Tìm hiểu nhận thức của các nhà tâm lý trị liệu Việt Nam về liệu pháp chú tâm

Chú tâm là một liệu pháp thu hút nhiều sự chú ý của những nhà nghiên cứu và nhà tâm lý, đặc biệt là ở các nước

phương Tây. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng, phương pháp trị liệu chú tâm này mang lại

nhiều thay đổi tích cực cho các bệnh nhân có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Một liệu pháp trị liệu còn khá mới mẻ

nhưng có nhiều nét tương đồng, gần gũi với một trong những tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam - Phật giáo có thể hứa

hẹn là một công cụ hữu hiệu nhằm cải thiện tình trạng rối loạn tâm lý của thân chủ trong quá trình trị liệu. Bởi vậy,

nghiên cứu tìm hiểu nhận thức của các nhà trị liệu tâm lý Việt Nam về liệu pháp chú tâm thông qua thực hiện bảng

hỏi trên 116 nhà tâm lý và phỏng vấn chuyên sâu 3 nhà tâm lý có kinh nghiệm thực hành liệu pháp chú tâm. Kết quả

cho thấy, phần lớn các nhà tâm lý đều biết đến liệu pháp chú tâm nhưng ở mức độ thấp, chưa hiểu bản chất của chú

tâm và hiểu biết hạn chế về bài tập thực hành chú tâm. Những chương trình đào tạo chú tâm ở Việt Nam còn thiếu

nhiều và chưa bài bản, dẫn đến một vài khó khăn cho các nhà tâm lý trong quá trình áp dụng chú tâm ở Việt Nam.

Các nghiên cứu tiếp theo trong tương lai có thể tập trung vào tìm hiểu lợi ích của chú tâm khi áp dụng chú tâm ở

các thân chủ với các rối loạn khác nhau.

pdf 6 trang kimcuc 3200
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu nhận thức của các nhà tâm lý trị liệu Việt Nam về liệu pháp chú tâm", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu nhận thức của các nhà tâm lý trị liệu Việt Nam về liệu pháp chú tâm

