Tìm hiểu văn hóa chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối liên hệ giữa con người với cộng đồng dân tộc Việt Nam

Nghiên cứu Văn hóa chính trị của Hồ Chí

Minh là đề cập đến các mặt: Tri thức, niềm tin

và sự thuyết phục về chính trị; tình cảm đạo

đức trong hoạt động chính trị; những phương

tiện, chuẩn mực, tổ chức vận hành bộ máy

quyền lực mà Hồ Chí Minh kiến tạo; những

truyền thống chính trị kết tinh trong nhân cách

chính trị Hồ Chí Minh; cũng như sự trung

thành và bổ sung của Hồ Chí Minh vào Hệ tư

tưởng Mác - Lênin. Văn hóa chính trị của Người

đã, đang và sẽ soi sáng, tác động, ảnh hưởng

đến việc vận dụng, thực thi quyền lực chính trị

của cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính trị

nước ta.

pdf 5 trang kimcuc 3060
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu văn hóa chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối liên hệ giữa con người với cộng đồng dân tộc Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu văn hóa chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối liên hệ giữa con người với cộng đồng dân tộc Việt Nam

Tìm hiểu văn hóa chính trị của chủ tịch Hồ Chí Minh trong mối liên hệ giữa con người với cộng đồng dân tộc Việt Nam
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
 202
TÌM HIỂU VĂN HÓA CHÍNH TRỊ CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 
TRONG MỐI LIÊN HỆ GIỮA CON NGƯỜI VỚI CỘNG ĐỒNG 
DÂN TỘC VIỆT NAM 
ThS. Nguyễn Thành Đạo 
Khoa lý luận chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung 
Tóm tắt 
Nghiên cứu Văn hóa chính trị của Hồ Chí 
Minh là đề cập đến các mặt: Tri thức, niềm tin 
và sự thuyết phục về chính trị; tình cảm đạo 
đức trong hoạt động chính trị; những phương 
tiện, chuẩn mực, tổ chức vận hành bộ máy 
quyền lực mà Hồ Chí Minh kiến tạo; những 
truyền thống chính trị kết tinh trong nhân cách 
chính trị Hồ Chí Minh; cũng như sự trung 
thành và bổ sung của Hồ Chí Minh vào Hệ tư 
tưởng Mác - Lênin. Văn hóa chính trị của Người 
đã, đang và sẽ soi sáng, tác động, ảnh hưởng 
đến việc vận dụng, thực thi quyền lực chính trị 
của cá nhân, tổ chức trong hệ thống chính trị 
nước ta. 
Từ khoá 
Văn hoá chính trị. 
1. Tri thức chính trị của Chủ tịch Hồ 
Chí Minh 
Với Hồ Chí Minh, tri thức chính trị, 
hiểu biết chính trị thông qua 2 con đường: 
được học, tự học lý luận chính trị và trải 
nghiệm, nếm trải chính trị qua thực tiễn 
hoạt động cách mạng. Ngoài kiến thức học 
các nhà nho ở quê; học các thầy Việt Pháp 
ở Quốc Học Huế và một ít năm học đại học 
Phương Đông, Hồ Chí Minh chủ yếu tự 
học. Người tự học nhiều ngoại ngữ, đọc rất 
chăm các loại sách, nhất là sách chính trị. 
Cho nên tri thức lý luận chính trị của Người 
rất rộng sâu, thẩm thấu các giá trị chính trị 
Đông Tây, đã hấp thụ và phát huy tốt tinh 
hoa lý luận chính trị của nhân loại. 
Trên thế giới, ít có lãnh tụ cách 
mạng nào đi nhiều, thấy nhiều, nếm trải 
thu thập kinh nghiệm chính trị nhiều như 
Hồ Chí Minh. Người thấy được bản chất 
của thực dân đế quốc ở cả chính quốc lẫn 
thuộc địa. Hồ Chí Minh có 5 Đảng tịch, 
