Tình hình sản xuất đồng vị phóng xạ và dược chất phóng xạ trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt
Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt (LPƯHN ĐL) ngày nay với công suất danh định 500 kW là duy
nhất tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2017, lò phản ứng đã hoạt động với tổng cộng khoảng 44.000
giờ, có nghĩa là mức trung bình của mỗi năm hoạt động được 1.200 giờ (khoảng 1.500 giờ từ năm
2014 đến nay) an toàn và khai thác hiệu quả. Hơn 90% thời gian hoạt động lò phản ứng và hơn 80%
công suất chiếu xạ đã được khai thác cho nghiên cứu và sản xuất đồng vị phóng xạ (ĐVPX). Trong
quá trình hoạt động, lò phản ứng đã được sử dụng thành công trong sản xuất nhiều loại ĐVPX và
dược chất phóng xạ (DCPX) để sử dụng trong y học và các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật khác. Đã
cung cấp khoảng 8.000 Ci ĐVPX sử dụng trong y học, trong đó phần lớn là I-131, P-32, máy phát Tc-
99m, Sm-153, Lu-177, Cr-51, Co-60, Ir-192 ., góp phần thúc đẩy sự phát triển của Y học hạt nhân
(YHHN) tại Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình hình sản xuất đồng vị phóng xạ và dược chất phóng xạ trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 1Số 56 - Tháng 09/2018 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ VÀ DƯỢC CHẤT PHÓNG XẠ TRÊN LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN ĐÀ LẠT Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt (LPƯHN ĐL) ngày nay với công suất danh định 500 kW là duy nhất tại Việt Nam. Tính đến cuối năm 2017, lò phản ứng đã hoạt động với tổng cộng khoảng 44.000 giờ, có nghĩa là mức trung bình của mỗi năm hoạt động được 1.200 giờ (khoảng 1.500 giờ từ năm 2014 đến nay) an toàn và khai thác hiệu quả. Hơn 90% thời gian hoạt động lò phản ứng và hơn 80% công suất chiếu xạ đã được khai thác cho nghiên cứu và sản xuất đồng vị phóng xạ (ĐVPX). Trong quá trình hoạt động, lò phản ứng đã được sử dụng thành công trong sản xuất nhiều loại ĐVPX và dược chất phóng xạ (DCPX) để sử dụng trong y học và các lĩnh vực kinh tế và kỹ thuật khác. Đã cung cấp khoảng 8.000 Ci ĐVPX sử dụng trong y học, trong đó phần lớn là I-131, P-32, máy phát Tc- 99m, Sm-153, Lu-177, Cr-51, Co-60, Ir-192 ..., góp phần thúc đẩy sự phát triển của Y học hạt nhân (YHHN) tại Việt Nam. 1. MỞ ĐẦU Trên thế giới từ nhiều thập niên qua, việc ứng dụng kỹ thuật hạt nhân và ĐVPX đã trở thành một công cụ đắc lực trong các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội như: công nghiệp, nông nghiệp, xây dựng, môi trường, và nghiên cứu khoa học, đặc biệt trong y học được ứng dụng cho chẩn đoán, điều trị và nghiên cứu y học đã có nhiều kinh nghiệm và mang lại kết quả thiết thực. Để đáp ứng các nhu cầu sử dụng trong các lĩnh vực nêu trên, các ĐVPX được điều chế chủ yếu trên 2 thiết bị hạt nhân là lò phản ứng nghiên cứu và máy gia tốc hạt. Riêng trong thập niên vừa qua, do sự tăng trưởng nhanh và sự phổ biến rộng của các đồng vị sống ngắn phát positron, ứng dụng trong y tế được điều chế trên máy gia tốc hạt nên sự phát triển các sản phẩm này đã hướng tới một công nghệ mới chính xác, hiệu quả nhưng đòi hỏi sự đầu tư công nghệ cao về mọi mặt. Trong khi đó, lò phản ứng hạt nhân (LPƯHN) vẫn luôn đóng vai trò chủ đạo trong việc điều chế một số ĐVPX quan trọng không thể thiếu được cho các ứng dụng trong y tế, công-nông nghiệp như Tc-99m, Mo-99, I-131, Ir-192, Co-60, v.v... Đặc biệt