Tìm hiểu nhận thức của các nhà tâm lý trị liệu Việt Nam về liệu pháp chú tâm
4523(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đặt vấn đề
Có nhiều cách dịch tiếng Việt khác 
nhau cho thuật ngữ “mindfulness” như 
“tỉnh thức, chánh niệm/chính niệm, 
định tâm, chú tâm”. Trong khuôn khổ 
nghiên cứu này, tác giả sử dụng khái 
niệm “chú tâm” thay thế cho thuật ngữ 
“mindfulness” trong tiếng Anh. 
Trong lĩnh vực tâm lý học, chú tâm 
được định nghĩa theo nhiều cách khác 
nhau. Chú tâm có thể được coi là một 
trạng thái của tâm thức [1], hoặc một 
kỹ thuật thực hành bao gồm từng bước 
cụ thể trong cả một quy trình có cấu 
trúc [2], một kỹ năng cần được luyện 
tập để áp dụng trong trị liệu [3]. 
Chú tâm không phải là một trạng 
thái thôi miên, hay cảm giác tách rời 
khỏi thực tại. Đây cũng không phải là 
phương pháp để trốn tránh cuộc sống, 
hay để ngăn chặn suy nghĩ, hoặc thậm 
chí là để giải thoát khỏi ốm đau, chết 
chóc. Đây là một kỹ thuật được sử 
dụng để sống trong thời khắc hiện tại 
một cách trọn vẹn nhất có thể dù hiện 
tại là sự đau khổ hay vui vẻ [4]. 
Các đặc điểm của chú tâm
Có chủ đích trong mỗi lần thực 
hành: Đây là một trong những hướng 
dẫn cơ bản nhất khi thực hiện thiền 
chú tâm: Khi tâm trí đi lang thang, nhẹ 
nhàng đưa sự chú ý về với đề mục/
chủ đề đã chọn trước cho sự chú ý (ví 
dụ như những trải nghiệm bên trong 
và bên ngoài cơ thể hoặc tùy bài tập 
chú tâm mà mục tiêu chú tâm lại khác 
nhau) [5]. Sự có mặt trong giây phút 
hiện tại để nhận biết những trải nghiệm 
ở hiện tại như một dòng chảy các kích 
thích bên trong và bên ngoài, xuất hiện 
rồi lại biến mất [6]. 
Không phán xét: Chú tâm có nghĩa 
là không phán xét những gì mình quan 
sát được, cũng không bám víu hay trốn 
chạy chúng [5], và đôi khi điều này 
giống như quá trình tiền nhận thức mà 
chưa đi đến bước diễn giải [7]. Chính 
việc không diễn giải sẽ giúp thân chủ 
nhìn nhận thực tại như những suy nghĩ, 
cảm giác, cảm xúc, con người, sự kiện 
xung quanh đúng như nó đang theo 
một cách khách quan, không bị bóp 
méo bởi những suy nghĩ và cảm xúc 
cá nhân [8]. 
Chấp nhận: Thái độ chấp nhận 
cũng được phản ánh trong định nghĩa 
về chú tâm: “Trải nghiệm hoàn toàn cởi 
mở về mọi thứ như nó là” [9]. Kabat-
Zinn cũng đã làm rõ khái niệm chú tâm 
bằng việc đưa ra 7 đặc điểm, tính chất 
của chú tâm [5]. Shapiro, Schwartz và 
Bonner bổ sung thêm vào danh sách 
5 tính chất nữa, nâng tổng số lên 12 
đặc điểm chú tâm: Không phán xét, 
không gắng sức, chấp nhận, kiên nhẫn, 
tin tưởng, cởi mở, buông bỏ, dịu dàng, 
hào phóng, thấu cảm, biết ơn, lòng yêu 
thương [10]. 
Tìm hiểu nhận thức của các nhà tâm lý trị liệu 
Việt Nam về liệu pháp chú tâm
Nguyễn Hương Mai*
Viện Giáo dục Shichida Việt Nam
Ngày nhận bài 12/7/2017; ngày chuyển phản biện 17/7/2017; ngày nhận phản biện 7/9/2017; ngày chấp nhận đăng 11/9/2017
Tóm tắt:
Chú tâm là một liệu pháp thu hút nhiều sự chú ý của những nhà nghiên cứu và nhà tâm lý, đặc biệt là ở các nước 
phương Tây. Rất nhiều nghiên cứu trên thế giới đã chứng minh rằng, phương pháp trị liệu chú tâm này mang lại 
nhiều thay đổi tích cực cho các bệnh nhân có vấn đề về sức khỏe tâm thần. Một liệu pháp trị liệu còn khá mới mẻ 
nhưng có nhiều nét tương đồng, gần gũi với một trong những tôn giáo lớn nhất tại Việt Nam - Phật giáo có thể hứa 
hẹn là một công cụ hữu hiệu nhằm cải thiện tình trạng rối loạn tâm lý của thân chủ trong quá trình trị liệu. Bởi vậy, 
nghiên cứu tìm hiểu nhận thức của các nhà trị liệu tâm lý Việt Nam về liệu pháp chú tâm thông qua thực hiện bảng 
hỏi trên 116 nhà tâm lý và phỏng vấn chuyên sâu 3 nhà tâm lý có kinh nghiệm thực hành liệu pháp chú tâm. Kết quả 
cho thấy, phần lớn các nhà tâm lý đều biết đến liệu pháp chú tâm nhưng ở mức độ thấp, chưa hiểu bản chất của chú 
tâm và hiểu biết hạn chế về bài tập thực hành chú tâm. Những chương trình đào tạo chú tâm ở Việt Nam còn thiếu 
nhiều và chưa bài bản, dẫn đến một vài khó khăn cho các nhà tâm lý trong quá trình áp dụng chú tâm ở Việt Nam. 
Các nghiên cứu tiếp theo trong tương lai có thể tập trung vào tìm hiểu lợi ích của chú tâm khi áp dụng chú tâm ở 
các thân chủ với các rối loạn khác nhau. 
Từ khóa: Chú tâm, nhà trị liệu tâm lý, nhận thức, Việt Nam.
Chỉ số phân loại: 5.1
*Email: huongmainguyen91@gmail.com.
4623(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Lợi ích của chú tâm
