Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ

Nếu như quy tắc xuất xứ (QTXX) đối với hàng hóa đã được xây dựng rất hoàn chỉnh và được

nghiên cứu rộng rãi thì QTXX đối với dịch vụ còn rất ít được đề cập đến. Bài viết này sẽ cung cấp

cho người đọc những hiểu biết cơ bản nhất về QTXX đối với dịch vụ thông qua việc làm rõ sự cần

thiết phải có quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ, ảnh hưởng của các tính chất của dịch vụ lên

QTXX, và một số quy định hiện hành liên quan tới xuất xứ dịch vụ. Từ việc xem xét quy định của

GATS và một số PTA, bài viết chỉ ra rằng các quy định này đang đi theo cách tiếp cận chung dựa

trên phương thức cung ứng dịch vụ, song chưa tập trung vào bản thân dịch vụ và cũng chưa đủ tính

khả thi để áp dụng. Do đó, QTXX đối với dịch vụ cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện để trở

thành công cụ phù hợp với thương mại dịch vụ hiện đại.

pdf 8 trang kimcuc 6460
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ

Tìm hiểu về quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
34 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
1. Đặt vấn đề
Quy tắc xuất xứ (QTXX) là những tiêu chí 
được sử dụng để xác định nước xuất xứ của 
một sản phẩm. QTXX có vai trò quan trọng 
bởi vì các sản phẩm sẽ hưởng những chế độ 
đãi ngộ khác nhau tùy thuộc xuất xứ, hay cũng 
chính là quốc tịch của chúng. 
Trong thương mại hàng hóa, QTXX được 
thiết lập nhằm xác định cơ chế đối xử với hàng 
hóa nhập khẩu. Vai trò cụ thể nhất của QTXX 
là giúp người xuất, nhập khẩu biết mức thuế 
nào sẽ áp dụng đối với một hàng hóa cụ thể. 
Song việc vận dụng QTXX không chỉ giới hạn 
trong lĩnh vực hải quan mà còn hỗ trợ việc 
thực thi các công cụ, biện pháp chính sách 
thương mại khác vì xuất xứ hàng hóa là cơ 
sở để áp thuế chống bán phá giá, thuế chống 
Tóm tắt
Nếu như quy tắc xuất xứ (QTXX) đối với hàng hóa đã được xây dựng rất hoàn chỉnh và được 
nghiên cứu rộng rãi thì QTXX đối với dịch vụ còn rất ít được đề cập đến. Bài viết này sẽ cung cấp 
cho người đọc những hiểu biết cơ bản nhất về QTXX đối với dịch vụ thông qua việc làm rõ sự cần 
thiết phải có quy tắc xuất xứ trong thương mại dịch vụ, ảnh hưởng của các tính chất của dịch vụ lên 
QTXX, và một số quy định hiện hành liên quan tới xuất xứ dịch vụ. Từ việc xem xét quy định của 
GATS và một số PTA, bài viết chỉ ra rằng các quy định này đang đi theo cách tiếp cận chung dựa 
trên phương thức cung ứng dịch vụ, song chưa tập trung vào bản thân dịch vụ và cũng chưa đủ tính 
khả thi để áp dụng. Do đó, QTXX đối với dịch vụ cần tiếp tục được nghiên cứu và hoàn thiện để trở 
thành công cụ phù hợp với thương mại dịch vụ hiện đại. 
Từ khóa: xuất xứ, quy tắc xuất xứ, dịch vụ, FTA, GATS, WTO.
Mã số: 204.121015. Ngày nhận bài: 12/10/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 24/12/2015. Ngày duyệt đăng: 24/01/2016.
Abstract
While rules of originfor goods have been quite fully constructed and widely researched, those 
for services are still rarely mentioned. This article aims to provide readers with basic knowledge 
of origin rules for services through explaining the needs to develop such rules in service trade, the 
influence of services’ features on their origin rules and current regulations on the origin of services. 
After considering relevant provisions of the GATS and some PTAs, the article points out that these 
regulations share the approach that is based on the modes of service supply; but they are not 
focusing on services themselves and not feasible enough to be applied. Therefore, rules of origin 
for services need further research to be accomplished and become asuitable instrument for modern 
trade in services.
Key words: origin, ROO, service, FTA, GATS, WTO.
Paper No. 204.121015. Date of receipt:12/10/2015. Date of revision: 24/12/2015. Date of approval: 24/01/2016.
TÌM HIỂU VỀ QUY TẮC XUẤT XỨ TRONG 
THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ
Đinh Khương Duy*
* ThS, Trường Đại học Ngoại thương; Email: khuongduy@ftu.edu.vn
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
35Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
trợ cấp; thực hiện các yêu cầu về dán nhãn 
Ngoài ra, QTXX trong các hiệp định thương 
mại tự do (FTA) còn góp phần thu hút đầu tư 
nước ngoài và hỗ trợ các nhà sản xuất nội địa. 