với sự phát triển mạnh mẽ các phương pháp điều trị bệnh nhắm đích dùng các đồng vị phát bêta như Lu-177, Sm-153, P-32, bằng cả hai cách thức, xạ trị ngoài (dùng nguồn phóng xạ kín) và xạ trị nội (dùng nguồn phóng xạ hở), LPƯHN ĐL là phương tiện duy nhất và được khai thác hiệu quả cho mục đích điều chế các loại ĐVPX này. Hiện nay có hơn 10.000 bệnh viện trên toàn thế giới sử dụng đồng vị phóng xạ trong y học, và khoảng 90% các thủ thuật được ứng dụng cho chẩn đoán. Các đồng vị phóng xạ phổ biến nhất được sử dụng để chẩn đoán là technetium- 99m (Tc-99m) với khoảng 40 triệu thủ thuật mỗi năm, chiếm khoảng 80% tổng số các thủ thuật y học hạt nhân trên toàn thế giới. Ở các nước phát triển (26% dân số thế THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 2 Số 56 - Tháng 09/2018 giới), tần suất của y học hạt nhân chẩn đoán là 1,9% mỗi năm, và tần suất điều trị với đồng vị phóng xạ là khoảng một phần mười trong số này. Tại Mỹ có hơn 20 triệu thủ thuật y học hạt nhân mỗi năm, và ở châu Âu khoảng 10 triệu. Tại Úc, có khoảng 560.000 người/ năm, trong đó có 470.000 người sử dụng đồng vị của lò phản ứng. Việc sử dụng dược phẩm phóng xạ trong chẩn đoán đang tăng lên trên 10% mỗi năm. Y học hạt nhân đã được phát triển vào những năm 1950 với điểm nhấn là các bệnh về nội tiết, ban đầu sử dụng iodine-131 để chẩn đoán và sau đó điều trị bệnh tuyến giáp. Trong những năm gần đây, các chuyên gia cũng đã đến từ X quang, khi các quy trình chụp cắt lớp phát xạ positron / chụp cắt lớp điện toán (PET / CT) đã được thiết lập, tăng vai trò của máy gia tốc trong sản xuất đồng vị phóng xạ phát positron. Tuy nhiên, các đồng vị phóng xạ chính như Tc- 99m không thể sản xuất có hiệu quả mà không có lò phản ứng (một số Tc-99m được sản xuất trong máy gia tốc nhưng nó có chất lượng thấp hơn và chi phí cao hơn). Ở nước ta, từ khi LPƯHN ĐL chính thức hoạt động vào tháng 3/1984, việc nghiên cứu điều chế các ĐVPX và DCPX bắt đầu hình thành và phát triển. Tại thời điểm đó cả nước chỉ mới có 2 khoa YHHN tại Bệnh viện Chợ Rẫy (phía Nam) và Bệnh viện Bạch Mai (phía Bắc), đến nay đã có 25 khoa từ Trung ương đến địa phương với nhiều thiết bị hiện đại như Gamma-Camera, SPECT/ CT, PET/CT cho phép chẩn đoán nhanh, và chính xác hầu hết các cơ quan trong cơ thể cũng như điều trị đặc hiệu các bệnh ung bướu. Để phục vụ cho việc điều chế các chất phóng xạ, mỗi tháng lò phản ứng hoạt động liên tục 130-150 giờ ở công suất danh định 500 kW. Mặc dù công suất của LPƯHN bị hạn chế, song cho đến nay có thể đáp ứng 50% nhu cầu cung cấp các chất phóng xạ cho các cơ sở ứng dụng trong nước. Khả năng tự sản xuất được các chất phóng xạ trong nước đã kích thích và là chỗ dựa vững chắc cho việc nghiên cứu, ứng dụng các chất phóng xạ trong sự phát triển chung toàn xã hội. 2. HIỆN TRẠNG VỀ NGHIÊN CỨU VÀ SẢN XUẤT ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ TRÊN LÒ PHẢN ỨNG HẠT NHÂN ĐÀ LẠT Hiện nay, tại Viện Nghiên cứu hạt nhân (Đà Lạt), các chất phóng xạ được điều chế bằng cách chiếu xạ kích hoạt hạt nhân các đồng vị bền bằng neutron trên LPƯHN và tiếp đến là công nghệ xử lý hoá phóng xạ để thu được sản phẩm cuối cùng bảo đảm chất lượng cho sử dụng thực tiễn. 2.1. Hiện trạng về cơ sở vật chất và trang bị kỹ thuật Cơ sở vật chất và trang bị kỹ thuật phục vụ cho nghiên cứu, sản xuất các ĐVPX và hợp chất đánh dấu bao gồm các hệ thống thiết bị và công nghệ tách rời nhau nhưng được vận