổi phải 
được đi kèm với những thông báo và hướng dẫn 
cụ thể (Fair warning); và (2) liệu các quy định 
của pháp luật đã được áp dụng một cách thống 
nhất? [15] Điều thú vị là các phương pháp đánh 
giá này được kết nối trực tiếp tới tiêu chí về bảo 
đảm sự kỳ vọng, trông đợi hợp pháp của các đối 
tượng bị pháp luật điều chỉnh. Theo nguyên tắc 
này, những người đã hành xử một cách thiện 
chí và ngay tình đúng với các quy định của 
pháp luật thì không nên phải gánh chịu các hậu 
quả do sự thay đổi pháp luật gây ra. Nó cũng 
hàm ý đòi hỏi các công chức thực thi pháp luật 
không chỉ phải tuân thủ pháp luật trong quá 
trình thực hiện quyền hạn của mình mà còn 
phải giữ đúng lời hứa, cam kết phù hợp với 
trông đợi hợp pháp của các đối tượng bị điều 
chỉnh. Hội đồng Venice cũng đã thử áp dụng 
tiêu chí này để giải thích một quy định trong Bộ 
tiêu chuẩn thực hành tốt về bầu cử - The Code 
of good practice in electoral matters. Bộ tiêu 
chuẩn có đề ra một quy định rằng các yếu tố cơ 
bản, nền tảng của luật bầu cử ví dụ các ủy viên 
ủy ban bầu cử hoặc phương pháp xác định khu 
vực bầu cử không nên được thay đổi trong thời 
hạn một năm trước khi cuộc bầu cử diễn ra. 
[15] Trong lĩnh vực pháp luật quốc tế, các học 
giả luật quốc tế đã cố gắng ổn định pháp luật 
thông qua việc pháp điển hóa nguồn luật quốc 
tế và các điều ước quốc tế, làm cho chúng trở 
nên dễ tiếp cận và giải thích hơn. [4] 
Một thực tiễn khác cũng mới xuất hiện gần 
đây liên quan đến việc sử dụng các điều khoản 
ổn định pháp luật - Legal Stability Agreement 
trong các hiệp định bảo hộ đầu tư - Investment 
Protection Agreement hoặc trong các thảo thuận 
đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) giữa chính 
phủ một quốc gia và một công ty nước ngoài 
đầu tư vào quốc gia đó. Trong một trong những 
khảo cứu chi tiết nhất mới được xuất bản gần 
đây, Jola Gjuzi đã nêu và phân tích hàng chục 
thỏa thuận đầu tư đi kèm với các điều khoản 
yêu cầu phải ổn định pháp luật. [22] Điều 
khoản này đã phát triển một cách mạnh mẽ từ 
một điều khoản “đóng băng” với nghĩa là các 
điều khoản được quy định trong các hợp đồng 
chính phủ ký kết giữa các nhà đầu tư nước 
ngoài với chính phủ nước tiếp nhận đầu tư với 
mục tiêu “đóng băng” hệ thống pháp luật của 
quốc gia tiếp nhận đầu tư tại một thời điểm nhất 
định, làm cho bất kỳ sự thay đổi pháp luật nào 
liên quan đến dự án đầu tư có liên quan đều trở 
thành bất hợp pháp (kể cả khi các sửa đổi đó áp 
dụng chung và không có bất kỳ sự phân biệt đối 
xử nào)” [23] trở thành điều khoản tổng quát 
xác lập “tất cả các cơ chế, theo hợp đồng hoặc 
các quy định khác, có mục tiêu duy trì trong 
suốt thời hạn của hợp đồng (đầu tư) các lợi ích 
kinh tế và pháp luật cụ thể mà các bên cho là 
phù hợp tại thời điểm giao kết hợp đồng. [24, tr 
73] Các điều khoản này được biện hộ là một 