xuất hiện và hoạt động trên nhiều địa bàn 
chính trị khác nhau: Tham gia thành lập 
Đảng Cộng sản Pháp, tham gia hoạt động 
báo chí ở Châu Âu, làm đại biểu Hội nông 
dân quốc tế, phụ trách Ban phương Đông 
của Quốc tế cộng sản; xuất hiện ở Trung 
Quốc với tư cách là nhà tư tưởng, huấn 
luyện đào tạo Chủ nghĩa Mác cho thanh 
niên Việt Nam. Rồi bị bắt tù đày, suýt bị 
tử hình, bị truy nã. Đau khổ hơn, có lúc 
Bác bị những người cùng giai cấp, đồng 
chí hiểu sai vì những tư tưởng vượt trước 
của mình. Hồ Chí Minh từng có những 
ngày vất vả bên Lào, Thái, Trung Quốc. 
Khi giả nhà sư, khi làm thầu khoán, thầy 
địa lý, tham gia cách mạng Trung Quốc 
(từ năm 1938 đến 1941) với hàm thiếu tá, 
trở về Tổ quốc đẩy mạnh phong trào cách 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
 203
mạng, 1942 - 1943 bị bọn Tưởng Giới 
Thạch bắt giam. Ra tù, lại về nước chỉ đạo 
cách mạng tháng Tám thành công, rồi tiếp 
tục cùng dân tộc tham gia chống Pháp 9 
năm, lãnh đạo sự nghiệp chống Mỹ thắng 
lợi. Hơn 30 năm xa tổ quốc, 35 năm xa 
nhà, sự hiểu biết chính trị cả phương 
diện lý luận lẫn thực tiễn của Người hết 
sức sâu sắc, uyên thâm. 
Mỗi chặng đường hoạt động của 
Người luôn gắn bó, ảnh hưởng đến sự 
thăng trầm, thành công của dân tộc. Sự 
hiểu biết về chính trị là tiêu chí văn hóa 
chính trị đầu tiên, quan trọng, ảnh hưởng 
đến sự nghiệp chính trị của Người và từ 
đó lan tỏa đến cộng đồng. Ở Hồ Chí Minh, 
tri thức lý luận, tri thức kinh nghiệm 
chính trị thống nhất hữu cơ. Nguyên tắc 
lớn trong hoạt động chính trị của Người là 
lời nói đi đôi với việc làm. Với tri thức như 
vậy, Người đã xử lý tình huống phức tạp 
có hiệu quả. Tri thức chính trị của Người 
được lan tỏa, trao truyền, hòa nhập vào 
cộng đồng dân tộc Việt Nam (thời đại Hồ 
Chí Minh), biến giá trị cá nhân thành sức 
mạnh cộng đồng to lớn. Người và dân tộc 
Việt Nam thăng hoa thành một: Việt Nam 
- Hồ chí Minh. Điều đó giải thích câu hỏi 
vì sao có sự tập hợp xung quanh Người, 
từ tướng tá, nhân sĩ, chiến sĩ, nhân dân 
lao động, mọi ngành mọi giới luôn nói và 
làm theo ý nguyện của Người một cách 
tự giác. 
2. Niềm tin, sự thuyết phục về chính 
trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh 
Ở Hồ Chí Minh, yếu tố thứ hai của 
văn hóa chính trị rất rất rõ nét, rất đặc 
sắc, tiêu biểu. Niềm tin, sự thuyết phục về 
chính trị của Người được hình thành từ hai 
cấp độ. Đi từ nhận thức cảm tính đến 
nhận thức lý tính. Năm 1911, Hồ Chí Minh 
ra đi mang tâm thế của người tìm chân lý, 
người tìm lẽ sống, mang theo nỗi u hoài 
về nhục mất nước và với hy vọng thu thập 
tư liệu chính trị bằng trực quan của người 
yêu nước. Từ năm 1911 đến năm 1919, 
niềm tin chính trị còn chưa định hình. 
Năm 1920, khi bắt gặp luận cương sơ 
thảo về vấn đề dân tộc và thuộc địa, thì 
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh niềm tin 
và sự thuyết phục về chính trị đã hình 
thành, củng cố, phát triển, lan tỏa. Người 
tin vào sức mạnh tổng hợp của đại đoàn 
kết dân tộc, của chiến tranh nhân dân, tin 
vào tiền đồ tươi sáng của cách mạng Việt 