hành và hoạt động đồng bộ, phối hợp chặt chẽ với nhau. - Lò phản ứng là thiết bị quan trọng nhất với các kênh chiếu xạ có thông lượng neutron từ 5x1011 n.cm-2.s-1 đến 2,3x1013 n.cm-2.s-1, thích ứng cho việc điều chế các đồng vị trên cơ sở của phản ứng (n,γ), có thời gian sống ngắn và trung bình, được ứng dụng phổ biến trong YHHN. - Tổng diện tích các phòng thí nghiệm dành cho nghiên cứu và điều chế các chất phóng xạ là 300 m2, được bố trí ngay trong vùng kiểm soát của lò phản ứng. Trong đó 200 m2 dành cho việc lắp đặt các dây chuyền công nghệ sản xuất các đồng vị và DCPX, 100 m2 là các phòng thí nghiệm nghiên cứu phát triển và kiểm tra chất lượng sản phẩm. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 3Số 56 - Tháng 09/2018 Hình 1. Bên trong LPƯHN ĐL Hình 2. Vùng hoạt LPƯHN ĐL Hình 3. Mặt cắt đứng vùng hoạt LPƯHN ĐL Được sự tài trợ của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) và của ngành Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN), đơn vị đã được trang bị 3 dây chuyền công nghệ cơ bản và một số box đánh dấu cùng các thiết bị chuyên dụng khác, cụ thể là: - Dây chuyền sản xuất đồng vị I-131: Năm 1986, dưới sự tài trợ của IAEA Viện Nghiên cứu hạt nhân (Viện NCHN) tiếp nhận một dây chuyền sản xuất I-131, tại thời điểm này đây là một dây chuyền hiện đại, bảo đảm các điều kiện hoạt động của công việc sản xuất và kiểm tra chất lượng loại hình sản phẩm này. Năm 2008, Viện NCHN được Bộ Khoa học và Công nghệ trang bị dây chuyền sản xuất I-131 mới phù hợp với nhu cầu phát triển trong điều kiện hiện tại. Dây chuyền được nhập khẩu từ Đức do Tập đoàn ITD (Isotope Technologies Dresden GmbH) sản xuất theo tiêu chuẩn German Standard DIN ISO 9001:2000. Đây là dây chuyền được thiết kế lắp ráp trên công nghệ hiện đại, tự động hoá các công đoạn chính của quy trình sản xuất, và bảo đảm theo các tiêu chuẩn GMP về thực hành sản xuất dược phóng xạ của WHO/IAEA. Về hiệu quả kinh tế, dây chuyền này đã mang lại hiệu quả cao bởi lẽ nó luôn đáp ứng được nhu cầu sử dụng, thay thế sản phẩm ĐVPX nhập ngoại với giá thành phù hợp với điều kiện xã hội hiện tại. - Dây chuyền sản xuất máy phát Tc-99m và Dây chuyền sản xuất P-32 dạng tấm áp: mỗi dây chuyền này gồm 2 buồng sản xuất có che chắn phóng xạ bằng chì và được lắp ráp các cánh tay đẩy cùng với các thiết bị công nghệ cơ bản được đưa vào sử dụng từ năm 1999. - Các thiết bị chuyên dụng để điều chế các chất đánh dấu phóng xạ và DCPX. - Các thiết bị cơ bản để kiểm tra chất lượng các chất ĐVPX và DCPX. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 4 Số 56 - Tháng 09/2018 Hình 4. Dây chuyền sản xuất I-131 Hình 5. Box sản xuất Tc-99m Hình 6. Hệ thống kiểm tra chất lượng Hình 7. Phòng sạch, vô trùng sản xuất KIT 2.2. Năng lực đội ngũ cán bộ Liên quan đến công việc sản xuất các chất phóng xạ, các đơn vị chuyên môn sau đây của Viện NCHN cùng phối hợp tham gia: - Bộ phận Vận hành lò phản ứng và xử lý thải phóng xạ gồm 40 cán bộ, trong đó 25 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. - Bộ phận An toàn phóng xạ gồm 16 cán bộ, trong đó 10 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. - Bộ phận trực tiếp sản xuất chất phóng xạ và kiểm tra chất lượng sản phẩm gồm 16 cán bộ, trong đó có 15 cán bộ có trình độ đại học và trên đại học. Đội ngũ cán bộ này đã được đào tạo chuyên ngành ở trong và ngoài nước, làm việc nhiều năm trong lĩnh vực này, có kinh nghiệm và trình độ công nghệ đáp ứng các nhiệm vụ cần thiết. 