Tìm hiểu lời kêu gọi nhân kỷ niệm toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh

Ngày 19 - 12 - 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chính thức bùng nổ. Trong cuộc kháng chiến

trường kỳ, gian khổ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên viết Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng

chiến nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần sáng tạo và chủ nghĩa anh hùng cách mạng

của quần chúng nhân dân. Do đó, bài viết này tập trung nghiên cứu, tìm hiểu nội dung Lời kêu gọi nhân kỷ niệm

Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Hồ Chí Minh Toàn tập” nhằm làm sáng tỏ

công lao và những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự kiện Toàn quốc kháng chiến nói riêng

và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung.

pdf 9 trang kimcuc 16000
Bạn đang xem tài liệu "Tìm hiểu lời kêu gọi nhân kỷ niệm toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tìm hiểu lời kêu gọi nhân kỷ niệm toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh

Tìm hiểu lời kêu gọi nhân kỷ niệm toàn quốc kháng chiến của chủ tịch Hồ Chí Minh
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
Khoa học Xã hội, Số 9 (6/2017) tr. 33 - 41 
33 
TÌM HIỂU LỜI KÊU GỌI NHÂN KỶ NIỆM TOÀN QUỐC 
KHÁNG CHIẾN CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH 
Đào Văn Trƣởng 
Trường Đại học Tây Bắc 
 Tóm tắt: Ngày 19 - 12 - 1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chính thức bùng nổ. Trong cuộc kháng chiến 
trường kỳ, gian khổ đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên viết Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng 
chiến nhằm khơi dậy và phát huy truyền thống đoàn kết, tinh thần sáng tạo và chủ nghĩa anh hùng cách mạng 
của quần chúng nhân dân. Do đó, bài viết này tập trung nghiên cứu, tìm hiểu nội dung Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 
Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Hồ Chí Minh Toàn tập” nhằm làm sáng tỏ 
công lao và những đóng góp to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với sự kiện Toàn quốc kháng chiến nói riêng 
và sự nghiệp cách mạng Việt Nam nói chung. 
Từ khóa: Chủ tịch Hồ Chí Minh, Lời kêu gọi, Toàn quốc kháng chiến. 
1. Đặt vấn đề 
Trong suốt thời gian diễn ra cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí 
Minh thường xuyên viết Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến (1947 - 1954) 
nhằm phát huy truyền thống yêu nước, đoàn kết và sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc trong 
kháng chiến. Những bài viết của Người đã góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc chiến. 
Trải qua 70 năm (1946 - 2016), những bài học kinh nghiệm sâu sắc và ý nghĩa lịch sử quan 
trọng trong những trang viết của Người vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn. Đặc biệt là 
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. 
2. Nội dung nghiên cứu 
2.1. Hoàn cảnh lịch sử dẫn đến sự kiện Toàn quốc kháng chiến 
Sự kiện Cách mạng Tháng Tám thành công (1945) đã mở ra một trang sử mới trong tiến 
trình phát triển của lịch sử Việt Nam. Nó đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân, phong 
kiến, giành lại độc lập dân tộc, lập ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa - Nhà nước Dân chủ 
Nhân dân đầu tiên ở Đông Nam châu Á và cũng là mô hình Nhà nước tiến bộ nhất lịch sử 
Việt Nam, đưa nhân dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, mất nước lên địa vị người làm chủ 