Nam, Chính nhờ niềm tin to lớn mà Hồ 
Chí Minh đã vượt qua những thử thách 
hiểm nghèo, nếm trải gian nan (tù tội, bị 
hiểu lầm, gian nan trong đời sống chính 
trị). Như vậy, niềm tin chính trị, sự thuyết 
phục về chính trị mà Hồ Chí Minh có được 
(từ 1920 trở về sau) là kết quả của một 
nhận thức đúng đắn sâu sắc về lý tưởng 
chính trị đã lựa chọn, nó mang tính ổn 
định và vững chắc ngay cả khi tình huống 
chính trị không được thuận chiều. Niềm 
tin, sự thuyết phục về chính trị từ Hồ Chí 
Minh được phổ biến, ăn sâu trong đại bộ 
phận quần chúng. Hồ Chí Minh và dân tộc 
Việt Nam làm thành một khối niềm tin 
vững chắc về con đường đi lên, phát triển 
của dân tộc. Khối niềm tin cá nhân - cộng 
đồng, quyện chặt đó, làm chùn bước, làm 
thất bại các thế lực lớn của thế kỷ 20: hạ 
bệ phong kiến Việt Nam, đánh cho Pháp 
hàng, Mỹ cút nhục nhã. Những người nước 
ngoài lấy làm lạ tại sao Việt Nam nhỏ bé 
lại hạ gục những hung nô của thế kỷ? 
Bởi lẽ đơn giản: Đảng Cộng sản Việt 
Nam do Hồ Chí Minh sáng lập và rèn 
luyện. Dưới sự lãnh đạo của Người, bằng 
cái tâm cái tài của Hồ Chí Minh - Đảng 
Cộng sản Việt Nam thành Đảng Việt Nam. 
Từ chiến tranh sang thời bình, điều quan 
trọng của Đảng cầm quyền nước ta là phải 
duy trì củng cố niềm tin, sự thuyết phục 
về chính trị trong Đảng, nhà nước và 
trong quảng đại quần chúng - điều mà Hồ 
Chí Minh hằng tâm niệm và dày công xây 
đắp. Như vậy văn hóa chính trị là niềm tin 
vào chính trị đúng, khoa học, chính nghĩa, 
nhân bản. Những cái đó Hồ Chí Minh luôn 
tâm niệm, theo đuổi, thực thi, củng cố. 
Trong thời kỳ kinh tế thị trường, cái sợ 
nhất là mất niềm tin của quần chúng, sự 
lãnh đạm của quần chúng. Văn hóa chính 
trị của Hồ Chí Minh giúp đỡ chúng ta đi 
đúng hướng. Chúng ta những mong lòng 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
 204
dân ý Đảng luôn hòa quyện như câu thơ 
Tố Hữu đã viết: “Đảng ta đó trăm tay 
nghìn mắt, Đảng ta đây xương sắt da 
đồng. Đảng ta muôn vạn công nông, Đảng 
ta muôn vạn tấm lòng niềm tin!” 
3. Các truyền thống của dân tộc kết 
tinh trong nhân cách chính trị của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh 
Những truyền thống quý báu của 
dân tộc được kết tinh lại thành văn hóa 
tinh thần. Là bộ phận của truyến thống, 
văn hóa nói chung, truyền thống chính trị 
của dân tộc ta có nhiều nét đặc sắc mà 
con người chính trị, danh nhân văn hóa 
Hồ Chí Minh đã thấm nhuần và phát huy 
ở tầm cao mới. Đây là mối liên hệ giữa 
Hồ Chí Minh với cộng đồng theo hai 
chiều: tiếp nhận kết tinh và phát huy ở 
tầm cao mới. Sau đây là một số truyền 
thống tiêu biểu: 
- Truyền thống bảo vệ chủ quyền lãnh 
thổ, ý thức bảo vệ chủ quyền dân tộc, 
chống ngoại xâm để giành giữ chủ 
quyền dân tộc. 
Đây là nét văn hóa đặc sắc của dân 
tộc Việt Nam. Truyền thống này bắt đầu 
được hình thành từ nhà nước Văn lang, 
thời của các Vua Hùng. Sự ra đời của một 
nhà nước Văn Lang cũng là sự khẳng định 
chủ quyền một lãnh thổ có sự riêng biệt 
về bờ cõi, sông núi, phong tục, tập quán 
của một nền văn hóa đã định hình. Qua 