2.3. Các sản phẩm ĐVPX và DCPX đã sản xuất Với các đặc điểm và điều kiện như hiện nay, để phục vụ cho việc điều chế các chất phóng xạ, hàng tháng lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt hoạt động 130-150 giờ liên tục với công suất danh định là 500 kW. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 5Số 56 - Tháng 09/2018 Hình 8. Các sản phẩm ĐVPX và DCPX đã được sản xuất tại Viện Nghiên cứu Hạt nhân Lượng đồng vị hiện nay có thể sản xuất được sau mỗi đợt lò hoạt động có thể đến 50 Ci tùy thuộc nhu cầu tại thời điểm cung cấp, trong đó phần lớn là I-131, Tc-99m và P-32 chiếm tỷ lệ 50%, phần còn lại 50% bao gồm các đồng vị như Mo-99, Lu-177, Sm-153, Co-60, Ir-192... Bảng 1. Các loại ĐVPX và DCPX đã được sản xuất trên lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt và ứng dụng của chúng Loại nguồn ĐVPX và DCPX Ứng dụng Nguồn hở 99mTc 99Mo Đánh dấu vớ á h hấ ánh dấ , ghi hình chẩn oán 131I viên nang và dung dịch Chẩn oán và iều trị các bệnh tuyến giáp 32P tấm áp và dung dịch Đ ều trị giảm au do di căn, các bệnh ngoài da 153Sm;177Lu;165Dy; 166Ho; 32P (dd) Nguồn kín 192Ir; 60Co Đ ều trị chiếu ngoài và áp sát và ứng dụng trong công nghiệp H p chất ánh dấu 131I-MIBG, 131I-HIP; 153Sm, 165Dy 166Ho; 125I; 89Sr; 90Y; 188Re;177Lu- ánh dấu EDTMP, phân tử sinh học Đ ều trị chiếu trong Các KIT invivo Phosphontec, Pyrotec, Glucotec, DMSA, HIDA, Phytate, Citrate, MAA, HMPAO, MIBI, MAG-3, MDP, EDTMP, DISIDA, ECD Ghi hình chức năng các cơ quan nội tạng Các DCPX như 131I-Hippuran, 131I-MIBG, 153Sm-EDTMP, 177Lu-EDTMP, 177Lu- DOTATATE... cũng đã được điều chế theo yêu cầu của các cơ sở sử dụng. Ngoài ra, các hợp chất đánh dấu với Tc- 99m là các Kit invivo bao gồm hơn 10 chủng loại cũng được sản xuất dưới dạng đông khô, sẵn sàng đáp ứng theo yêu cầu các khoa YHHN. 2.4. Tình hình đảm bảo chất lượng sản phẩm Trong 34 năm qua, song song với việc vận hành tốt công nghệ sản xuất, công tác bảo đảm và kiểm tra chất lượng sản phẩm luôn luôn được coi trọng, các thiết bị dùng cho kiểm tra chất lượng sản phẩm đã được nâng cấp và hoàn thiện theo mô hình kiểm tra độc lập có đối chứng, so sánh mẫu song song. Bộ phận kiểm tra chất lượng là cơ sở đạt tiêu chuẩn ISO/IEC 17025:2005, mã số VILAS 519 do Văn phòng công nhận chất lượng cấp. Việc theo dõi chất lượng sản phẩm ngay tại các cơ sở sử dụng cũng được thực hiện thường xuyên và đã ghi nhận rằng trong suốt 34 năm qua chưa phát hiện thấy trường hợp kém chất lượng nào. 2.5. Tình hình phân phối sản phẩm Tình hình cung cấp và phân phối các DCPX phụ thuộc vào loại sản phẩm, số lượng và mục đích sử dụng. Các chất phóng xạ sản suất trên LPƯHN ĐL như I-131, Tc-99m, P-32, Cr- 51, Sm-153, Lu-177, Au-198... được cung cấp cho các bệnh viện mỗi tháng 2 lần, từ năm 2018 Viện NCHN có kế hoạch cung cấp hàng tuần do nhu cầu các bệnh viện ngày càng tăng. Các sản phẩm Kit in-vivo và in-vitro có thể cung cấp với thời gian bất kỳ khi nào có giấy yêu cầu. Hiện tại, Viện NCHN cung cấp ổn định cho 25 bệnh viện trong cả nước. Bệnh viện Chợ Rẫy và Viện Quân y 108, trong nhiều năm trước đây đã sử dụng 100% chất phóng xạ do Viện NCHN cung cấp. Tuy nhiên, từ 2 năm nay, do nhu cầu cao về số lượng mà Viện NCHN không THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 6 Số 56 - Tháng 09/2018 có khả năng đáp ứng đủ nên các cơ sở này đã chuyển sang sử dụng một phần hoặc