nước nhà. Trong khi, nhân dân Việt Nam hân hoan chào mừng đất nước độc lập thì thực dân 
Pháp lại ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam lần thứ hai, chúng không chịu bằng lòng với 
thất bại cay đắng và nhục nhã trước dân tộc Việt Nam anh hùng. 
Nhờ sự thỏa hiệp của thực dân Anh, thực dân Pháp đã theo chân quân đội Anh vào làm 
nhiệm vụ giải giáp quân đội phát xít Nhật ở phía Nam vĩ tuyến 16. Được sự giúp sức của quân 
Anh, chúng đã nổ súng đánh chiếm Sài Gòn (ngày 23 - 9 - 1945) mở đầu cho cuộc xâm lược 
Việt Nam lần thứ hai. Với mong muốn vãn hồi một nền hòa bình mong manh, Chính phủ và 
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký với Chính phủ Pháp bản Hiệp định sơ bộ (6 - 3 - 1946) và Tạm 
 Ngày nhận bài: 25/11/2016. Ngày nhận đăng: 15/6/2017 
Liên lạc: Đào Văn Trưởng, e - mail: daovantruong.tp@gmail.com 
34 
ước (14 - 9 - 1946) song những cố gắng và nỗ lực của ta đã không đạt được kết quả vì bản 
tính ngang ngược và hiếu chiến của thực dân Pháp. Chúng đã liên tiếp thực hiện những hành 
động khiêu khích một cách trắng trợn như: “Ngày 20 - 11 - 1946, quân Pháp mở cuộc tấn 
công chiếm đóng thành phố Hải Phòng, thị xã Lạng Sơn và đổ bộ lên Đà Nẵng. Ngày 17 và 
18 - 12 - 1946 tại Hà Nội, quân Pháp tàn sát thảm khốc đồng bào ta ở các phố Yên Ninh, 
Hàng Bún. Chúng ngang ngược đòi tước vũ khí của tự vệ Hà Nội, đòi kiểm soát an ninh trật 
tự ở thủ đô” [1]. Song âm mưu hèn hạ, thâm độc đó của chúng đã hoàn toàn thất bại trước dân 
tộc Việt Nam anh hùng. 
Trước tình hình đó, Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết tâm giương cao 
ngọn cờ giải phóng dân tộc, lãnh đạo nhân dân phát động cuộc kháng chiến toàn quốc. Như 
một quy luật tất yếu khách quan của lịch sử, đúng 20 giờ ngày 19 - 12 - 1946 cuộc kháng 
chiến toàn quốc chính thức diễn ra ở khắp các chiến trường trên cả nước. Nhằm phát huy tối 
đa sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nghiên cứu kỹ lưỡng và cho 
ra đời Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến vào ngày 19 - 12 - 1946 (Đây được đánh giá là một 
trong những áng thiên cổ hùng văn cùng với “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt, “Bình 
Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi và “Tuyên ngôn độc lập” của Người). Ngoài ra, trong 9 năm 
kháng chiến chống thực dân Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên viết Lời kêu gọi nhân 
kỷ niệm sự kiện Toàn quốc kháng chiến nhằm động viên quần chúng nhân dân anh dũng 
chiến đấu bảo vệ độc lập dân tộc. 
2.2. Nội dung Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến (1946 - 1954) 
* Lời kêu gọi Toàn quốc kháng chiến (19 - 12 - 1946) 
Trong không khí hào hùng, sôi động của những ngày toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch 
Hồ Chí Minh đã thay mặt Trung ương Đảng, Chính phủ ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến 
với những nội dung hết sức cô đọng, súc tích và mang tính thời sự lúc đó. Trước hết, Người 
giải thích nguyên nhân vì sao ta phải tiến hành kháng chiến “Hỡi đồng bào toàn quốc! Chúng 
ta muốn hòa bình, chúng ta đã nhân nhượng. Nhưng chúng ta càng nhân nhượng, thực dân 
Pháp càng lấn tới, vì chúng quyết tâm cướp nước ta lần nữa” [3]. Theo Người, chúng ta 
không có con đường nào khác là đứng lên chiến đấu để bảo vệ Tổ quốc. Trước âm mưu thâm 
độc, hèn hạ của kẻ thù, Người đã thay mặt Đảng, Chính phủ và nhân dân cả nước tuyên bố 
trước nhân dân Pháp và nhân dân thế giới rằng: Dù có phải hy sinh đến đâu nhân dân Việt 
Nam cũng quyết tâm bảo vệ và giữ gìn nền độc lập, tự do “Không, Chúng ta thà hy sinh tất cả 
chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” [3]. Để bảo vệ và giữ 
gìn nền độc lập, tự do ấy, Người kêu gọi toàn thể đồng bào và chiến sĩ cả nước phát huy cao 
độ truyền thống đoàn kết sáng tạo, tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường và chủ nghĩa anh 
hùng cách mạng trên trận tuyến chống quân thù “Hỡi đồng bào! Chúng ta phải đứng lên! Bất 
kỳ đàn ông, đàn bà, bất kỳ người già người trẻ, không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc. Hễ 
là người Việt Nam thì phải đứng lên đánh thực dân Pháp để cứu Tổ quốc. Ai có súng dùng 
súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc thuổng gậy gộc. Ai cũng phải ra 
sức chống thực dân Pháp cứu nước.”[3]. Những lời lẽ thống thiết, hào hùng đó của Người đã 
thức tỉnh khối óc và truyền đến trái tim của hàng triệu người con đất Việt, sẵn sàng từ bỏ tất 
cả để đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. 
35 
Trong thời khắc lịch sử trọng đại đó, Người chính thức phát động cuộc kháng chiến toàn 
quốc: “Giờ cứu nước đã đến. Ta phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng để giữ gìn đất nước” 
với một ý chí và quyết tâm sắt đá “Dù phải gian lao kháng chiến nhưng với một lòng kiên 
quyết hy sinh, thắng lợi nhất định sẽ về dân tộc ta! Việt Nam độc lập và thống nhất muôn 
năm! Kháng chiến thắng lợi muôn năm!” [3]. 
* Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 6 tháng kháng chiến (6 - 1947) 
Trong Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 6 tháng kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luận 
giải một cách khoa học nguồn gốc sức mạnh cuộc kháng chiến của dân tộc ta. Trước hết là 
tính chất chính nghĩa của cuộc chiến, Người viết: “Ta chỉ giữ non sông đất nước của ta. Chỉ 
chiến đấu cho quyền thống nhất và độc lập của Tổ quốc. Còn thực dân phản động Pháp thì 
mong muốn ăn cướp nước ta, mong bắt dân ta làm nô lệ. Vậy ta là chính nghĩa, địch là tà. 
Chính nhất định thắng tà” [4]. Vì cuộc chiến của ta là chính nghĩa nên theo Hồ Chí Minh, 
chúng ta sẽ không hề đơn độc mà ngược lại sẽ có nhiều bạn đồng minh trong cuộc chiến này 
“Số đông nhân dân Pháp muốn hòa bình, thân thiện với ta; nhân dân thuộc địa đồng tình với 
ta; các dân tộc châu Á ủng hộ ta, dư luận trong thế giới tán thành ta. Về mặt tinh thần địch đã 
hoàn toàn thất bại, ta đã hoàn toàn thắng lợi” [4]. Mặt khác, truyền thống đoàn kết và tinh 
thần đấu tranh anh dũng sáng tạo của dân tộc Việt Nam sẽ là sức mạnh tổng hợp chiến đấu và 
chiến thắng trước kẻ thù “Tuy khí giới ta còn kém, kinh nghiệm ta còn ít, nhưng lòng kiên 
quyết, chí hy sinh của tướng sĩ ta đã lập những chiến công oanh liệt, vẻ vang có thể nói là 
kinh trời động đất” [4]. Theo Người, sở dĩ chúng ta giành được những thắng lợi là do ta có 
một chiến lược cách mạng đúng đắn là: Với đường lối trường kỳ kháng chiến “Để phát triển 
lực lượng, tăng thêm kinh nghiệm” với chiến thuật du kích nhằm “Làm cho địch hao mòn”. 
Từ đó, Người đưa ra nhận định hết sức xác đáng “Thế địch như lửa. Thế ta như nước. Nước 
nhất định thắng lửa” [4]. 
Như vậy, qua Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 6 tháng kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã 
luận giải một cách khoa học những thắng lợi bước đầu chúng ta giành được xuất phát từ nhiều 
yếu tố như tính chất chính nghĩa, truyền thống đoàn kết, anh dũng sáng tạo của nhân dân, 
chiến lược cách mạng đúng đắn và sự ủng hộ, giúp đỡ to lớn của bạn bè quốc tế. 
* Lời kêu gọi nhân kỷ niệm một năm kháng chiến (12 - 1947) 