hơn 1000 năm Bắc thuộc Bà Trưng, Bà 
Triệu, Lý Nam Đế, Phùng Hưng, Triệu 
Quang Phục, Ngô Quyền nối nhau khởi 
nghĩa. Thời độc lập, tự chủ xây dựng nhà 
nước phong kiến của ta, các triều đại 
phong kiến phương Bắc xâm chiếm liên 
tục, đã có Đinh, Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, 
Nguyễn đứng lên giành độc lập, mở 
mang bờ cõi. Hồ Chí Minh cùng với toàn 
dân đánh đổ ngai vàng phong kiến, đuổi 
Pháp, Nhật, Mỹ, cũng vì độc lập chủ 
quyền thống nhất đất nước. Tại đền Hùng, 
trước toàn quân, người đã nói: “Các vua 
Hùng đã có công dựng nước, ngày nay 
Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước”. 
Năm 1960, Người từng tỏ rõ quyết tâm 
thống nhất nước nhà: “Nước Việt Nam là 
một, dân tộc Việt Nam là một, sông có thể 
cạn, núi có thể mòn, song chân lý ấy 
không bao giờ thay đổi”. Ý thức chủ quyền 
dân tộc, quyết tâm giành độc lập dân tộc 
được Hồ Chí Minh và nhân dân của Người 
thực hiện trong không gian, thời gian mới, 
điều kiện mới, với sự sáng tạo mới, quốc 
tế hóa nó lên. Hồ Chí Minh học ở nhà Trần 
“Khoan thư sức dân”, học ở Nguyễn Trãi 
cách đánh tâm công, vừa đánh vừa đàm 
phán. Hơn tiền nhân, Hồ Chí Minh đã kết 
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của 
thời đại, đoàn kết các lực lượng trong 
ngoài nước, nên tạo ra súc mạnh vô địch, 
chống lại những tên đế quốc có sức hủy 
diệt lớn, tạo ra những giá trị mang tầm 
thời đại, hướng cái nhìn của lương tri nhân 
loại vào Việt Nam. Đó là sự “vượt gộp” 
của Hồ Chí Minh và cộng đồng dân tộc của 
Người - so với tiền nhân. 
- Truyền thống chống nô dịch văn 
hóa, xem trọng văn hóa: 
Việt Nam từng bị Hán hóa và chống 
Hán hóa, sau hơn 1000 năm, giặc phương 
Bắc cố tình nô dịch văn hóa, nhưng dân 
tộc Việt Nam vẫn tồn tại. Trong nhiều thế 
kỷ, người Việt Nam lặng lẽ học tập chữ 
viết, học tập các triết thuyết, đạo đức 
chính trị của người Trung Quốc để trang bị 
trí khôn cho hành trang chính trị của 
mình. Học của kẻ thù để chống lại nó, vừa 
học vừa cải tạo văn hóa của người ta 
thành vốn văn hóa riêng của mình. Ví dụ 
như lấy chữ Hán hình thành chữ Nôm cho 
dân tộc. Đó là nét độc đáo của bản sắc 
dân tộc ta. Sau này ta có phong trào 
Đông kinh nghĩa thục, phong trào Duy Tân 
chấn hưng văn hóa dân tộc, chống thiển 
cận và văn hóa lai căng. Dân tộc ta vừa 
tiếp tục học văn hóa phương Tây, vừa 
chống nô dịch văn hóa, áp đặt văn hóa 
suốt một thế kỷ. Hồ Chí Minh kế thừa 
truyền thống này rất sâu sắc. Người lưu ý 
mọi người: “Dân ta phải biết sử ta, cho 
tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. Trong 
tuyên ngôn độc lập, người tố cáo thực dân 
Pháp đã xây nhà tù nhiều hơn trường học 
thực hiện chính sách ngu dân để trị. Người 
cho rằng, dân tộc dốt là dân tộc hèn, nên 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
 205
nhiệm vụ đầu tiên của chính phủ mới là 
chống giặc dốt. Dưới sự quan tâm và chỉ 
đạo của Người, toàn dân hưởng ứng xóa 
dốt tạo thành trào lưu học tập toàn dân 
chưa từng thấy trước đó. Người và Đảng 
ta suốt hơn 70 chục năm qua, ngoài 
nhiệm vụ giải phóng dân tộc ra, đã hết 