công cụ quan trọng giúp cho các nhà đầu tư 
nước ngoài quản trị rủi ro khi đầu tư vào một 
quốc gia, đặc biệt trong các dự án dài hạn, quy 
mô lớn và thời gian thu hồi vốn dài. Tuy nhiên, 
các điều khoản này cũng gây ra không ít quan 
ngại xuất phát từ góc độ quyền con người và 
phát triển bền vững của các quốc gia tiếp nhận 
đầu tư: không ít nghiên cứu, báo cáo đã chỉ ra 
sự xung đột và khả năng tác động tiêu cực của 
các điều khoản ổn định pháp luật này lên các 
nghĩa vụ bảo vệ quyền người và nỗ lực đạt 
được các mục tiêu phát triển bền vững. [25] 
Ở góc độ quốc gia và các lĩnh vực pháp luật 
trong nước, các học giả của mỗi quốc gia tùy 
thuộc vào đặc điểm, cấu trúc, kỹ thuật pháp lý 
của nước mình lại đề xuất các giải pháp cụ thể 
khác nhau cho từng lĩnh vực. Ví dụ như ổn định 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 27 
cách tiếp cận và xét xử để bảo đảm tính ổn định 
của án lệ ở Mỹ. Xây dựng và áp dụng thống 
nhất các nguyên tắc khái niệm chung ví dụ như 
trong lĩnh vực luật giáo dục. [26] Hay là tăng 
cường năng lực cho cơ quan và các chuyên gia 
lập pháp như ở Ba Lan. 
Một số học giả thì đề xuất một số biện pháp 
có tính cấp tiến hơn, đòi hỏi việc thay đổi hoàn 
toàn cách tiếp cận, cách hiểu về pháp luật trước 
khi có thể xây dựng được các tiêu chí và 
phương pháp bảo đảm sự ổn định của luật. Một 
số khác lại gợi ý từ góc độ thể chế và quản trị 
để thông qua đó đảm bảo tính ổn định của 
luật. [5] 
Tuy nhiên, có vẻ như các khuyến nghị, 
phương pháp này chưa nhận được sự đồng 
thuận và áp dụng rộng rãi của cộng động quốc 
tế. Điều này cũng là dễ hiểu bởi các lý do đã 
phân tích ở trên. 
4. Trở về với ý tưởng ban đầu: một khuyến 
nghị dựa trên kỹ thuật pháp lý cho Việt Nam. 
Với sự mâu thuẫn, thiếu rõ ràng và khó áp 
dụng của thuật ngữ như vậy. Với thực tiễn ít ỏi, 
không thành công của các khuyến nghị, phương 
pháp đã được đề xuất để đảm bảo tính ổn định 
của pháp luật trên thế giới, liệu có thể phân tích 
và đề xuất một cách tiếp cận mới, một phương 
pháp để đảm bảo tính ổn định của pháp luật nói 
chung hay không? Tác giả cho rằng có thể nếu 
chúng ta quay trở lại với các vấn đề nền tảng 
của vấn đề và xuất phát từ chính mâu thuẫn nội 
tại và nhu cầu chính đáng của pháp luật. Nói 
cách khác, thay vì hỏi làm sao để đảm bảo tính 
ổn định của pháp luật, chúng ta nên đặt câu hỏi 
làm thế nào để pháp luật thay đổi một cách tích 
cực và phù hợp. Xuất phát từ cách tiếp cận này 
chúng ta lại quay trở lại với chính các nhận 
định kinh điển về sự mâu thuẫn giữa giữ và 
thay đổi của Jefferson, Fuller, Bingham và các 
học giả khác và dựa trên chức năng chung của 
luật pháp về tính công khai, có thể tiếp cận 
được, có thể áp dụng được, chắc chắn và có thể 
dự đoán được. Mục tiêu cuối cùng chính là bảo 
đảm các yêu cầu của pháp quyền về sự bình 
đẳng, bảo vệ quyền của mỗi chủ thể. 