Nếu như Lời kêu gọi nhân kỷ niệm 6 tháng kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ 
tính chất chính nghĩa của ta thì nhân dịp kỷ niệm một năm kháng chiến toàn quốc Người đã đi 
sâu phân tích tính chất phi nghĩa trong cuộc chiến tranh của người Pháp qua những số liệu 
thực tế trên thực địa “Chúng mất hơn 20 nghìn lính Pháp chết và bị thương. Chúng tốn hơn 
3.000 triệu bạc. Chúng chiếm mấy thành thị đã hóa ra đống tro tàn. Chúng đã mua chuộc 
được một lũ bất trung, bất hiếu làm bù nhìn, nhưng lũ đó đều bị toàn dân phỉ nhổ. Chính phủ 
ở Pháp và bọn chỉ huy của chúng ở đây đã phải thay đổi mấy lần. Vì chết nhiều người, tốn 
nhiều của mà nhân dân Pháp đã lên tiếng phản đối cuộc chiến tranh phi nghĩa này. Đó là cái 
kết quả mà bọn thực dân phản động đã lượm được, một thứ kết quả trái hẳn với hy vọng của 
chúng” [4]. Trái ngược với thất bại cay đắng của địch là những thắng lợi vẻ vang của quân và 
dân ta sau một năm kháng chiến “Những trận đánh oanh liệt ở Mỹ Tho, ở Đèo Hải Vân, ở 
36 
Sông Lô, ở Thất Khê,v.v, đã làm địch kinh hồn mất víaNgoài mấy thành thị đã hoang tàn thì 
thôn quê khắp cả nước đều vẫn ở trong tay ta” [4]. Và cuối thư, Người không quên nhắn nhủ 
tới đồng bào và chiến sĩ cả nước hãy anh dũng đứng lên chiến đấu bảo vệ Tổ quốc thiêng 
liêng với một niềm tin sắt đá “Trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi! thống nhất độc lập 
nhất định thành công” [4]. 
Trong lời kêu gọi nhân kỷ niệm một năm kháng chiến Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng 
kết những thất bại của địch trên chiến trường, chỉ ra tính chất phi nghĩa trong cuộc chiến của 
chúng; đồng thời nêu lên những thắng lợi của ta nhằm động viên đồng bào và chiến sĩ cả nước 
quyết tâm hơn nữa trong cuộc chiến trường kỳ và gian khổ này. 
* Lời kêu gọi nhân kỷ niệm hai năm kháng chiến toàn quốc (12 - 1948) 
Sau khi nghiên cứu kỹ lưỡng thực lực giữa ta và địch trên chiến trường, Chủ tịch Hồ 
Chí Minh đi đến nhận định: Địch gặp bất lợi nhiều mặt về chính trị “Từ ngày khởi cuộc chiến 
tranh phi nghĩa, Chính phủ Pháp đã bị quốc hội và nhân dân Pháp lật đổ hơn 10 lần” về quân 
sự “Từ tướng Lơcléc, tướng Valuy, tướng Xalăng đến tướng Bledô, địch đã phải thay đổi 
thống soái 4 lần” về kinh tế “Chúng phải hao tổn hàng muôn triệu về binh bị, mà nền kinh tế 
của chúng ở đây bị phá sản” [4]. Trong khi đó, ta liên tiếp giành được những thắng lợi quan 
trọng, nhân dân ngày càng tin tưởng vào đường lối kháng chiến của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí 
Minh. Từ đó, Người đi đến kết luận: “Lực lượng của địch trước to sau nhỏ, trước mạnh sau 
yếu. Tình hình của địch như mặt trời đã xế tà, gần tắt. Lực lượng của ta trước nhỏ sau to, 
trước yếu sau mạnh. Thanh thế của ta cũng như những nguồn nước nhỏ nhớn dần thành một 
đại dương” [4]. Đồng thời, Người phát động một phong trào thi đua ái quốc rộng khắp trong 
các tầng lớp nhân dân “Các chiến sĩ phải thi đua diệt nhiều giặc, cướp nhiều súng, lập nhiều 
công. Đồng bào phải thi đua tăng gia sản xuất, giết giặc đói, giặc dốt, giúp sức giết giặc 
ngoại xâm. Các cán bộ phải thi đua thực hành Cần, Kiệm, Liêm, Chính, tẩy sạch khuyết điểm, 
phát triển ưu điểm” [4]. Và nếu làm tốt thì theo Người “Ta ngày càng đoàn kết, ngày càng 
thực túc binh cường thì địch nhất định thua, ta nhất định thắng” [4]. Đó là niềm tin mãnh liệt 
của một vị nguyên thủ quốc gia đứng đầu đất nước và cũng là niềm tin của một người Việt 
Nam bình thường như bao nhiêu người Việt Nam khác đang khao khát độc lập, tự do. 