Về nguyên tắc, một hàng hóa sẽ có xuất 
xứ tại quốc gia hoặc vùng lãnh thổ nơi diễn ra 
quá trình gia công, chế biến cơ bản cuối cùng. 
Để xác định quá trình sản xuất tại một quốc 
gia có đem lại xuất xứ cho hàng hóa không, 
các QTXX có thể sử dụng một trong các tiêu 
chí như giá trị gia tăng trong nội địa, sự thay 
đổi mã số thuế quan hoặc những công đoạn 
gia công, chế biến cụ thể mà hàng hóa phải 
trải qua1.
Trong thương mại dịch vụ, vấn đề xuất xứ 
và QTXX cũng có ý nghĩa tương tự. Dù các 
giao dịch dịch vụ không phải đối tượng bị 
đánh thuế quan, nhưng xuất xứ của dịch vụ 
là cơ sở để các chế độ đối xử tối huệ quốc, 
đối xử quốc gia và gia nhập thị trường mà các 
bên cam kết khi gia nhập WTO được áp dụng 
đúng đối tượng. Việc xác định xuất xứ của 
dịch vụ còn quan trọng hơn nữa trong các thỏa 
thuận thương mại ưu đãi có liên quan tới dịch 
vụ. Bởi lẽ một trong những mục tiêu chính của 
các thỏa thuận này là dành ưu đãi đặc biệt cho 
dịch vụ có xuất xứ từ các nước thành viên. 
Thế nhưng, cho tới nay vẫn chưa có một 
mô hình QTXX thống nhất được xây dựng 
cho lĩnh vực dịch vụ. Hơn nữa, vì dịch vụ có 
các tính chất khác biệt so với hàng hóa nên 
việc áp dụng QTXX hàng hóa cho dịch vụ là 
bất khả thi. Xuất phát từ thực tế đó, trong bài 
viết này, tác giả sẽ trình bày một số điểm cốt 
lõi về xuất xứ và QTXX trong thương mại 
dịch vụ nhằm cung cấp cho người đọc những 
hiểu biết cơ bản nhất về đối tượng nghiên cứu 
còn hết sức mới mẻ này.
2. Tính chất của dịch vụ và việc xây dựng 
QTXX dịch vụ
Như chúng ta đã biết, dịch vụ có một số 
tính chất khác biệt so với hàng hóa: tính vô 
hình, tính không tách rời giữa cung ứng và 
tiêu dùng dịch vụ, tính không đồng đều về 
chất lượng và tính không dự trữ được. Sự khác 
biệt này ảnh hưởng như thế nào tới việc thiết 
kế và thực thi QTXX trong lĩnh vực dịch vụ?
Trước hết, sự khác biệt giữa hàng hóa và 
dịch vụ khiến QTXX trong thương mại dịch 
vụ không thể được xây dựng giống như QTXX 
trong thương mại hàng hóa. Chẳng hạn, với 
tiêu chí hàm lượng giá trị rất phổ biến trong 
QTXX hàng hóa, hai câu hỏi quan trọng cần 
đặt ra là giá trị gia tăng được tạo ra tại đâu 
và chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng giá trị 
hàng hóa. Tiêu chí này sẽ rất khó áp dụng để 
xác định xuất xứ dịch vụ vì tính vô hình của 
dịch vụ khiến việc xác định nơi mà giá trị gia 
tăng được tạo ra và lượng hóa giá trị gia tăng 
này hết sức phức tạp. Trong một số trường 
hợp, dịch vụ lại cấu thành một phần giá trị 
của hàng hóa (như dịch vụ phân phối; dịch vụ 
marketing; dịch vụ hậu mãi) chứ không tồn 
tại độc lập (như dịch vụ giáo dục, dịch vụ tài 
chính). Khi đó, để xác định xuất xứ của dịch 
vụ dựa trên giá trị gia tăng đòi hỏi phải tách 
biệt được phần dịch vụ này ra khỏi hàng hóa. 
Một khó khăn nữa khi áp dụng tiêu chí này 
là việc xác định các cấu phần của dịch vụ để 
tính toán giá trị gia tăng. Một số dịch vụ như 
viễn thông, năng lượng thực chất được cung 
ứng theo các mạng lưới và rất khó để đo lường 
1 Tác giả đã trình bày cụ thể về QTXX hàng hóa trong bài báo Vai trò bảo hộ của quy tắc xuất xứ trong thương 
mại quốc tế (Tạp chí Kinh tế đối ngoại, số 57/2013)
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
36 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
giá trị gia tăng tại một điểm trên mỗi mạng 
lưới như vậy. Từ một góc độ khác, do tính chất 
không tách rời của việc cung ứng và tiêu thụ 
dịch vụ, nhà cung ứng nước ngoài thường sẽ 
phải có mặt và tiếp xúc với người sử dụng dịch 
vụ, đặc biệt trong phương thức cung ứng dịch 
vụ thông qua hiện diện thương mại và hiện 
diện thể nhân (tương ứng phương thức 3 và 4 
trong Hiệp định GATS)2. Điều này sẽ kéo theo 
nhiều giá trị gia tăng được tạo ra ở nước tiêu 
dùng dịch vụ. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, 
yêu cầu về giá trị gia tăng là không cần thiết.