toàn bộ sản phẩm nhập ngoại. Lâu nay việc chuyên chở chất phóng xạ đến các Khoa YHHN được thực hiện bằng phương tiện ôtô chuyên dụng và do Viện NCHN đảm nhận. Vì phải chuyên chở bằng ôtô nên thời gian vận chuyển bị kéo dài làm giảm khả năng sử dụng các chất đồng vị sống ngắn và làm lãng phí hoạt độ phóng xạ. Khả năng vận chuyển chất phóng xạ bằng tàu hỏa cũng đã được thử nghiệm trong thời gian qua nhưng có nhiều khó khăn trong việc tiếp nhận tại các địa phương sử dụng. Khả năng vận chuyển chất phóng xạ bằng đường hàng không còn nhiều khó khăn trong thủ tục hành chính cho nên hiện nay vẫn chưa được cấp phép thực hiện. 3. NHU CẦU PHÁT TRIỂN ỨNG DỤNG ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ TRONG Y TẾ Ở NƯỚC TA 3.1. Tình hình chung Trong suốt 34 năm qua kể từ ngày đưa LPƯHN ĐL vào hoạt động, lĩnh vực YHHN của nước ta đã có những bước phát triển đáng kể. Thông qua các dự án viện trợ kỹ thuật, IAEA đã cung cấp một số thiết bị YHHN cơ bản và hiện đại đồng thời hỗ trợ đào tạo đội ngũ bác sỹ, kỹ thuật viên cho các bệnh viện. Bằng khả năng của mình, Viện NCHN đã tích cực thực hiện chương trình tư vấn, mở rộng mạng lưới YHHN bằng cách hỗ trợ cho các bệnh viện để thiết lập các khoa YHHN, đó là: tham gia tư vấn xây dựng dự án, thiết kế phòng ốc, cung cấp các thiết bị, ĐVPX và hỗ trợ trong việc đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật phóng xạ cho các bệnh viện. Hiện nay, trong toàn quốc có 30 khoa YHHN đang hoạt động (năm 1984, thời điểm LPƯHNĐL bắt đầu hoạt động chỉ có 2 khoa YHHN). Hình 9. Số lượng các khoa YHHN trên toàn quốc Hình 10. Sự phân bố các khoa YHHN trên toàn quốc Hình 11. Sơ đồ cung cấp đồng vị hàng năm từ 1984-2017 cho lĩnh vực Y tế THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 7Số 56 - Tháng 09/2018 Sự phát triển số lượng các khoa YHHN đồng nghĩa với sự phát triển thị trường bền vững. Đặc biệt sau khi ban hành Quyết định số 1958/ QĐ-TTg ngày 4/11/2011 của Thủ tướng chính phủ Phê duyệt Quy hoạch chi tiết phát triển, ứng dụng bức xạ trong y tế đến năm 2020, việc triển khai, mở rộng các cơ sở YHHN đang có sự chuyển biến tích cực cả về số lượng cũng như quy mô kỹ thuật. Hiện nay 95% lượng ĐVPX sản xuất trên lò phản ứng Đà Lạt đang cung cấp cho ứng dụng trong y tế. Để đáp ứng thị trường ngày càng mở rộng mỗi tháng lò phản ứng đã phải tăng thời gian hoạt động từ 100 giờ lên 130-150 giờ, tuy nhiên do đặc điểm hệ thống công nghệ nên các sản phẩm sản xuất trên lò cũng chỉ đáp ứng được mỗi tháng 1 lần với sản phẩm chính là I-131, P-32 trong khi nhu cầu là mỗi tháng 4 lần. Sự phát triển thêm nhiều cơ sở ứng dụng ĐVPX trong y tế dẫn đến nhu cầu thị trường tăng nhanh cả về số lượng và chủng loại ĐVPX. Ngoài ứng dụng cho chẩn đoán và điều trị, thì ứng dụng ĐVPX trong nghiên cứu y học cũng đang phát triển đáng kể tại các viện nghiên cứu và tại các bệnh viện với nhu cầu đa dạng về chủng loại ĐVPX nên hầu hết là nhập ngoại. 