Chúng phá vỡ những vòng tròn 
luẩn quẩn của những trải nghiệm tiêu 
cực bên trong, như sự lo lắng về một 
sự kiện có thể xảy ra trong tương lai, 
sự ám ảnh của những sự kiện trong quá 
khứ bằng cách chỉ tập trung vào hiện 
tại, giúp điều tiết cảm xúc một cách 
hiệu quả trong não bộ, giúp con người 
ít phản ứng tự động và tăng sự linh 
hoạt trong nhận thức và phản ứng [11], 
tác động lên nhà trị liệu (tăng cường sự 
thấu cảm, khoan dung, kỹ năng tham 
vấn, giảm stress, tăng hiệu quả trị liệu). 
Chú tâm cũng được chứng minh là có 
hiệu quả với rất nhiều những rối loạn 
tâm lý như trầm cảm, lo âu, sang chấn, 
rối loạn đau, rối loạn nhân cách ranh 
giới và rất nhiều bệnh khác. Các bài 
tập chú tâm có thể bao gồm bài tập chú 
tâm vào hơi thở, scan cơ thể, chú tâm 
vào âm thanh, chú tâm vào cảm xúc 
hoặc các liệu pháp có kết hợp chú tâm 
như ACT (liệu pháp chấp nhận và cam 
kết), liệu pháp trị liệu stress dựa trên 
chú tâm [12].
Cho đến ngày nay, phần lớn các 
nghiên cứu sử dụng chú tâm trong trị 
liệu và tham vấn đều tập trung vào 
tìm hiểu định nghĩa chú tâm, điều tra 
những lợi ích mà chú tâm mang lại cho 
cả nhà trị liệu và thân chủ, tác động 
tích cực của chú tâm lên quá trình trị 
liệu. Tuy vậy, liệu pháp mới chỉ được 
biết đến ở Việt Nam và còn chưa có 
các chương trình đào tạo, các tài liệu 
tham khảo được biên soạn. Các nghiên 
cứu tiến hành về chú tâm ở Việt Nam 
cũng còn hạn chế và chưa có một 
nghiên cứu chính thức nào cho vấn đề 
nhận thức của các nhà trị liệu tâm lý 
Việt Nam về liệu pháp trị liệu chú tâm. 
Tổ chức và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp điều tra bằng bảng 
hỏi (trên 116 nhà tâm lý đang hành 
nghề tại Hà Nội, Đà Nẵng và thành 
phố Hồ Chí Minh)
Trong số 116 phiếu thu được, có 
112 người trả lời về độ tuổi. Độ tuổi 
trung bình của khách thể là 32,714 
với độ lệch chuẩn SD = 5,683. Độ 
tuổi khách thể dao động từ 23 đến lớn 
nhất là 53 tuổi. Các nhà trị liệu tâm 
lý nữ giới là 83 người, chiếm 71,6 %. 
Tỷ lệ nhà trị liệu là nam giới và giới 
tính khác chỉ chiếm gần 30%, tức chỉ 
bằng gần một nửa so với số lượng nữ 
giới. Các nhà trị liệu tâm lý có bằng cử 
nhân và thạc sỹ chiếm 87,9%, còn lại 
có trình độ tiến sỹ hoặc sau tiến sỹ. Khi 
được hỏi về niềm tin tôn giáo, có 39% 
số nhà trị liệu tâm lý trả lời không theo 
tôn giáo nào và 42% số nhà trị liệu có 
quan tâm đến đời sống tâm linh nhưng 
không theo tôn giáo cụ thể nào. Trong 
số các tôn giáo được đề cập, Phật giáo 
là tôn giáo được nhiều nhà trị liệu lựa 
chọn nhất, chiếm 22%. Trung bình, số 
năm kinh nghiệm của các nhà trị liệu 
là 6,22 năm, độ lệch chuẩn SD = 4,322 
năm, tối thiểu là 1 năm kinh nghiệm 
và nhiều nhất là 28 năm kinh nghiệm. 
Nghiên cứu đã thu được 114 phiếu trả 
lời về tần suất thực hành trị liệu tâm lý, 
trong đó 41% các nhà trị liệu được hỏi 
tiến hành trị liệu hàng ngày, 33% tiến 
hành vài lần một tuần. Chỉ có 12% là 
hiếm khi thực hiện trị liệu tâm lý. Khi 
được hỏi kỹ hơn về số năm thực hành 
liệu pháp chú tâm, có 83 trên tổng số 
94 người biết chú tâm trả lời câu hỏi 
này, trong đó 51,8% trả lời ở mức dưới 
1 năm. Như vậy, hơn một nửa số nhà 
trị liệu mới chỉ biết đến chú tâm và có 
kinh nghiệm, thời gian sử dụng chú 
tâm còn rất ngắn, có thể mới chỉ thử 
sử dụng trong vòng vài tháng hoặc vài 
Research on Vietnamese psychotherapists’ 
perception on mindfulness therapy
Huong Mai Nguyen*
Shichida Educational Institute, Vietnam
Received 12 July 2017; accepted 11 September 2017
Abstract:
Mindfulness has attracted much attention from researchers and 
psychotherapists, especially in Western countries. Thousands of researches 
have proven that mindfulness therapy brings positive changes to clients 
suffering from mental health problems. A new therapy which has many 
similarities to one of the most influencial religions in Vietnam - Buddhism 
will promise to be an effective tool to improve the clients’ conditions. 
Therefore, the research aimed to find out the perception of Vietnamese 
psychotherapists on mindfulness. Researchers used a quantitative method 
to investigate 116 psychotherapists and a quanlitative method to conduct in-
depth interviews with 3 psychotherapists having experiences in practicing 
mindfulness. Results have shown that many psychotherapists have known 