Thứ nhất, chúng ta cần phân loại tác nhân 
của sự thay đổi. Nếu tác nhân thay đổi đến từ 
bên ngoài, ví dụ như là do thay đổi về kinh tế, 
chính trị, văn hóa thì nó nằm ngoài tầm kiểm 
soát của các nhà luật học. Luật pháp bắt buộc 
phải thay đổi cho phù hợp với bối cảnh mới. 
Còn nếu sự thay đổi xuất phát từ các tác nhân 
bên trong như triết lý, phương pháp, thuật ngữ, 
quy trình làm luật, phương áp áp dụng và giải 
thích pháp luật thì chúng ta cần phải chủ động 
đánh giá xem có cần phải sửa đổi, bổ sung pháp 
luật cho phù hợp không? 
Thứ hai, nếu tác nhân thay đổi đến từ bên 
trong hệ thống thì chúng ta lại tiếp tục xem xét 
và phân loại nó thành hai nhóm. Nhóm thứ nhất 
là các tác nhân không quan trọng. Đó chính là 
các sai sót, khiếm khuyết đơn giản mà Jefferson 
đã chỉ ra. Các sai sót, khiếm khuyết này không 
gây ra các vấn đề quá lớn, không gây ảnh 
hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các 
chủ thể. Không khiến cho các chủ thể mất khả 
năng dự liệu và các kỳ vọng hợp lý vào pháp 
luật trong việc hành xử thì không cần phải sửa. 
Nhưng nếu đó là các sai sót, khiếm khuyết lớn, 
tức là các yếu tố tác động trực tiếp đến quyền 
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể, có thể 
khiến các chủ thể mất đi khả năng hành xử theo 
đúng kỳ vọng vào pháp luật thì cần phải đặt ra 
vấn đề sửa đổi một cách thận trọng và hợp lý. Ở 
đây, có lẽ các nhà làm luật nên xây dựng cấu 
trúc theo đó với các quy định xác lập, bảo vệ 
hoặc hạn chế các quyền và nghĩa vụ pháp lý của 
các chủ thể thì chỉ được quy định trong các văn 
bản từ luật do Quốc hội ban hành trở lên. Và do 
đó, các quy định hướng dẫn thực thi các quyền 
này thì có thể được quy định trong các văn bản 
lập quy. Làm như thế này sẽ đảm bảo việc sửa 
đổi được diễn ra phù hợp, ít tác động nhất. 
Hoặc nếu có phải sửa đổi thì sẽ đảm bảo chất 
lượng cao nhất vì phải tuân theo các quy trình 
khác nhau với các điều kiện đảm bảo chất 
lượng khác nhau. 
Thứ ba, xây dựng các quy trình lập pháp 
phù hợp cho từng yêu cầu sửa đổi theo từng 
mức độ như đã nêu ở trên. Tức là với các sửa 
đổi, bổ sung đơn giản, không liên quan đến 
quyền và lợi ích của các chủ thể có thể áp dụng 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 
28 
quy trình đơn giản, rút gọn hay còn gọi là sửa 
đổi - Revision. Còn đối với các yếu tố quan 
trọng tác động đến quyền và lợi ích của các chủ 
thể thì cần phải tiến hành theo quy trình đầy đủ, 
phức tạp hay còn gọi là cải cách - Reform. Với 
quy trình cải cách pháp luật một khuyến nghị là 
quy trình lập pháp có thể tham khảo quy trình 
chặt chẽ, khoa học về cải cách pháp luật do 
Hiệp hội các cơ quan cải cách pháp luật của 
Khối thịnh vượng Chung ban hành. [27] Quy 
trình này đã giới thiệu các vấn đề mà cơ quan 
cải cách pháp luật cần phải chú ý, thực hiện từ 
khâu nghiên cứu, tham vấn, soạn thảo, thảo 
luận và ban hành để đảm bảo điều luật mới có 
chất lượng cao nhất và do đó phù hợp nhất với 
xã hội. Đảm bảo cho tính ổn định của điều luật 
trong thời gian dài nhất có thể. Hướng dẫn cũng 
nêu ra các vấn đề cần phải chú ý liên quan tới 
năng lực, chuyên môn, và các nguồn lực khác 
cần thiết để đảm bảo cho việc cải cách diễn ra 
được thành công. 