lòng, hết sức xây dựng nền văn hóa mới. 
Từ đề cương văn hóa 1943 đến nghị quyết 
TW 5 khóa VIII, 1998, là thực hiện chỉ 
đạo và ý nguyện của Người về xây dựng 
văn hóa Việt Nam. Tâm ý của Người và 
Đảng ta, được cộng đồng dân tộc hưởng 
ứng nhiệt tình và diện mạo văn hóa nước 
ta ngày càng khởi sắc. Nét đáng trân 
trọng của Hồ Chí Minh là: mặc dù công 
tác, học tập, sống ở nước ngoài nhiều, 
nhưng Người yêu ngôn ngữ, làn điệu âm 
nhạc quê nhà, quý trọng danh nhân văn 
hóa, chính trị cũng như di tích lịch sử của 
nước nhà. 
- Truyền thống xem khối cộng đồng 
làng xã Việt Nam vừa là pháo đài 
chống giặc vừa lưu trữ văn hóa: 
Tính cộng đồng vốn là đặc điểm nổi 
bật của làng xóm Việt Nam. Cùng đắp 
hàng vạn cây số đê, cùng chắn bão giông, 
cùng chống kẻ thù, nên cố kết cộng 
đồng là điều tất yếu. Quốc gia Việt Nam là 
liên minh làng xã. Nhiều lúc ta mất nước, 
nhờ có làng, từ đó lấy lại nước. Làng là 
đơn vị sản xuất, chiến đấu, là nơi lưu giữ, 
củng cố những truyền thống, cội nguồn 
tình cảm trong tâm hồn người Việt. Chủ 
tịch Hồ Chí Minh rất hiểu truyền thống độc 
đáo này, vì Người cũng sinh ra từ làng, 
làng Sen. Trong thời kỳ kháng chiến 
chống Pháp, cơ quan trung ương phải di 
dời thường xuyên, ở đâu Người cũng có 
phương châm: Sống gần dân (Làng, Bản), 
xa đường. Theo Bác, không đâu an toàn 
bằng lòng dân. Chủ trương bám đất, giữ 
làng, đánh du kích do kế thừa truyền 
thống xưa mà ra. Những mô hình tốt 
trong sản xuất, chiến đấu cũng từ làng 
phát động thành phong trào chung. 
- Truyền thống người Việt Nam không 
tôn sùng đến mê muội một thứ triết 
thuyết nào: 
Nho, Phật, Lão vào Việt Nam, được 
Việt hóa, khúc xạ, trong tâm thức của 
người Việt, trở thành những giá trị phục 
vụ người Việt , rồi người Việt đến thế kỷ 
19 đầu thế kỷ 20, xếp chúng vào một góc 
tiếp xúc văn hóa chính trị phương tây, văn 
hóa chính trị Đông Âu, văn minh nước 
Mỹ, các thứ đều được sàng lọc, bởi bản 
sắc văn hóa Việt Nam như thứ than hoạt 
tính có thể phòng độc, lắng lọc những cặn 
bả, để lưu giữ lại những giá trị để giữ lại 
cho mình. Hồ Chí Minh là đại diện tích cực 
truyền thống này. Người học rất nhiều, 
đọc rất nhiều, nhưng không tôn sùng đến 
mê muội bất kể học thuyết nào. Hồ Chí 
Minh sáng tạo vận dụng và bổ sung, nâng 
chủ nghĩa Mác lên tầm cao thời đại, chứ 
không bê nguyên xi rơi vào giáo điều. 
- Truyền thống dễ can dự vào công 
việc chính trị của người Việt Nam: 
Người Việt từng có Trần Quốc Toản 
bóp cam ở ngoài Hội nghị Diên Hồng, có 
anh lái than Trần Khánh Dư đọc thơ gần 
Hội nghị Bình Than, có phụ nữ yêu nước: 
giặc đến nhà là “đàn bà cũng đánh”. Do 
ảnh hưởng truyền thống ấy Bác Hồ từ nhỏ 
đã quan tâm đến những từ “tự do bình 
đẳng bác ái,” tham gia chống sưu thuế tại 
Trung kỳ. Khi ra nước ngoài Bác vừa hoạt 
động vì cách mạng Việt Nam nhưng cũng 
tham gia vào nhiều công việc của nước 
bạn: tham gia thành lập Đảng cộng sản 
Pháp; thiếu tá Hồ Quang trong quân đội 
“Bát lộ quân”, tham gia phòng chính trị 
của Đệ tứ chiến khu sau khi ra tù 1943. 
Bác nâng truyền thống Hội nghị Diên 