Tiêu chí thay đổi mã số thuế quan, vốn hết 
sức rõ ràng để xác định mức độ chuyển đổi 
cơ bản của hàng hóa, cũng không thể áp dụng 
vào lĩnh vực dịch vụ. Cần lưu ý rằng, dịch vụ 
vẫn có thể được phân ngành, phân loại song 
điều này không giúp ích cho việc xác định xuất 
xứ3. Trong thương mại hàng hóa, quá trình sản 
xuất (chẳng hạn từ gỗ làm ra bàn ghế) có thể 
làm thay đổi mã số thuế quan của sản phẩm 
so với nguyên vật liệu, do đó có thể lấy đây 
làm một tiêu chí để xác định sự chuyển đổi cơ 
bản. Nhưng sẽ không có sự thay đổi như vậy 
trong quá trình cung ứng dịch vụ. Thí dụ, dịch 
vụ vận tải biển sau quá trình nâng cấp, hoàn 
thiện, cải tiến vẫn sẽ là dịch vụ vận tải biển chứ 
không trở thành dịch vụ vận tải hàng không.
Tương tự, có thể thấy do tính chất không 
tách rời, nên dịch vụ không tồn tại trước khi 
được cung ứng và tiêu thụ. Rất khó để phân 
tích quá trình cung ứng một dịch vụ (như dịch 
vụ giải trí) thành các công đoạn và đếm xem 
công đoạn nào được thực hiện ở nước A, công 
đoạn nào được thực hiện ở nước B. Do đó, xác 
định xuất xứ dựa trên tiêu chí công đoạn sản 
xuất (như “từ sợi trở đi” trong ngành dệt may) 
khó phù hợp với lĩnh vực dịch vụ.
Sự không tương thích của QTXX hàng hóa 
khi áp dụng vào dịch vụ một phần vì chúng 
được xây dựng dựa trên quá trình sản xuất. 
QTXX hàng hóa không đặt ra vấn đề quốc tịch 
của nhà sản xuất. Hãy xem xét trường hợp một 
chiếc xe được lắp ráp tại Lào, với linh kiện 
nhập khẩu từ Nhật Bản. Xuất xứ của chiếc xe 
này không phụ thuộc vào việc nó được lắp 
ráp bởi một công ty Lào hay Trung Quốc mà 
chỉ phụ thuộc vào giá trị gia tăng được tạo ra 
trên lãnh thổ Lào hoặc sự thay đổi mã số thuế 
quan của thành phẩm so với các linh kiện đầu 
vào4. Trong khi đó, do tính chất của dịch vụ, 
việc xác định xuất xứ dịch vụ sẽ phụ thuộc rất 
nhiều vào quốc tịch của nhà cung ứng. Không 
thể coi việc một luật sư Mỹ tới Lào tư vấn cho 
khách hàng là một dịch vụ có xuất xứ Lào.
Ví dụ này cho thấy, do tính chất của 
dịch vụ, quốc tịch của thương nhân có vai 
trò quan trọng trong việc xây dựng QTXX 
2 Hiệp định chung về thương mại dịch vụ của WTO (GATS) chia các phương thức cung ứng dịch vụ thành 4 loại: 
(1) cung cấp qua biên giới; (2) tiêu dùng ngoài lãnh thổ; (3) hiện diện thương mại; (4) hiện diện thể nhân. Trong 
thực tiễn đàm phán về thương mại dịch vụ, phương thưc (3) và (4) thường gặp nhiều rào cản nhất, trong khi 
phương thức (1) và (2) ít bị hạn chế hơn.
3 Việc phân loại hàng hóa thường căn cứ vào Hệ thống Hài hòa (Harmonized System - HS) của Tổ chức Hải quan 
Thế giới (WCO). Việc phân ngành dịch vụ thường căn cứ vào Danh mục phân loại các ngành dịch vụ (Services 
Sectorial Classification List) của WTO. Ngoài ra còn có hệ thống Phân loại sản phẩm trung tâm của Liên Hợp 
Quốc (Central Product Classification - CPC).
4 Đây cũng là một điểm chưa chặt chẽ của QTXX hàng hóa, chẳng hạn nếu đây là một FTA giữa Việt Nam và Nhật 
Bản, 60% nguyên vật liệu đầu có xuất xứ Trung Quốc; 40% giá trị gia tăng được tạo ra tại Việt Nam. Nếu trong 
40% này có 15% là dịch vụ có xuất xứ Trung Quốc; như vậy thực chất giá trị được tạo ra thật sự có xuất xứ Việt 
Nam chỉ chiếm 25%. Tuy hiện nay vấn đề này chưa được đặt ra nhưng ví dụ này cho thấy mối quan hệ giữa xuất 
xứ dịch vụ và xuất xứ hàng hóa.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
37Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
trong thương mại dịch vụ. Ngoài ra, như đã 
phân tích trên đây, việc xác định xuất xứ 
dịch vụ dựa trên quá trình cung ứng sẽ hết 
sức khó khăn. Vì thế, dựa vào quốc tịch của 
nhà cung ứng để xác định xuất xứ dịch vụ 
có thể là một giải pháp thay thế thuận tiện. 