about mindfulness at low level, still do not understand fully the fundamental 
knowledge about this therapy. In Vietnam, there is no official and adequate 
program focusing on training mindfulness for psychotherapists, which leads 
to some difficulties in applying mindfulness in Vietnam. In the future, other 
researches could focus on investigating the mindfulness’s benefits when 
applying it in clients with different disorders.
Keywords: Mindfulness, perception, psychotherapist, Vietnam.
Classification number: 5.1
4723(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
tuần. Có 20,5% nhà trị liệu mới thực 
hành chú tâm 1 năm và 27,7% nhà trị 
liệu (22 người) sử dụng chú tâm nhiều 
hơn 1 năm.
Chúng tôi sử dụng bảng hỏi để tìm 
hiểu nhận thức về liệu pháp chú tâm 
của các nhà trị liệu tâm lý Việt Nam. 
Bảng hỏi được thiết kế dựa trên mô 
hình nhận thức của B.S. Bloom ở ba 
mức đầu tiên: Biết, hiểu, vận dụng và 
được bổ sung thêm một số câu hỏi về 
quan điểm, ý kiến cá nhân của khách 
thể. Phiếu hỏi được chia làm hai phần:
Phần 1 bao gồm những câu hỏi 
thông tin cơ bản về nhà tâm lý: Giới 
tính, tuổi, niềm tin tôn giáo, nền tảng 
học vấn (trình độ học vấn và chuyên 
ngành học), trường tốt nghiệp, số 
năm kinh nghiệm làm trị liệu tâm lý, 
tần suất thực hành trị liệu tâm lý, môi 
trường làm việc hiện nay.
Phần 2: Các câu hỏi tìm hiểu về 
khả năng biết và hiểu của nhà trị liệu 
tâm lý về chú tâm, các câu hỏi tìm hiểu 
về mức độ thực hành chú tâm của nhà 
trị liệu tâm lý và các câu hỏi tìm hiểu 
về quan điểm của nhà trị liệu tâm lý về 
liệu pháp chú tâm và các thông tin có 
liên quan.
Phương pháp phỏng vấn trường 
hợp trên 3 nhà tâm lý có kinh nghiệm 
về liệu pháp chú tâm
Chúng tôi tiến hành phỏng vấn 
chuyên sâu 3 nhà trị liệu tâm lý để 
tìm hiểu quan điểm, nhận thức riêng 
của họ về các khía cạnh liên quan đến 
chú tâm như: Sự hứng thú liên quan 
đến chú tâm, quá trình đào tạo về chú 
tâm, lợi ích và những câu chuyện kinh 
nghiệm của họ liên quan đến quá trình 
áp dụng chú tâm. 
Ba nhà trị liệu tâm lý đều thỏa mãn 
tiêu chí: 
- Đã biết đến và có kinh nghiệm 
sử dụng chú tâm trong trị liệu tâm lý 
hay trong quá trình hành nghề tâm lý 
ít nhất là 2 năm, có kinh nghiệm hành 
nghề tâm lý. 
- Đều làm việc ở các thành phố lớn 
(2 nhà tâm lý làm việc ở thành phố Hà 
Nội và 1 nhà tâm lý làm việc ở thành 
phố Hồ Chí Minh).
Sau khi tiến hành phỏng vấn trực 
tiếp, chúng tôi phân tích và sắp xếp dữ 
liệu theo những chủ đề thống nhất.
Kết quả và bàn luận
Kết quả nghiên cứu khảo sát 
Kết quả nghiên cứu khảo sát bảng 
hỏi cho thấy, nhận thức của nhà trị liệu 
tâm lý về liệu pháp chú tâm có ảnh 
hưởng lớn đến sự áp dụng, thực hành 
và sự phát triển của liệu pháp này ở Việt 
Nam và đồng thời cũng ảnh hưởng đến 
việc gia tăng cơ hội và khả năng hồi 
phục của thân chủ. Hầu hết các nhà trị 
liệu đồng ý tham gia nghiên cứu đều tự 
nhận có biết về chú tâm nhưng mức độ 
hiểu biết chuyên sâu thì còn nhiều hạn 
chế. Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy 
khoảng 63% số nhà trị liệu có thể đưa 
ra được định nghĩa đúng về chú tâm và 
hiểu về các lợi ích của chú tâm. Tuy 
vậy, chỉ có 3/7 rối loạn (trầm cảm, lo 
âu, rối loạn stress sau sang chấn) được 
từ 63 cho đến 83% số nhà trị liệu biết 
đến nhiều nhất, những rối loạn còn lại 
vẫn khá mới mẻ và tỷ lệ các nhà trị 
liệu biết đến rất thấp. Như vậy, về cơ 
bản, nhà trị liệu chỉ nắm được những 
kiến thức đã có mà chưa được cập nhật 
những kết quả nghiên cứu mới chứng 
minh chú tâm có thể hiệu quả với rất 
nhiều rối loạn khác nhau, không những 
chỉ cho những rối loạn hướng nội mà 
còn có thể cả với rối loạn hướng ngoại. 
Điều này cản trở sự thực hành và áp 
dụng chú tâm trong công việc trị liệu 
của nhà tâm lý (bảng 1). 
Về bản chất chú tâm đã tác động 
tích cực lên quá trình trị liệu như thế 
nào, chỉ có 1/5 lựa chọn (liệu pháp chú 
tâm giúp kiểm soát và điều hòa cảm 
xúc của thân chủ) được các nhà trị liệu 
đồng ý nhiều nhất (83%). Còn những 
tác động tích cực khác mà nhà trị liệu 
vẫn chưa biết đến nhiều như giúp tăng 
cường mối quan hệ trị liệu, giúp làm 
giảm những phản ứng tự động, thậm 
chí có tác động tích cực ngay với cả 
nhà trị liệu và làm tăng cường kỹ năng 
của nhà trị liệu trong tham vấn. Như 
vậy, kiến thức của nhà trị liệu về bản 
chất chú tâm có tác động như thế nào 
và có giúp ích gì trong quá trình thực 