3.2. Nhu cầu sử dụng ĐVPX ở Việt Nam trong thời gian tới Theo kế hoạch, trong 5 năm tới sẽ có khoảng 40 bệnh viện có khoa YHHN được xây dựng và đưa vào hoạt động. Các thiết bị chẩn đoán bệnh sẽ được hiện đại hóa và đưa vào hoạt động với khoảng 30 thiết bị gamma camera và SPECT trong vòng 3 năm tới. Số lượng bệnh nhân được chẩn đoán và điều trị bằng ĐVPX sẽ tăng 200% sau năm 2020. Số lượng ĐVPX ứng dụng trong y tế hiện nay ước tính 2000 Ci/năm trong đó hơn 50% là nhập khẩu. Theo dự đoán của các chuyên gia YHHN của ta hiện nay thì sau 10 năm nữa nhu cầu về ĐVPX trong y tế có thể sẽ tăng gấp 10 lần. 4. NHỮNG THÁCH THỨC TRONG SẢN XUẤT VÀ CUNG ỨNG ĐỒNG VỊ PHÓNG XẠ CỦA VIỆN NGHIÊN CỨU HẠT NHÂN Một trong những ứng dụng quan trọng của lò phản ứng nghiên cứu là sản xuất các ĐVPX phục vụ các lĩnh vực phát triển kinh tế xã hội; Tại LPƯHN Đà Lạt có thể nói dù có công suất nhỏ chỉ 500 kW, nhưng đã hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực này trong suốt thời gian vận hành, góp phần không nhỏ vào sự phát triển chung của ngành năng lượng nguyên tử. Tuy nhiên, trước sự phát triển xã hội và nhu cầu sử dụng ĐVPX ngày càng gia tăng, việc sản xuất các ĐVPX đáp ứng thị trường đang phải đối diện với nhiều khó khăn thách thức, cụ thể: 4.1. Về thiết bị công nghệ - Lò PƯHN Đà Lạt có công suất nhỏ cũng như đặc thù công nghệ nên thời gian cũng như tần suất hoạt động hạn chế; - Thiết bị công nghệ phục vụ cho sản xuất còn thiếu nhiều, ví dụ như chưa trang bị đầy đủ các dây chuyền sản xuất và kiểm tra chất lượng. 4.2. Về nhân sự, đào tạo - Cán bộ chuyên môn cao trong sản xuất còn thiếu nhiều lĩnh vực như hóa dược phóng xạ, hóa phóng xạ, điện tử hạt nhân, vật lý y học (do hệ thống giáo dục đại học và trung học chuyên nghiệp chưa có chương trình đào tạo các lĩnh vực này). 4.3. Về chính sách, kế hoạch đầu tư - Nguồn vốn đầu tư nâng cấp cơ sở sản xuất còn hạn chế; - Chưa có cơ chế quản lý sản xuất và cung cấp, quản lý chất lượng về các sản phẩm ĐVPX THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 8 Số 56 - Tháng 09/2018 và DCPX ở tầm quốc gia dẫn đến hiện tượng cạnh tranh với các sản phẩm nhập ngoại. 4.4. Cơ chế xã hội - Cơ chế hành chính trong điều hành phối hợp giữa nhà sản xuất và cơ sở ứng dụng còn nhiều bất cập như thủ tục, kế hoạch hợp đồng, đặt hàng, thanh quyết toán không kịp thời, ảnh hưởng nhiều đến tái sản xuất; - Chưa có sự tổ chức thống nhất giữa mạng lưới các nhà cung cấp các sản phẩm ĐVPX và DCPX ngoại nhập; - Chưa có cơ chế vận chuyển các ĐVPX bằng đường hàng không trong nước, gây lãng phí trong quá trình sản xuất đối với các sản phẩm ĐVPX có thời gian bán rã ngắn. 5. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN SẢN XUẤT VÀ KHẢ NĂNG CUNG CẤP CÁC CHẾ PHẨM PHÓNG XẠ SỬ DỤNG TRONG Y TẾ VÀ CÔNG NGHIỆP 5.1. Khả năng sản xuất và cung cấp chất phóng xạ trong nước Với tiềm năng và ưu thế của các hệ thiết bị, công nghệ và đội ngũ cán bộ hiện nay cũng như trong tương lai, Viện NCHN hoàn toàn giữ được vai trò quan trọng trong việc phát triển nền YHHN của nước nhà như thời gian qua thông qua các đóng góp trong nghiên cứu phát triển, sản xuất và cung cấp ổn định các chế phẩm phóng xạ, hỗ trợ kiểm tra chất lượng, sử dụng an toàn và có hiệu quả cho các khoa YHHN trong cả nước. Khả năng sản xuất các chất phóng xạ của Viện NCHN không chỉ phụ thuộc vào hoạt động của LPƯHN ĐL mà còn phụ thuộc vào hoạt động và chất lượng của các hệ thiết bị công nghệ xử lý hóa dược phóng xạ. Đối với Lò phản ứng, về nguyên tắc có thể tăng thời gian hoạt động của lò ở công suất 500 kW lên tối đa hợp lý là 200 giờ/tháng, cải tiến thiết bị và công nghệ chiếu xạ như cải tiến container chiếu xạ không dùng lớp vỏ thuỷ tinh để tăng được số lượng bia tối đa, tuy vậy, với mức độ nhu cầu ngày càng tăng như hiện nay cho dù có đáp ứng các yêu cầu trên thì trong vòng 3 năm tới, Viện NCHN cũng chỉ có thể đáp ứng được không quá 50% nhu