Nếu nhà cung ứng dịch vụ là thể nhân, việc 
xác định quốc tịch sẽ không quá phức tạp trừ 
trường hợp thể nhân mang nhiều quốc tịch. 
Do GATS và các FTA đều không đề cập tới 
trường hợp này, nhiều khả năng khi nó xảy 
ra, sẽ phải xem xét quy định của luật quốc 
gia. Chẳng hạn, để xác định “quy định pháp 
luật áp dụng đối với người nước ngoài có hai 
hay nhiều quốc tịch”, Khoản 2, Điều 672 Bộ 
luật Dân sự (BLDS) Việt Nam 2015 đưa ra 
tiêu chí “nước mà người đó có quốc tịch và 
cư trú” tại thời điểm phát sinh quan hệ dân 
sự hoặc “nước mà người đó có quốc tịch và 
có quan hệ gắn bó nhất” về quyền và nghĩa 
vụ công dân. Có thể thấy, “quan hệ gắn bó 
nhất” là cụm từ mơ hồ và dễ gây tranh cãi 
khi áp dụng vào thực tiễn.
Khi nhà cung ứng dịch vụ là pháp nhân thì 
vấn đề còn phức tạp hơn. Tuy quốc tịch của 
pháp nhân không phải là vấn đề mới mẻ mà 
từ lâu đã là một nội dung quan trọng trong 
luật pháp quốc tế và quốc gia nhưng cho tới 
nay, chưa có tiêu chí xác định quốc tịch của 
pháp nhân nào được chấp nhận chung trên 
thế giới. Các tiêu chí phổ biến nhất, được 
sử dụng riêng biệt hoặc kết hợp, thường liên 
quan tới nơi thành lập, trụ sở chính, quốc 
tịch của các cổ đông có quyền kiểm soát. 
Theo nghiên cứu của Beviglia-Zampetti và 
Sauvé (2006), trong hệ thống luật pháp có 
nguồn gốc Anh - Mỹ, nơi thành lập là tiêu 
chí chính để xác định quốc tịch của pháp 
nhân. Tiêu chí này bộc lộ hạn chế trong một 
số trường hợp. Chẳng hạn, nó có thể trao 
quốc tịch cho các pháp nhân được thành lập 
ở một nước nhằm trốn thuế hoặc hưởng các 
ưu huệ đặc biệt chứ không hề kinh doanh hay 
có tài sản tại nước đó. Việc treo cờ phương 
tiện trong ngành hàng hải là một ví dụ điển 
hình. Tình trạng lợi dụng tiêu chí này có xu 
hướng gia tăng trong một số ngành dịch vụ 
khác như vận tải hàng không, tài chính, ngân 
hàng và nhất là các dịch vụ được cung ứng 
qua Internet. Vì vậy, việc yêu cầu một pháp 
nhân phải có hoạt động kinh doanh thực chất 
- nghĩa là không chỉ đơn thuần dựa trên nơi 
thành lập và đặt địa chỉ - là một tiêu chí bổ 
sung khá phổ biến.
Trong hệ thống luật Châu Âu lục địa và 
các hệ thống luật chịu ảnh hưởng, tiêu chí 
xác định quốc tịch của pháp nhân thường 
dựa trên nơi diễn ra hoạt động chính (có thể 
trùng với nơi thành lập hoặc không). Song, 
cách hiểu về nơi diễn ra hoạt động chính 
cũng không thống nhất. Trong một số hệ 
thống luật, đó là nơi đưa ra quyết định điều 
hành, quản lý trung ương. Trong một số hệ 
thống luật khác, đó lại là nơi hoạt động sản 
xuất, kinh doanh chính diễn ra hoặc nơi tạo 
ra doanh thu chính. Dù đơn giản hơn nhưng 
cách tiếp cận thứ nhất cũng có thể gây khó 
khăn nếu nơi hội họp của ban lãnh đạo và 
của các cổ đông không trùng nhau.
Tại Việt Nam, Khoản 1, Điều 676, BLDS 
2015 quy định rõ “quốc tịch của pháp nhân 
được xác định theo pháp luật của nước nơi 
pháp nhân thành lập”. Như vậy, hệ thuộc luật 
nơi thành lập sẽ được sử dụng để xác định quốc 
tịch của pháp nhân. Cụ thể hơn, theo Điều 4, 
Luật Doanh nghiệp 2014, doanh nghiệp Việt 
Nam là “doanh nghiệp được thành lập hoặc 
đăng ký thành lập theo pháp luật Việt Nam 
và có trụ sở chính tại Việt Nam” còn tổ chức 
nước ngoài là “tổ chức thành lập ở nước ngoài 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
38 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
theo pháp luật nước ngoài.” Có thể thấy, tiêu 
chí về trụ sở chính chỉ bắt buộc khi xác định 
doanh nghiệp có quốc tịch Việt Nam không; 
tiêu chí này không được đặt ra đối với tổ chức 
nước ngoài. Tuy nhiên, cần chú ý rằng theo 
quy định tại Khoản 3, Điều 676, BLDS 2015, 
khi pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện 
giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực pháp 
luật dân sự của pháp nhân nước ngoài đó được 
xác định theo pháp luật Việt Nam. 