hành vẫn còn hạn chế, chỉ mới ở bề nổi 
mà chưa thực sự chuyên sâu.
Ngoài ra, còn khá nhiều nhà tâm 
lý (khoảng 30 đến 50%) có nhận thức 
chưa chuẩn xác về liệu pháp chú tâm 
như tin chú tâm đồng nghĩa với thư 
giãn, chú tâm là để xóa bỏ cảm xúc tiêu 
cực hay dịch chuyển chú ý khỏi cảm 
xúc tiêu cực và thay thế bằng cảm xúc 
tích cực, tin chú tâm là trạng thái trống 
rỗng của tâm trí. Chính việc hiểu nhầm 
về chú tâm sẽ khiến việc thực hành sai 
và đánh giá thấp vai trò của chú tâm 
trong trị liệu. Điều này cũng không 
khó lý giải vì chú tâm chưa được đào 
tạo nhiều ở Việt Nam và ngay cả các 
nước phương Tây, dù đã có một quá 
trình áp dụng chú tâm lâu dài hơn mà 
vẫn còn có những hiểu nhầm tương tự 
về chú tâm. 
Chú tâm được nghiên cứu có 
hiệu quả trong trị liệu các rối 
loạn gồm:
Đồng ý 
(%)
Phần nào 
đồng ý 
(%)
Phần nào 
không đồng ý 
(%)
Không 
đồng ý 
(%)
Không 
biết 
(%)
Rối loạn hành vi (n, %) 28 (30,80) 28 (30,80) 8 (8,80) 13 (14,30) 14 (15,40)
Trầm cảm (n, %) 62 (68,10) 23 (25,30) 0 3 (3,30) 3 (3,30)
Nghiện chất (n, %) 31 (34,10) 22 (24,20) 11 (12,10) 12 (13,20) 15 (16,50)
Rối loạn nhân cách ranh giới (n, %) 28 (30,80) 20 (22) 6 (6,60) 9 (9,90) 28 (30,80)
Lo âu (n, %) 76 (83,50) 14 (15,40) 0 0 1 (1,10)
Rối loạn stress sau sang chấn (n, %) 72 (79,10) 13 (14,30) 0 0 6 (6,60)
Rối loạn hoảng sợ (n, %) 52 (57,10) 26 (28,60) 2 (2,20) 4 (4,40) 7 (7,70)
Bảng 1. Tổng hợp kết quả nghiên cứu khảo sát bằng bảng hỏi.
4823(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Về đặc tính của chú tâm, trong số 
các đặc tính được liệt kê, chỉ có 2 đặc 
tính được chọn lựa nhiều nhất là yếu 
tố chấp nhận và không phán xét. Đây 
đúng là những thành tố cơ bản của liệu 
pháp chú tâm. Điều này chứng tỏ phần 
lớn các nhà trị liệu có biết đến chú tâm 
đều nắm được tinh thần cốt lõi của liệu 
pháp. Tuy vậy, còn những đặc điểm 
khác cũng nên được biết đến vì chúng 
cũng không kém phần quan trọng trong 
việc hiểu và thực hành chú tâm đúng 
đắn như “buông bỏ, mô tả, biết ơn”. 
Như vậy, các nhà tâm lý còn nhiều hạn 
chế trong việc cập nhật những kiến 
thức chuyên sâu về liệu pháp. 
Xét về yếu tố thực hành, bài tập hít 
thở là bài tập được ưa chuộng và khá ...  truyền 
cảm hứng và tiếp thêm động lực cho 
thân chủ. Phong thái chú tâm của nhà 
trị liệu cũng sẽ được cảm nhận rõ ràng 
nếu nhà trị liệu đã từng sử dụng những 
bài tập này trước khi áp dụng cho thân 
chủ. Bởi vậy, việc các bài tập chú tâm 
và liệu pháp có kết hợp chú tâm vô 
cùng đa dạng, phong phú khác vẫn 
còn ít được biết đến cũng gây hạn chế 
trong quá trình thực hành. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 
một số tương quan sau:
- Tuổi càng cao thì có nhận thức về 
chú tâm càng thấp. 
- Trình độ học vấn càng cao thì nhà 
trị liệu có xu hướng tự đánh giá mình 
có nhận thức về chú tâm tốt hơn. Tuy 
vậy, sự khác biệt rõ ràng nhất chỉ thể 
hiện ở nhóm cử nhân và thạc sỹ khi 
nhóm thạc sỹ có nhận thức về chú tâm 
tốt hơn so với nhóm cử nhân. Để kiểm 
tra thêm sự khác biệt giữa trình độ 
học vấn về mức độ nhận thức về chú 
tâm, chúng tôi thực hiện T- Test giữa 
hai nhóm cử nhân và thạc sỹ, cho thấy 
điểm trung bình của cử nhân = 30 và 
điểm trung bình của thạc sỹ là 32, T= 
6,628 (p<0,05).
- Những nhà trị liệu làm việc trong 
các tổ chức phi chính phủ có hiểu biết 
về đặc điểm chú tâm tốt hơn so với 
những người không làm việc ở các tổ 
chức này. 
- Những nhà trị liệu được đào tạo từ 
môi trường học thuật hoặc có quá trình 
tự học cũng có nhận thức về chú tâm 
tốt hơn so với nhóm không được đào 
tạo từ môi trường học thuật và cũng 
không tự học hỏi. Như vậy, kiến thức 
từ trong nhà trường không đủ mà vẫn 
cần nhà trị liệu phải tự nghiên cứu, tìm 
tòi, học hỏi thêm từ nhiều nguồn khác 
nhau.
- Các nhà trị liệu được học chú tâm 
từ các tổ chức tôn giáo và môi trường 
học thuật có xu hướng thực hành chú 
tâm nhiều hơn so với nhóm còn lại.
- Nhà trị liệu có số năm thực hành 
chú tâm càng nhiều thì càng có hiểu 
biết về chú tâm chuyên sâu và tốt hơn. 
Như vậy, chính quá trình thực hành 
mới giúp nhà trị liệu trau dồi và nhận 
thức về chú tâm tốt nhất. Tuy nhiên, 
một điều cần lưu ý là vẫn có những 
nhà trị liệu dù chỉ biết một chút hoặc 
nắm chưa chắc vẫn áp dụng chú tâm 
vào quá trình thực hành, điều này cũng 
khiến chất lượng tham vấn trị liệu 
giảm xuống và nhà trị liệu chưa chắc 