cầu về số lượng các chất phóng xạ với các chủng loại có thể sản xuất được. Để khai thác triệt để khả năng của thiết bị xử lý và đáp ứng nhu cầu cao hơn về số lượng và chủng loại các chế phẩm phóng xạ, một định hướng cần thực hiện là nhập khẩu các bia đồng vị đã được chiếu xạ kích hoạt trên các lò phản ứng hạt nhân ở nước ngoài như là vật liệu sơ chế để sản xuất các chất ĐVPX trên các thiết bị đã có tại Viện NCHN. Ngoài ra, Viện NCHN có đủ điều kiện về thiết bị và con người để nhập khẩu sản phẩm theo nguyên lô và thực hiện phân liều đóng gói, phân chia sản phẩm đến các khoa YHHN trong toàn quốc. Hai hình thức nhập khẩu nêu trên đều cần có sự đóng góp về trí lực và kỹ thuật của ngành và cũng là hình thức làm giảm giá thành của sản phẩm so với việc nhập khẩu riêng lẻ theo nhu cầu riêng của từng bệnh viện. Bên cạnh đó, nội dung mà Viện NCHN đang quan tâm và cần được hỗ trợ nhiều hơn nữa là nâng cấp cơ sở sản xuất để đạt được các tiêu chuẩn GMP, QA/QC nhằm tăng tính cạnh tranh cho các sản phẩm trong nước và nâng cao uy tín của ngành hạt nhân Việt Nam đối với các đối tác trong và ngoài nước. 5.2. Định hướng nghiên cứu phát triển Trong những năm gần đây, lĩnh vực YHHN trên thế giới có nhiều đột phá trong sự phát triển về cả chiều sâu và chiều rộng. Sự ra đời của các thiết bị YHHN hiện đại như SPECT, PET, v.v cũng như những tiến bộ vượt bậc trong lĩnh vực công nghệ Sinh - Y đã tạo cơ sở và động lực THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 9Số 56 - Tháng 09/2018 thúc đẩy sự phát triển của lĩnh vực điều chế các DCPX. Việc định hướng cho việc nghiên cứu phát triển các chế phẩm phóng xạ từ nay đến năm 2020 để phục vụ cho YHHN nước ta phải dựa trên nền tảng cơ sở vật chất, trang thiết bị và đội ngũ cán bộ. Vì thế, các hướng nghiên cứu cần được tập trung trong thời gian tới là: - Nghiên cứu phát triển các Kit in-vivo đánh dấu với Tc-99m để chẩn đoán các bệnh tim mạch, hệ thần kinh trung ương (các bệnh liên quan tới não bộ). - Nghiên cứu các Kit in-vivo dùng các kháng thể để hiện hình miễn dịch chẩn đoán bệnh trên máy SPECT cần được ưu tiên phát triển theo các chiều hướng xã hội. - Nghiên cứu phát triển các chế phẩm phóng xạ phát alpha, beta năng lượng cao để phục vụ điều trị bệnh bằng phương pháp xạ trị nội và xạ trị áp sát để phục vụ việc điều trị khối u, ung thư và các bệnh viêm nhiễm. - Nghiên cứu phát triển các chế phẩm phóng xạ phục vụ việc xét nghiệm nội tiết tố trong máu, như các Kit RIA, IRMA, v.v... - Quan tâm các hướng nghiên cứu DCPX đánh dấu với các loại đồng vị phát positron để dùng trên các thiết bị PET. - Quy hoạch sản xuất Tc-99m theo hướng cung cấp các sản phẩm cuối đã được đánh dấu với các KIT, trong đó việc hình thành mô hình cụm sản xuất Tc-99m trực tiếp từ nguồn Mo-99 nhập khẩu. 6. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ Với những thành quả có ý nghĩa quan trọng của ngành hạt nhân là việc đưa Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt vào hoạt động an toàn và có hiệu quả, với sự hình thành sớm và phát triển nhanh của lĩnh vực điều chế các chất phóng xạ tại Viện NCHN, ngành YHHN nói riêng và lĩnh vực sử dụng các chất phóng xạ vào các ngành kinh tế quốc dân nói chung đã có những bước tiến bộ và phát triển nhanh trong vòng 34 năm qua. Đặc biệt, từ tháng 10/2017, Viện NCHN đã xuất khẩu ĐVPX sang Campuchia, tuy bước đầu mức hoạt độ đồng vị xuất khẩu chưa cao, nhưng đã đánh dấu một bước