Như vậy, dù quốc tịch của thương nhân có 
thể trở thành một giải pháp thay thế để xác 
định xuất xứ của dịch vụ nhưng quy định của 
các quốc gia hết sức khác biệt, nhất là đối với 
trường hợp thương nhân là pháp nhân. Điều 
này đặt ra yêu cầu đàm phán các tiêu chí có 
tính thống nhất hơn trong khuôn khổ WTO 
cũng như các FTA. 
3. Cách tiếp cận về QTXX dịch vụ trong 
GATS và các FTA
3.1. Cách tiếp cận của GATS
WTO chưa tiến hành xây dựng QTXX 
dịch vụ vì quá trình tự do hóa thương mại 
dịch vụ trong hệ thống thương mại đa biên 
chưa đạt nhiều kết quả. Tuy nhiên, Điều II 
của Hiệp định GATS cho phép các Thành 
viên WTO đăng ký miễn trừ đối với nguyên 
tắc đối xử tối huệ quốc. Để thực hiện các 
miễn trừ này, cần xác định đúng xuất xứ của 
dịch vụ. Cũng cần nhấn mạnh rằng WTO là 
diễn đàn của các nhà nước chứ không phải 
các thương nhân. Vì thế xuất xứ của dịch vụ 
là cơ sở xác định nhà nước nào có quyền và 
nghĩa vụ tham gia vào quá trình giải quyết 
tranh chấp. Hơn nữa, Điều XXVII, GATS 
cho phép một Thành viên từ chối cho dịch vụ 
có xuất xứ từ một nước không thuộc WTO 
hưởng ưu đãi. Do đó, xác định xuất xứ dịch 
vụ vẫn có ý nghĩa quan trọng đối trong việc 
thực thi Hiệp định GATS.
Tuy không sử dụng cụm từ QTXX, nhưng 
các quy định cơ bản liên quan tới xuất xứ được 
thể hiện tại Điều XXVIII(f), GATS. Theo đó, 
khi dịch vụ được cung ứng theo phương thức 
1 và 2, “dịch vụ của một Thành viên khác là 
dịch vụ được cung ứng từ hoặc trong lãnh 
thổ của Thành viên khác đó.” Điều này đồng 
nghĩa với việc quốc gia mà từ đó hoặc tại đó 
dịch vụ được cung cấp sẽ là nước xuất xứ của 
dịch vụ. Quy định này áp dụng ngay cả khi 
quốc gia đó là điểm cuối cùng, ít quan trọng 
nhất trong quá trình cung ứng dịch vụ liên 
quan tới nhiều quốc gia, hoặc chỉ là nơi dịch 
vụ được “bán lẻ” cho khách hàng. Khi dịch 
vụ được cung ứng theo phương thức 3 và 4, 
Điều XXVIII(f) quy định rằng “dịch vụ của 
một Thành viên là dịch vụ được cung ứng bởi 
một nhà cung ứng của Thành viên đó”. Điều 
này có nghĩa là, trong hai phương thức này, 
xuất xứ của dịch vụ sẽ đồng nhất với quốc tịch 
của nhà cung ứng dịch vụ.
Trong trường hợp nhà cung ứng là thể nhân, 
Điều XXVIII(k) của GATS chọn cách tiếp cận 
khá mở, bao gồm cả công dân và người cư 
trú lâu dài tại một quốc gia Thành viên. Đối 
với trường hợp nhà cung ứng là pháp nhân, 
Điều XXVIII(m) quy định pháp nhân của một 
Thành viên phải được thành lập hoặc tổ chức 
theo pháp luật của Thành viên đó và có tiến 
hành các hoạt động kinh doanh thực chất trong 
lãnh thổ của Thành viên đó hay bất kỳ Thành 
viên nào khác. Điều này có nghĩa là quốc gia 
nơi pháp nhân được thành lập vẫn là nước xuất 
xứ của dịch vụ ngay cả khi pháp nhân đó hoạt 
động chủ yếu tại nước thành viên khác. Ngoài 
ra, Điều XXVIII(m) còn quy định nếu pháp 
nhân được thành lập ở một nước thành viên để 
cung ứng dịch vụ (hiện diện thương mại) thì 
nó sẽ mang quốc tịch của thể nhân hoặc pháp 
nhân sở hữu hoặc quản lý nó. Quyền sở hữu 
được xác định dựa trên tiêu chí nắm trên 50% 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
39Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
số tài sản; còn quyền quản lý được xác định 
dựa trên tỷ lệ đa số trong ban giám đốc hoặc 
quyền ra quyết định có tính pháp lý.