đã áp dụng đúng liệu pháp này trong 
quá trình trị liệu. 
Hiện nay, các nhà trị liệu chấp nhận 
tên gọi chú tâm và chánh niệm/chính 
niệm nhiều nhất trong số các cách dịch 
thuật ngữ “mind fullness”. Họ cũng tin 
rằng việc chú tâm có thể giúp thân chủ 
xây dựng một lối sống lành mạnh sẽ 
chính là động lực khiến chú tâm được 
áp dụng và sẽ trở nên phổ biến hơn ở 
Việt Nam. Tuy vậy, nhược điểm lớn 
nhất là có quá ít những khóa đào tạo 
về chú tâm ở Việt Nam. Nhu cầu về 
đào tạo chuyên sâu chú tâm cũng khá 
lớn, và có sự khác biệt giữa nhóm chưa 
biết và đã biết đến chú tâm. Nếu đã 
biết đến chú tâm, nhà trị liệu càng có 
xu hướng muốn được đào tạo chuyên 
sâu hơn, còn nếu chưa biết đến thì tỷ 
lệ muốn được đào tạo cũng rất thấp. 
Điều này chứng tỏ những chương trình 
đào tạo hoặc những kiến thức mà nhà 
trị liệu thu thập được về chú tâm hiện 
nay không đủ để thỏa mãn và phục vụ 
được nhu cầu của nhà trị liệu về chú 
tâm. Các nhà trị liệu phần lớn đều tin 
tưởng vào sự phát triển và phổ biến của 
chú tâm ở Việt Nam, tuy nhiên, nhiều 
người vẫn còn e dè và không chắc liệu 
thân chủ Việt Nam có dễ dàng chấp 
nhận liệu pháp này. Các nhà trị liệu trẻ 
thì có nhiều niềm tin hơn vào sự phát 
triển của chú tâm và càng có nhận thức 
tốt và nhu cầu đào tạo lớn, các nhà trị 
liệu càng có niềm tin vào liệu pháp này 
hơn. 
 Kết quả nghiên cứu phỏng vấn 
trường hợp
Kết quả xử lý số liệu định tính 
phỏng vấn trường hợp cho thấy có 
4 chủ đề chính nổi bật thể hiện quan 
điểm nhận thức của các nhà tâm lý về 
liệu pháp chú tâm như sau:
Chủ đề 1: Chú tâm là quan sát và 
chấp nhận cảm xúc và suy nghĩ của 
bản thân trong hiện tại
Đây là quan điểm tương đồng giữa 
ba nhà tâm lý. Nhà tâm lý thứ nhất (ký 
hiệu là H1) cho rằng chú tâm không 
yêu cầu thân chủ phải thay đổi niềm 
tin, suy nghĩ mà là để thân chủ quan 
sát và chấp nhận chính bản thân mình: 
“Từ sự chấp nhận thì cảm xúc và hành 
vi có thể thay đổi mà không phải là 
làm một điều gì đó để cho nó thay đổi. 
Chấp nhận ở đây là chấp nhận cảm 
xúc, chấp nhận suy nghĩ, chấp nhận 
4923(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
trạng thái của cơ thể”. Người được hỏi 
cũng lý giải nguồn gốc về bản chất của 
chú tâm là bắt nguồn từ triết lý Phật 
giáo về vô thường, tức mọi thứ vốn đã 
luôn vận động và thay đổi nên không 
cần phải thay đổi điều gì cả. 
Nhà tâm lý H2 cũng có cùng quan 
điểm như vậy khi cho rằng chú tâm là 
tập trung vào hiện tại. Thân chủ cần 
“quan sát chính mình, quan sát cảm 
xúc của mình mà không hoàn toàn tin 
tưởng vào những cảm xúc nhất thời 
đó”, rồi không phán xét mà sẵn sàng 
chấp nhận những cảm xúc đó. Nhà 
tâm lý H3 thường sử dụng cụm từ 
chánh niệm hoặc sử dụng nguyên cụm 
mindfulness. 
Như vậy, về cơ bản, các nhà tâm 
lý đều có chung quan điểm về những 
bản chất cốt lõi của chú tâm. Ngoài ra, 
các nhà tâm lý cũng so sánh bản chất 
của chú tâm với các phương pháp trị 
liệu khác. 
Nhà tâm lý H1 thấy sự khác biệt 
giữa chú tâm và trị liệu nhận thức 
hành vi ở chỗ trị liệu nhận thức hành 
vi thường dạy thân chủ cách để thay 
đổi suy nghĩ, từ đó thay đổi cảm xúc 
và hành vi của mình, trong khi chú tâm 
thì ngược lại, không cần phải thay đổi 
mà hãy cứ kiên nhẫn chấp nhận và rồi 
chúng sẽ tự chuyển hóa và thay đổi mà 
không cần có sự tác động hay xen vào 
của bản thân. 
Nhà tâm lý H2 thì so sánh các kỹ 
thuật chú tâm với các kỹ thuật khác 
ngoài mindfulness, ví dụ như tâm động 
năng hay tâm lý học hệ thống. Tuy vậy, 
cái khác là trong mindfulness, nhà trị 
liệu không phán xét mà chấp nhận 
những cảm xúc của mình. Như vậy, kỹ 
thuật này cũng đã được nhắc đến trong 
phân tâm nhưng ở một khía cạnh khác. 
Chủ đề 2: Chưa có những chương 
trình đào tạo bài bản về chú tâm tại 
Việt Nam
Khi được hỏi về quá trình đào tạo 
chú tâm, mỗi nhà tâm lý lại có những 
con đường để biết đến và tiếp cận chú 
tâm khác nhau. 
Nhà tâm lý H1 biết đến chú tâm 
thông qua các khóa học ngắn ngày nội 
bộ cho nhân viên để giúp các cán bộ 
tâm lý có thêm thông tin về một liệu 
pháp mới mà không phải để cấp chứng 
chỉ. Tuy vậy, nhà tâm lý này khẳng 
định với chừng đó “thời gian đào tạo 
vẫn là rất ngắn ngủi và không dễ để 
thực hành thường xuyên chút nào. Bởi 
vậy, khi những trải nghiệm chưa đủ, 
mình sẽ khó để cam kết thực sự với 
liệu pháp”.
Đối với nhà tâm lý H2, được học về 
chú tâm từ hồi đại học khi còn là sinh 