Thứ tư, chú ý đến sự đặc thù về cấu trúc 
pháp luật, tư duy pháp lý và kỹ thuật pháp lý 
mà mỗi quốc gia chịu ảnh hưởng cũng như đạo 
luật đang dự định sửa đổi bổ sung. Mỗi nền tài 
phán quốc gia thường sẽ được đặc trưng hoặc 
chịu ảnh hưởng bởi một hệ thống pháp luật, tư 
duy và kỹ thuật pháp lý nhất định. Ví dụ như hệ 
thống dân luật vốn dựa chịu ảnh hưởng của tư 
duy pháp luật thực định và sử dụng kỹ thuật 
diễn dịch hay hệ thống thông luật vốn cởi mở 
hơn và chấp nhận cả tư duy pháp luật tự nhiên 
với kỹ thuật quy nạp. Chú ý đến các yếu tố này 
sẽ giúp cho việc lựa chọn giải pháp pháp lý mới 
phù hợp với hệ thống chung và do đó đảm bảo 
khả năng thành công. 
Thứ năm, cần phải chú ý đến cả lĩnh vực 
pháp luật đang muốn sửa đổi như luật công hay 
luật tư, dân sự hay hình sự hay hỗn hợp. Các 
lĩnh vực này có các chức năng và đôi khi vận 
hành theo các nguyên tắc, điều kiện khác nhau. 
Luật dân sự là luật của tự do ý chí trong khi 
hình sự là luật của mệnh lệnh. Do đó, sửa luật 
dân sự nên làm sao đảm bảo chức năng hỗ trợ 
của điều luật trong khi sửa luật hình sự thì phải 
tôn trọng các nguyên tắc nền tảng. 
Thứ sáu, nên chú ý đến cả vấn đề về ngôn 
ngữ và cách hành văn khi sửa luật. Ít nhất, phải 
đảm bảo rằng ngôn ngữ sử dụng chuẩn mực, dễ 
hiểu đối với những người thực hành và giải 
thích luật. 
Thứ bảy, có thể vận dụng các kỹ thuật hỗ 
trợ khác để làm cho luật dễ tiếp cận, dễ hiểu và 
do đó giảm thiểu khả năng xung đột mâu thuẫn. 
Ví dụ như pháp điển hóa (nội dung và hình 
thức), hợp nhất văn bản. 
Thứ tám, cuối cùng có thể cở mởi học hỏi 
kinh nghiệm nước ngoài khi cải cách, sửa đổi 
một điều khoản cụ thể. Đặc biệt chú ý học cả sự 
thất bại của họ vì đôi khi chính sự thất bại lại 
dạy cho chúng ta nhiều kiến thức hơn sự thành 
công. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Frédéric Bastiat, The Law (Cosimo, Inc 2010). 
[2] Lon Luvois Fuller, The Morality of Law, Vol 152 
(Yale University Press 1969). 
[3] Joseph Raz, The Authority of Law: Essays on 
Law and Morality (Oxford University Press on 
Demand 2009). 
[4] Jutta Brunnée and Stephen J Toope, International 
Law and the Practice of Legality: Stability and 
Change (2018) 49 Victoria U. Wellington L. Rev. 
429. 
[5] Adam Hill, Stability, Assurance, and the Concept 
of Legal Guidance’ (2015) 34 Law and 
Philosophy 141 
[6] World Justice Project, WJP Rule of Law Index 
2019 <https://worldjusticeproject.org/our-
work/research-and-data/wjp-rule-law-index-
2019> accessed 2 June 2019. 
[7] Fondation pour le droit continental, Index of 
Legal Certainty 2015 <https://www.fondation-
droitcontinental.org/en/index-legal-certainty/> 
accessed 2 June 2019. 