ngoặt trong lịch sử phát triển của Viện NCHN. Tất cả điều này đã khẳng định sự đóng góp tích cực, hiệu quả và quan trọng của ngành hạt nhân vào công cuộc hiện đại hóa nước nhà. Đồng thời, góp phần tăng cường mối quan hệ hữu nghị vốn có của Việt Nam với các nước trong khu vực. Mặc dù vậy, trên cơ sở phân tích tình hình thực tế về cơ sở hạ tầng, điều kiện thiết bị và khả năng nhân lực hiện có trong lĩnh vực sản xuất các chất ĐVPX tại Viện NCHN; từ thực tế về nhu cầu chẩn đoán và điều trị bệnh của các khoa YHHN trong cả nước ngày càng tăng; để đảm bảo sử dụng hiệu quả các chế phẩm DCPX do Viện NCHN sản xuất và đảm bảo an toàn phóng xạ cho người sử dụng; để Viện NCHN nói riêng và ngành hạt nhân nước ta nói chung thực sự đóng góp trách nhiệm của mình phục vụ tốt hơn cho ngành y tế, xin được nêu một số kiến nghị sau đây: 1. Cần nâng cấp cơ sở hạ tầng và một số hệ thống thiết bị đã cũ để đạt được các tiêu chuẩn GMP, QA/QC nhằm đảm bảo chất lượng cho các sản phẩm ĐVPX mà Viện NCHN đã, đang và sẽ sản xuất. 2. Tạo thuận lợi cho Viện NCHN trong công tác xuất, nhập khẩu; và vận chuyển chất phóng xạ bằng cách xác lập cơ chế vận chuyển và phân phối thích hợp sử dụng các phương tiện nhanh như máy bay, tàu hỏa để đáp ứng kịp thời yêu cầu của các khoa YHHN và tiết kiệm về mặt hoạt độ bị giảm do tự phân rã theo thời gian. 3. Do hạn chế về công suất của LPƯHNĐL, THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 10 Số 56 - Tháng 09/2018 trong lúc nhu cầu ngày càng tăng của ngành y tế và các ứng công nghiệp, trong khi chờ phương án xây dựng một lò phản ứng đa chức năng mới công suất cao hơn, để đáp ứng về cả số lượng và chủng loại thì việc nhập các DCPX từ nước ngoài là tất yếu. Để thực hiện điều đó, cần xác lập cơ chế quản lý nhà nước trong lĩnh vực nhập khẩu các chất phóng xạ một cách hợp lý bảo đảm an toàn an ninh, đồng thời khuyến khích phát triển sản xuất ĐVPX một cách đầy đủ, cụ thể: - Cho phép nhập nguyên liệu sơ chế để điều chế thành phẩm trên các dây chuyền công nghệ hiện có tại Đà lạt; - Cho phép nhập thành phẩm nguyên lô để thực hiện việc phân liều và đóng gói tại Việt Nam. - Pháp nhân chính thức về kiểm soát chất lượng các chế phẩm phóng xạ nhập ngoại, để thực hiện thành công điều này cần có sự phối hợp với Viện Kiểm nghiệm thuốc để thành lập Trung tâm kiểm định quốc gia về DCPX. 4. Từng bước hoàn thiện công tác phối hợp tổ chức quản lý, quan tâm công tác đào tạo cán bộ chuyên ngành cho các cơ sở sản xuất, cung cấp cũng như các cơ sở sử dụng các chất phóng xạ nhằm thiết lập một hệ thống sản xuất - phân phối - sử dụng tối ưu. Dương Văn Đông Trung tâm Nghiên cứu và Điều chế ĐVPX, Viện Nghiên cứu hạt nhân TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. IAEA TEC-DOC-1234, The Applications of Research Reactors, Report of an Advisory Group Meeting held in Vienna, 4-7 October 1999. [2]. Radioisotope Production in Nuclear Research Reactors. IAEA-TECDOC-2000. [3]. Report of the IAEA Regional Management Workshop on Strategies to Enhance Utilisation of Local Radiopharmaceuticals, RAS/2/009, Korea, 22-26 October 2001. [4]. Report of the FNCA Radioisotope and radiopharmaceutical production in Vietnam, Korea, 23-28 October 2011. [5]. Dương Văn Đông, 30 năm nghiên cứu sản xuất, cung ứng ĐVPX và dược chất đánh dấu tại lò phản ứng hạt nhân, Đà Lạt, 2014.
File đính kèm:
- tinh_hinh_san_xuat_dong_vi_phong_xa_va_duoc_chat_phong_xa_tr.pdf