3.2. Cách tiếp cận của các FTA
Điều V của GATS quy định về việc các 
Thành viên WTO có quyền đàm phán các thoả 
thuận ưu đãi về thương mại dịch vụ6. Cũng 
giống như trong lĩnh vực thương mại hàng 
hóa, những cam kết sâu hơn về thương mại 
dịch vụ, thường không thể đạt được trong hệ 
thống thương mại đa biên, có thể đạt được 
thông qua việc đàm phán giữa một nhóm các 
quốc gia.
Điều V.6 nêu rõ, nhà cung ứng dịch vụ là 
pháp nhân của bất cứ Thành viên (WTO) nào 
khác, nếu được thành lập theo pháp luật của 
một nước ký kết FTA, cũng sẽ được hưởng 
chế độ đãi ngộ của FTA đó với điều kiện pháp 
nhân này có tiến hành các hoạt động kinh 
doanh thực chất trong lãnh thổ của các bên ký 
kết FTA đó. Khi kết hợp với Điều XXVIII(m), 
có thể thấy quy định này sẽ mở rộng đối tượng 
hưởng ưu đãi của các cam kết về dịch vụ trong 
một FTA. Ngoài các pháp nhân hiển nhiên 
mang quốc tịch của các nước ký kết FTA, các 
pháp nhân (thuộc quyền sở hữu hoặc quản lý) 
của một Thành viên WTO khác (không phải 
là nước ký kết FTA) cũng có thể được hưởng 
lợi. Điều kiện cần đáp ứng là pháp nhân đó 
phải được thành lập theo quy định pháp luật 
của một trong các nước tham gia ký kết FTA 
(chẳng hạn, dưới dạng công ty con) và có hoạt 
động kinh doanh thực chất trong các vùng 
lãnh thổ thuộc FTA đó. 
Do WTO không có quy định gì thêm, 
QTXX dịch vụ trong các FTA thuộc quyền 
quyết định của các quốc gia ký kết FTA. Tuy 
nhiên, đa số các FTA đều không quy định về 
xuất xứ của dịch vụ hoặc nếu có cũng chỉ 
dừng lại ở ngôn ngữ của Hiệp định GATS 
đối với phương thức 1, 2. Theo đó, dịch vụ 
của một thành viên là dịch vụ được cung cấp 
từ hoặc tại lãnh thổ của thành viên đó. Điều 
này đồng nghĩa với việc khi được cung cấp 
qua biên giới hoặc tiêu dùng ngoài lãnh thổ, 
xuất xứ của dịch vụ gắn với nơi cung cấp và 
không phụ thuộc vào quốc tịch của nhà cung 
cấp. Một số hiệp định không đề cập tới vấn đề 
này mà chỉ có các quy định cụ thể liên quan 
tới quốc tịch của nhà cung ứng. Trong số đó, 
điển hình là Hiệp định thương mại tự do Bắc 
Mỹ (NAFTA) hay Hiệp định thương mại tự do 
Hoa Kỳ - Singapore7. 
Khi quốc tịch của nhà cung cấp dịch vụ được 
xem xét, cách tiếp cận của các FTA về cơ bản 
cũng tương tự GATS. Đối với thể nhân, hầu hết 
các hiệp định đều dẫn trở lại luật quốc tịch của 
các quốc gia thành viên FTA và thường kèm 
theo quy định về cư trú. Các FTA cũng không 
đề cập tới vấn đề đa quốc tịch. Đối với pháp 
nhân, các FTA thường chọn cách kết hợp các 
tiêu chí về nơi thành lập, nơi ra quyết định quản 
lý, điều hành, nơi hoạt động chính 
6 Điều V, GATS sử dụng cụm từ “thỏa thuận tự do hóa thương mại dịch vụ” nhưng trong thực tiễn có rất ít thỏa 
thuận riêng về thương mại dịch vụ, chủ yếu nội dung tự do hóa thương mại dịch vụ được bao hàm trong các thỏa 
thuận thương mại ưu đãi. Tại Việt Nam, các thỏa thuận thương mại ưu đãi thường được gọi chung là FTA, nên 
tác giả sẽ sử dụng thuật ngữ này dù nó không thật sự chính xác. Bởi lẽ, FTA là thuật ngữ để chỉ các thỏa thuận 
ưu đãi về thương mại hàng hóa theo Điều XXIV, GATT. Trên thế giới, để gọi các thỏa thuận thương mại ưu đãi 
(có phạm vi rộng hơn thương mại hàng hóa), kể cả các liên minh thuế quan, các học giả có xu hướng dùng thuật 
ngữ Preferential Trade Agreement (PTA). Thực tế, nhiều thỏa thuận ưu đãi, chẳng hạn Hiệp định đối tác xuyên 
Thái Bình Dương (TPP), không có cụm từ “hiệp định thương mại tự do” trong tên gọi; vì thế gọi TPP là PTA sẽ 
chính xác hơn FTA.