[8] Jan Cipiur, Polish Law Is the Most Unstable in the 
European Union, Central European Financial 
Observer 
<https://financialobserver.eu/poland/polish-law-
is-the-most-unstable-in-the-european-union/> 
accessed 2 June 2019. 
[9] Martin Jelsma and others, Balancing Treaty 
Stability and Change: Inter Se Modification of the 
UN Drug Control Conventions to Facilitate 
T. Kien / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 4 (2019) 1-29 29 
Cannabis Regulation, Swansea: Global Drug 
Policy Observatory (2018) <https://www. tni. 
org/files/publication/downloads/balancing_treaty_ 
stability_and_change. pdf> 
[10] Martin Shapiro, Stability and Change in Judicial 
Decision-Making: Incrementalism or Stare 
Decisis (1965) 2 Law Transition Q. 134. 
[11] Nicola Gennaioli & Andrei Shleifer, Overruling 
and the Instability of Law (2007) 35 Journal of 
Comparative Economics 309. 
[12] Danilo Zolo, ‘The Rule of Law: A Critical 
Reappraisal’, The Rule of Law History, Theory 
and Criticism (Springer 2007). 
[13] Jeremy Waldron, ‘The Rule of Law’ in Edward N 
Zalta (ed), The Stanford Encyclopedia of 
Philosophy (Fall 2016, Metaphysics Research 
Lab, Stanford University 2016) 
<https://plato.stanford.edu/archives/fall2016/entri
es/rule-of-law/> accessed 3 June 2019. 
[14] Tom Bingham, The Rule of Law (Penguin UK 
2011) 
[15] Council of Europe, Venice Commission, 
<https://www.venice.coe.int/webforms/documents
/?pdf=CDL-AD(2016)007-e> accessed 3 June 
2019. 
[16] James R Maxeiner, Some Realism about Legal 
Certainty in the Globalization of the Rule of Law, 
(2008) 31 Hous. J. Int’l L. 27. 
[17] Roscoe Pound, Interpretations of Legal History 
(Cambridge University Press 1967). 
[18] Emilios A Christodoulidis, Law and Reflexive 
Politics, vol 35 (Springer Science & Business 
Media 2001). 
[19] Mark Fenwick and Stefan Wrbka, Legal Certainty 
in a Contemporary Context: Private and Criminal 
Law Perspectives (Springer 2016). 
[20] Robin Kundis Craig and others, Balancing 
Stability and Flexibility in Adaptive Governance: 
An Analysis of Tools Available in US 
Environmental Law, (2017) 22 Ecology and 
society Journal. 
[21] Newton Edwards, Stability and Change in Basic 
Concepts of Law Governing American Education, 
(1957) 65 The School Review 161. 
[22] Jola Gjuzi, Stabilization Clauses in International 
Investment Law : A Sustainable Development 
Approach, (2018). 
[23] Total S.A. v. The Argentine Republic, ICSID 
Case No. ARB/04/01, Decision on Liability, 27 
Dec 2010 [“Total v. Argentina, Liability, 2010”], 
para. 101 
[24] Cameron, Peter D., and Graham Kellas, Contract 
Stability and Fiscal Stability: Rhetoric and 
Reality, (2008) Wood Mackenzie/CEPMLP at the 
Association of International Petroleum 
Negotiators (AIPN) International Conference in 
Edinburgh. 
[25] Amnesty International UK, Human Rights on the 
Line: The Baku-Tbilisi-Ceyhan Pipeline 
Project, (2018). 
[26] Jill E Fisch, Retroactivity and Legal Change: An 
Equilibrium Approach, (1996) 110 Harv. L. Rev 
1055. 
[27] Commonwealth Secretariat, Changing the Law: A 
Practical Guide to Law Reform (Commonwealth 
Secretariat 2017). 

File đính kèm:

  • pdftinh_on_dinh_cua_phap_luat_ly_thuyet_kinh_nghiem_quoc_te_va.pdf