Hồng lên thành Đại hội quốc dân Tân Trào 
để giành độc lập, Bác thành lập mặt trận 
“Liên Việt”, “Mặt trận Việt Minh”, “Mặt 
trận giải phóng miền Nam” để tập trung 
trí tuệ, sức mạnh dân tộc, Bác thăm già, 
hỏi trẻ, đi vi hành để xem dân tình; 
thường xuyên tiếp xúc với các giới các 
ngành. Người có thể cảm hóa nhiều lực 
lượng thù địch đi theo chính nghĩa của 
mình. Sau Cách mạng tháng Tám, chính 
phủ ta từng có đa đảng phái tham chính, 
nhưng dưới sự lãnh đạo của Người, vẫn 
nhất nguyên về chính trị. Nhiều người tài 
 Thông báo Khoa học và Công nghệ Information of Science and Technology 
 Số 2/2016 No. 2/2016 
 206
giỏi không phải là đảng viên, nhưng Bác 
vẫn tin dùng như: Huỳnh Thúc Kháng, 
Nguyễn Văn Huyên, Phan Kế Toại. 
- Truyền thống không cam chịu nhục; 
khoan dung với kẻ thù bại trận: 
Do không cam chịu nhục mất nước, 
nên người Việt đã bao lần đứng lên, đổ 
máu vì nước, vì hạnh phúc của mình. Thời 
hai Bà Trưng, có những người bị đóng dấu 
vào trán vì không nộp đủ thuế, họ lấy sắt 
nung đỏ hơn xóa dấu. Trần Bình Trọng 
từng thét vào vào mặt quân thù: “Ta thà 
làm quỷ nước Nam còn hơn làm Vương 
đất Bắc!”. Lúc vận mệnh Tổ quốc ngàn 
cân treo sợi tóc, Hồ Chí Minh cũng kiên 
quyết không kém tiền nhân. “Không, 
chúng ta thà hy sinh tất cả, không chịu 
nhục mất nước”. Tù đày gian khổ không 
chịu khuất phục Hồ Chí Minh và đồng chí 
của Người. Thế hệ sau của Người cũng 
quyết chí không cam chịu đói nghèo, tụt 
hậu. Thời trước, nước ta từng có Nguyễn 
Trãi, Quang Trung, khi thắng giặc xong, 
khép quá khứ, cấp lương thực ngựa xe 
cho chúng về nước, dâng biểu xin hòa, 
thậm chí trải thảm đỏ mời kẻ thù hợp tác 
giao hảo Hồ Chí Minh kế thừa truyền 
thống đó: đối xử rất tốt đối với tù binh 
Pháp, giặc lái Mỹ. Những người tù sau này 
trở về nước làm những chức vụ lớn (như 
John Kerry, Peterson,) vẫn còn nhớ 
những người cộng sản và nhân dân Việt 
Nam cao thượng. 
- Truyền thống nêu cao pháp luật trị 
nước: 
Noi gương Chu Văn An, Mạc Đỉnh 
Chi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Văn Thịnh và 
tinh thần nêu cao pháp luật trị nước của 
ông cha ta, Hồ Chí MInh kết hợp nhuần 
nhuyễn giữa Đức trị và Pháp trị: có tình 
và có lý trong thực thi pháp luật. Qua vụ 
án Nguyễn Tường Tam, Trần Dụ Châu và 
sử dụng Trần Lâm (người được coi là “bao 
công” của Việt Nam dân chủ cộng hòa) ta 
thấy Bác đã kế thừa và cách tân tinh thần 
nêu cao pháp luật trị nước. Hơn thế nữa, 
Bác mở đầu nền dân chủ ở nước ta và 
muốn xây dựng nền dân chủ pháp quyền 
xã hội chủ nghĩa - cái mà hiện nay chúng 
ta cố gắng thực hiện. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Tập bài giảng chính trị học, 2002. Học viện chính trị quốc gia Hà Nội Hồ Chí Minh, NXB Lý 
Luận, Hà Nội. 
[2]. Thơ Tố Hữu, 2008. NXB Văn Hóa Sài Gòn. 
[3]. PGS.TS. Hoàng Trang, 2008. Hỏi đáp Tư tưởng Hồ Chí Minh, NXB Đại học quốc gia Hà Nội. 
[4]. Mai Thúc Luân, 2003. Văn Hóa và thời đại, NXB Văn nghệ thành phố Hồ Chí Minh. 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_van_hoa_chinh_tri_cua_chu_tich_ho_chi_minh_trong_mo.pdf