7 Hai hiệp định này có mô hình khác với GATS, trong đó phần thương mại dịch vụ chỉ liên quan tới các phương 
thức 1, 2, 4; còn quy định về phương thức 3 thuộc về phần đầu tư.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
40 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 79 (01/2016)
Trong NAFTA, để được hưởng ưu đãi, 
pháp nhân cung cấp dịch vụ hay chi nhánh 
của nó phải được thành lập theo pháp luật 
của một nước thành viên. Không có yêu cầu 
bắt buộc quyền sở hữu hay quản lý phải nằm 
trong NAFTA, tuy nhiên nếu quyền sở hữu 
hay quản lý bởi các thể nhân hoặc pháp nhân 
có quốc tịch bên ngoài khối NAFTA thì ưu 
đãi sẽ bị từ chối nếu pháp nhân không có hoạt 
động thực chất tại quốc gia NAFTA nơi nó 
đăng ký thành lập. Tương tự, Hiệp định đối 
tác kinh tế Singapore - Nhật Bản sẽ chấp nhận 
một pháp nhân được thành lập tại một trong 
hai nước thành viên, dù chủ sở hữu hay quản 
lý có quốc tịch thuộc quốc gia khác, nhưng có 
hoạt động thực chất tại đây. Sự khác biệt của 
hai cách quy định này nằm ở chỗ quy định về 
hoạt động thực chất là điều kiện cho hưởng ưu 
đãi hay điều kiện loại trừ ưu đãi. Nhiều FTA 
khác cũng chọn cách quy định này vì nó phù 
hợp với Điều V.6 của Hiệp định GATS.
Cá biệt, Hiệp định thương mại tự do 
Singapore - Australia chỉ yêu cầu pháp nhân 
được thành lập và hoạt động theo quy định 
pháp luật của một trong hai nước thành viên 
mà không có ràng buộc nào khác. Quy định 
này thông thoáng hơn quy định của GATS.
Nhìn chung cách tiếp cận của các FTA khá 
thống nhất với GATS. Quốc tịch của nhà cung 
cấp dịch vụ là thể nhân sẽ do luật quốc tịch 
của các quốc gia điều chỉnh. Quốc tịch của các 
nhà cung cấp dịch vụ là pháp nhân thường dựa 
trên nhiều yếu tố kết hợp với nhau. Tùy từng 
cách kết hợp sẽ đem lại mức độ khắt khe hay 
thông thoáng khác nhau. Các quy định hiện 
hành trong GATS cũng như các FTA chủ yếu 
chỉ dừng lại ở việc dùng điều kiện về nhà cung 
ứng để quyết định quyền được hưởng ưu đãi 
của dịch vụ. Quy định về xuất xứ cho bản thân 
dịch vụ chỉ được đề cập riêng cho phương 
thức cung ứng dịch vụ 1 và 2, song cũng tồn 
tại rất nhiều bất cập.
4. Kết luận
Có thể thấy, trong WTO cũng như các FTA, 
thực chất vẫn chưa có các QTXX cho dịch vụ. 
Các quy định hiện hành vẫn chủ yếu dựa trên 
cách tiếp cận của hiệp định GATS (đã ra đời 
cách đây 20 năm). Theo đó, xuất xứ của dịch 
vụ sẽ dựa trên địa điểm cung ứng với phương 
thức 1, 2 và dựa trên quốc tịch của nhà cung 
ứng với phương thức 3, 4.
Cách quy định rằng khi dịch vụ được cung 
ứng qua biên giới hoặc tiêu dùng ngoài lãnh 
thổ, xuất xứ của nó là quốc gia mà tại đó hoặc 
từ đó nó được cung cấp tuy đơn giản nhưng 
lại không phù hợp với thực tiễn phát triển của 
thương mại dịch vụ hiện đại. Cùng với sự phát 
triển của thương mại điện tử và các giao dịch 
qua mạng Internet, khái niệm tại hay từ một 
khu vực lãnh thổ không còn dễ dàng xác định 
nữa. Một công ty bảo hiểm Đức có trung tâm 
liên lạc đặt ở Thụy Sĩ bán một đơn bảo hiểm 
qua mạng cho một khách hàng ở Canada thông 
qua chi nhánh đặt ở Mỹ. Đó là một thí dụ điển 
hình về sự bất cập của quy định hiện hành khi 
cần xác định xuất xứ của dịch vụ được cung 
cấp qua biên giới. Để đối phó với sự bất cập 
này, có thể các chính phủ sẽ tạo ra rào cản đối 
với các giao dịch qua biên giới nhằm chuyển 
chúng sang phương thức 3 hoặc 4. 