viên ở trường đại học tại nước ngoài. 
Chú tâm được giảng dạy như một 
môn học tự chọn cho sinh viên, bao 
gồm 2 tín chỉ và chỉ giới thiệu qua về 
mindfulness mà không có những giờ 
thực hành hay trải nghiệm trên thực tế. 
Còn nhà tâm lý H3 thì không học 
chú tâm từ những chương trình đào 
tạo thông qua chương trình giảng dạy 
ở trường đại học. Nhân vật tự nghiên 
cứu và có rất nhiều tài liệu liên quan 
đến bài tập chú tâm như sách, audio, 
video hướng dẫn luyện tập các bài tập 
chú tâm. 
Như vậy, cả 3 nhà tâm lý đều có 
con đường tiếp cận chú tâm khác nhau 
nhưng điểm chung là họ đều không có 
cơ hội được đào tạo chú tâm một cách 
bài bản mà chỉ được đào tạo một vài 
khía cạnh trong chú tâm và ứng dụng 
của chú tâm. Hơn nữa, thời gian đào 
tạo thường không nhiều mà chủ yếu 
vẫn là quá trình tự học nên khó để họ 
thực sự nắm bắt và hiểu sâu sắc về liệu 
pháp chú tâm, từ đó ảnh hưởng không 
nhỏ đến việc thực hành chú tâm trong 
quá trình trị liệu. 
Chủ đề 3: Hiểu về lợi ích của chú 
tâm thông qua quá trình thực hành
- Lợi ích cho chính nhà trị liệu: 
Đây là điểm quan trọng mà nhà tâm 
lý H1 nhấn mạnh trong quá trình tham 
gia phỏng vấn. Theo đó, chú tâm mang 
lại rất nhiều lợi ích cho bản thân mình 
mỗi khi thực hành, giúp giảm mệt 
mỏi về mặt cơ thể chỉ trong khoảng 5 
phút chú tâm, làm tăng khả năng tập 
trung trong làm việc, giảm căng thẳng 
và stress hay tức giận. Và cuối cùng, 
cũng rất thú vị, nó giúp mình quan sát 
những dòng suy nghĩ đang chảy qua 
trong đầu. 
- Lợi ích cho thân chủ: Từ kinh 
nghiệm của mình, các nhà tâm lý cho 
rằng liệu pháp này khá phù hợp với 
những thân chủ có rối loạn ám ảnh 
cưỡng bức hoặc ám ảnh sợ, rối loạn lo 
âu. Những người này thường có suy 
nghĩ ám ảnh và cảm xúc thứ cấp, họ lo 
lắng vì chính sự lo lắng của họ, họ mất 
ngủ và rồi lo lắng vì chính sự mất ngủ 
đó. Khi chú tâm, họ không bị ám ảnh 
bởi những suy nghĩ đó nữa và có lúc 
thoát ra được những suy nghĩ đó. 
- Lợi ích trong quá trình trị liệu: 
Về cơ bản, các nhà trị liệu liệt kê một 
số lợi ích của chú tâm như thư giãn, 
giảm lo âu, mệt mỏi, dễ ngủ, khiến 
thân nhiệt ấm lên, điều hòa cảm xúc tốt 
hơn. Các nhà trị liệu đều đồng ý rằng 
kỹ năng chú tâm cũng là một kỹ năng 
quan trọng và mang lại nhiều lợi ích 
trong quá trình xây dựng mối quan hệ 
trị liệu và thực hành tham vấn hay trị 
liệu tâm lý.
Chủ đề 4: Những thuận lợi và khó 
khăn trong quá trình thực hiện chú tâm 
ở Việt Nam
Khi đề cập đến thuận lợi trong 
quá trình áp dụng chú tâm trong môi 
trường trị liệu tâm lý ở Việt Nam, nhà 
tâm lý H1 cho rằng chú tâm cũng phù 
hợp với một số thân chủ nhất định. Có 
thân chủ nói rằng họ cảm thấy thoải 
mái, dễ chịu khi thực hiện các bài tập. 
Thiền hay mindfulness cũng có thể 
được dạy ở những hình thức khác hoặc 
ở nơi khác như ở chùa, các thiền viện, 
hoặc các trung tâm Phật giáo hoặc 
dạy yoga, mà thiền hay yoga thì cũng 
có nhiều người thực hành rồi. Chánh 
niệm cũng không mới ở Việt Nam mà 
quan trọng là phối hợp với tâm lý như 
thế nào mới là cái mới. Điều này cũng 
trùng khớp với ý kiến của nhà tâm lý 
H2 và H3. 
5023(12) 12.2017
Khoa học Xã hội và Nhân văn
Kết luận
Dù liệu pháp chú tâm còn khá mới 
mẻ nhưng các nhà trị liệu tâm lý ở Việt 
Nam nhìn chung đã có những hiểu biết 
nhất định về liệu pháp này. Tuy vậy, 
vẫn còn một bộ phận không nhỏ các 
nhà trị liệu vẫn còn có hiểu biết chưa 
chính xác, hoặc hiểu biết còn hạn chế, 
hời hợt, chưa đi sâu vào bản chất cũng 
như chưa thực sự biết đến ích lợi, đặc 
điểm, các bài tập thực hành về chú 
tâm và liệu pháp có kết hợp chú tâm. 
Chỉ có quá trình thực hành lâu dài mới 
giúp nhà trị liệu có thêm kinh nghiệm 
và kiến thức cũng như nhận thức tốt 
hơn về chú tâm. Từ những kết quả 
nghiên cứu nêu trên, chúng tôi xin đưa 
ra một số khuyến nghị sau, dành cho 
từng nhóm đối tượng:
Đối với các nhà chuyên môn
Kết quả nghiên cứu cho thấy các 
nhà trị liệu còn khá hạn chế trong tiếp 
cận với những nguồn tài liệu về chú 
tâm. Cần tự mình trau dồi kiến thức 
không chỉ bó hẹp ở trong nước mà 
bằng các tài liệu và các khóa tập huấn 
ở nước ngoài về chú tâm, vì hiện nay, 
các tài liệu chính thống về chú tâm 
bằng tiếng Việt còn rất hạn chế và chưa 
có hệ thống, chưa cập nhật với sự phát 
triển ngành tâm lý trên thế giới. Một 
điều nữa là khi học về chú tâm, nhà 