Khi dịch vụ được cung ứng thông qua hiện 
diện thương mại hoặc hiện diện thể nhân, 
quốc tịch của nhà cung cấp dịch vụ sẽ được 
xem xét. Trong các tiêu chí xem xét quốc tịch 
của nhà cung cấp dịch vụ là pháp nhân, tiêu 
chí về nơi thành lập là đơn giản nhất và ít ràng 
buộc nhất. Tiêu chí về nơi hoạt động chính 
cũng không khó xác định. Tuy nhiên, nếu nơi 
hoạt động chính được hiểu là nơi ra quyết định 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
41Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 79 (01/2016)
quản lý, điều hành trung ương thì nhiều pháp 
nhân (là công ty con hoặc chi nhánh) sẽ không 
được hưởng ưu đãi do phải mang quốc tịch của 
pháp nhân mẹ. Nếu nơi hoạt động chính được 
hiểu là nơi có hoạt động kinh doanh chính thì 
vấn đề trên sẽ được khắc phục, đồng thời cũng 
loại trừ được khả năng các pháp nhân chỉ đăng 
ký địa điểm để liên lạc hoặc tính thuế. Tuy 
nhiên, “nơi có hoạt động kinh doanh chính” 
sẽ không phản ánh đúng một số dịch vụ đặc 
thù (như phân tích, xử lý dữ liệu) vì có thể 
hoạt động phân tích, xử lý diễn ra tại Mỹ còn 
nơi dịch vụ được cung ứng cho khách hàng 
(theo phương thức hiện diện thương mại) là 
Việt Nam. Rõ ràng, trong trường hợp này, nơi 
diễn ra hoạt động kinh doanh lại không quan 
trọng bằng nơi dịch vụ được “sinh ra”.
Tiêu chí đòi hỏi quyền sở hữu hoặc quản lý 
phải thuộc một trong các nước thành viên FTA 
là tiêu chí khắt khe nhất vì nó gần như loại 
bỏ các pháp nhân bên ngoài ra khỏi đối tượng 
được hưởng ưu đãi. Chưa kể các thuật ngữ 
như quyền sở hữu, quyền quản lý lại đòi hỏi 
việc xem xét các quy định chi tiết trước khi 
có thể đi đến kết luận. Tuy vậy, trong GATS 
cũng như trong các FTA, tiêu chí này hầu như 
không được sử dụng.
Việc sắp xếp theo mức độ khắt khe sẽ trở 
nên phức tạp hơn khi các tiêu chí được kết hợp 
với nhau để tạo ra các điều kiện chấp nhận 
hoặc từ chối cho hưởng ưu đãi. Nhìn chung 
các tiêu chí khắt khe sẽ được áp dụng nếu các 
bên ký kết FTA muốn các dịch vụ hoặc nhà 
cung cấp dịch vụ có mối liên hệ chặt chẽ với 
các thành viên được hưởng lợi. Ngược lại, khi 
các bên muốn mở rộng đối tượng áp dụng của 
hiệp định, hạn chế hiệu ứng chuyển hướng 
thương mại và thu hút đầu tư, cách tiếp cận ít 
khắt khe hơn sẽ được áp dụng. Cũng nên lưu 
ý rằng trong một nền kinh tế mở, việc thu hút 
được dịch vụ từ các nhà cung ứng tốt thường 
sẽ hỗ trợ cho nền kinh tế. Vì vậy các tiêu chí 
có xu hướng thu hẹp phạm vi ưu đãi không 
phải là một lựa chọn có lợi ích dài hạn, giống 
như mọi biện pháp bảo hộ nói chung.
Tóm lại, QTXX đối với dịch vụ hiện hành 
mới chỉ là những khái niệm hết sức sơ khai, 
chưa đủ để đáp ứng mục tiêu về chính sách 
của các quốc gia cũng như phản ánh được 
dòng chảy của thương mại dịch vụ hiện đại. 
Mối quan hệ giữa xuất xứ dịch vụ và xuất xứ 
hàng hóa, việc xây dựng QTXX dịch vụ dựa 
trên bản thân dịch vụ là các vấn đề đòi hỏi 
sự hoàn thiện hơn nữa trong tương lai. Đây là 
nhiệm vụ đặt ra với các chính phủ và các học 
giả nhằm củng cố và thúc đẩy sự phát triển 
thương mại dịch vụ.q 
Tài liệu tham khảo
1. WTO, 1994, Hiệp định chung về Thương mại dịch vụ (GATS).
2. Beviglia-Zampetti, A. & Sauvé, P., 2006, Rules of Origin for Services: Economic and Legal Consider-
ations, in O. Cadot et al. (eds), The Origin of Goods: Rules of Origin in Regional Trade Agreements.
3. Hoekmann, B., 1993, Rules of Origin for Goods and Services: Conceptual Issues and Economic Consid-
erations, Journal of World Trade 27 (4).
4. Wang, H., 2010, Origin Rules for Services and the Defects: Substantial Input Test as One Way Out?, Jour-
nal of World Trade 44 (5).
5. 
6. https://www.nafta-sec-alena.org/Home/Legal-Texts/North-American-Free-Trade-Agreement

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_ve_quy_tac_xuat_xu_trong_thuong_mai_dich_vu.pdf