trị liệu cần cam kết thực hành chú tâm 
cho chính mình, vì theo kết quả nghiên 
cứu, chính quá trình thực hành cho bản 
thân và trong trị liệu mới mang lại kinh 
nghiệm và củng cố kiến thức thực sự 
cho nhà trị liệu. 
Đối với cơ sở đào tạo
Theo kết quả nghiên cứu, những 
nhà trị liệu được đào tạo chú tâm ở môi 
trường học thuật có kiến thức và xu 
hướng thực hành nhiều hơn. Như vậy, 
môi trường trường học vẫn là một nơi 
uy tín để đào tạo và cập nhật kiến thức 
chú tâm cho sinh viên hay cung cấp 
các khóa đào tạo, tập huấn, hội thảo, 
các buổi trao đổi ngắn hạn cho nhà trị 
liệu. Theo kết quả nghiên cứu, các nhà 
trị liệu vẫn có nhu cầu cần được đào 
tạo về chú tâm rất lớn, bởi vậy, việc 
thiết kế các chương trình chú tâm bao 
gồm cả lý thuyết và thực hành là rất 
cần thiết và sẽ thu hút được sự quan 
tâm của các nhà trị liệu, sinh viên, 
những người đã từng biết đến chú tâm. 
Các chương trình này nên cung cấp 
các kiến thức lý thuyết như định nghĩa 
chú tâm, thành tố đặc điểm chính của 
chú tâm, các loại hình thực hành chú 
tâm, lợi ích của việc sử dụng chú tâm, 
các liệu pháp có kết hợp chú tâm, lưu 
ý khi sử dụng chú tâm, các chương 
trình thực hành chú tâm áp dụng cho 
bản thân nhà trị liệu và xây dựng các 
module áp dụng chú tâm cho thân chủ. 
Đối với xã hội
Chú tâm không chỉ mang lại lợi ích 
cho nhà trị liệu, cho thân chủ mà còn 
là một phong cách sống có thể được 
phổ biến rộng rãi như một phương 
thức phòng chống các rối loạn về tâm 
lý. Xây dựng những chương trình 
thường thức áp dụng các bài tập chú 
tâm trong cuộc sống cho các đối tượng 
khác nhau như trẻ em trong trường 
học, người đi làm, người tuổi trung 
niên hay thậm chí người già. Chú tâm 
có thể khá quen thuộc với người Việt 
Nam thông qua Phật giáo. Bởi vậy, với 
những người đã biết đến và có niềm 
tin vào Phật giáo, chú tâm có thể được 
phổ biến thông qua tổ chức tôn giáo 
như các khóa thiền, các chương trình 
tu học. Tuy vậy, nếu áp dụng trong tâm 
lý, nhà trị liệu cần khéo léo để tách biệt 
nội dung tôn giáo với trị liệu tâm lý để 
giúp đỡ thân chủ một cách tốt nhất tùy 
vào niềm tin của thân chủ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] G. Johanson & R. Kurtz (1991), Grace 
unfolding: Psychotherapy in the spirit of the 
Tao-te Ching, New York: Bell Tower. 
[2] S.R. Bishop, M. Lau, S. Shapiro, L. 
Carlson, N.D. Anderson, J. Carmody, et al. 
(2004), “Mindfulness: A proposed operational 
definition”, Clinical Psychology: Science & 
Practice, 11(3), pp.230-241.
[3] C. Germer (2005), “Mindfulness: What 
is it? what does it matter?”, In C.K. Germer, 
R.D. Siegel & P.R. Fulton (Eds.), Mindfulness 
and psychotherapy, pp.3-27. 
[4] N.A. Hamilton, H. Kitzman & S. 
Guyotte (2006), “Enhancing health and 
emotion: Mindfulness as a missing link between 
cognitive therapy and positive psychology”, 
Journal of Cognitive Psychotherapy, 20(2), 
pp.123-134.
[5] J. Kabat-Zinn (1990), Full catastrophe 
living: Using the wisdom of your body and 
mind to face stress, pain, and illness, New 
York: Delacorte.
[6] R.A. Baer (2003), “Mindfulness training 
as a clinical intervention: A conceptual and 
empirical review”, Clinical Psychology: 
Science & Practice, 10(2), pp.125-143.
[7] S.L. Shapiro, L.E. Carlson, J.A. Astin 
& B. Freedman (2006), “Mechanisms of 
mindfulness”, Journal of Clinical Psychology, 
62, pp.373-386.
[8] K.W. Brown, R.M. Ryan & J.D. Creswell 
(2007), “Mindfulness: Theoretical foundations 
and evidence for its salutary effects”, 
Psychological Inquiry, 18, pp.211-237. 
[9] M.M. Linehan (1994), Acceptance and 
change: The central dialectic in psychotherapy, 
Reno, NV: Context Press.
[10] S.L. Shapiro, G.E. Schwartz & G. 
Bonner (1998), “Effects of mindfulness-based 
stress reduction on medical and premedical 
students”, Journal of Behavioral Medicine, 21, 
pp.581-599. 
[11] D.J. Siegel (2007), “Mindfulness 
training and neural integration: Differentiation 
of distinct streams of awareness and the 
cultivation of wellbeing”, Social Cognitive and 
Affective Neuroscience, 2, pp.259-263. 
[12] M.D. Stauffer (2007), Mindfulness 
in counseling and psychotherapy: a literature 
review and quantitative investigation 
of mindfulness competencies (Doctoral 
dissertation).

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_nhan_thuc_cua_cac_nha_tam_ly_tri_lieu_viet_nam_ve_l.pdf