Những phân tích, lập luận chính xác, khoa học của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cơ sở cho 
công tác hoạch định đường lối kháng chiến của Đảng và Chính phủ. 
* Lời kêu gọi nhân kỷ niệm ba năm Toàn quốc kháng chiến (12 - 1949) 
Trong Lời kêu gọi nhân kỷ niệm ba năm toàn quốc kháng chiến, Hồ Chủ tịch đã kêu gọi 
quần chúng nhân dân đoàn kết một lòng, noi gương các anh hùng liệt sĩ đã anh dũng chiến 
đấu và hy sinh để bảo vệ nền độc lập, tự do của Tổ quốc “Toàn thể quân và dân Việt Nam 
kiến quyết noi gương anh dũng của các liệt sĩ, kiên quyết đánh tan giặc thực dân cướp nước, 
để tranh lại độc lập và thống nhất thật sự cho nước ta. Nhân dịp này tôi gửi lời thân ái an ủi 
các thương binh, cựu binh và gia đình các liệt sĩ” [4]. Người đã thề cùng nhân dân cả nước và 
trước anh linh của các liệt sĩ rằng: “Hễ còn một tên lính thực dân trên đất nước Việt Nam, thì 
Việt Nam cứ đánh, đánh cho đến thắng lợi hoàn toàn, đánh cho đến độc lập và thống nhất 
thật sự” [4]. 
37 
Những trang viết đầy xúc động của Người thể hiện lòng biết ơn chân thành và sự tri ân 
của toàn thể dân tộc Việt Nam với những hy sinh và đóng góp thầm lặng của các anh hùng liệt 
sỹ cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc; máu đào của các anh đã tô 
thắm cho nền độc lập, tự do của Tổ quốc, cho sự bình yên và hạnh phúc của nhân dân. 
* Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm bốn năm Toàn quốc kháng chiến (12 - 1950) 
Trong dịp kỷ niệm bốn năm toàn quốc kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh so sánh, liên 
hệ cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại hiện nay của chúng ta với những cuộc kháng chiến thần 
thánh chống giặc ngoại xâm, giải phóng dân tộc trong lịch sử của ông cha để đồng bào và 
chiến sĩ cả nước vững tâm và quyết tâm hơn nữa “So sánh cuộc kháng chiến của chúng ta 
ngày nay với cuộc chống quân Nguyên, quân Minh của tổ tiên ta ngày xưa, thì chúng ta thấy: 
Ngày xưa quân thù ở bên cạnh nước ta và rất hùng mạnh, nước ta còn nhỏ, người ít, sức yếu, 
thế mà chỉ nhờ đoàn kết và hăng hái, tổ tiên đã thắng được quân giặc” [5]. Vì vậy, theo 
Người trong thời đại ngày nay chúng ta chắc chắn sẽ làm được những điều mà thế hệ cha anh 
đã từng làm “Ngày nay, chúng ta đánh quân thù ở xa lại, nước ta lớn hơn, người đông hơn, 
sức nhiều hơn. Chúng ta lại được nhân dân thế giới đồng tình, chúng ta cũng rất đoàn kết và 
hăng hái. Cho nên chúng ta chắc chắn rằng kháng chiến nhất định thắng lợi, còn lũ thực dân 
Pháp và bọn can thiệp Mỹ sẽ thất bại đau đớn như quân Nguyên, quân Minh” [5]. Và lịch sử 
đã chứng minh những tiên đoán của Chủ tịch Hồ Chí Minh là hoàn toàn chính xác, với một sự 
thật lịch sử là: không những thực dân Pháp mà cả đế quốc Mỹ sau này cũng đều phải chuốc 
lấy thất bại cay đắng, nhục nhã. Đồng thời, theo Người với những thắng lợi đạt được sau 4 
năm kháng chiến toàn quốc, cuộc chiến của ta đã có bước chuyển biến quan trọng về chất “Ta 
đã từ bị động chuyển dần sang chủ động, từ thế yếu chuyển dần sang thế mạnh, từ thế thủ 
chuyển dần sang thế công” [5]. 
Có thể khẳng định, những liên hệ, so sánh, đối chiếu của Chủ tịch Hồ Chí Minh giúp 
cho đồng bào và chiến sĩ cả nước vững tin và quyết tâm hơn nữa trên trận tuyến chống 
quân thù. 
* Lời kêu gọi nhân kỷ niệm lần thứ năm ngày Toàn quốc kháng chiến (12 - 1951) 
Sau khi phân tích tình hình quốc tế và trong nước, đánh giá những thuận lợi và khó 
khăn đối với cách mạng, tiến hành tổng kết những thắng lợi đã đạt được trong thời gian qua, 
Chủ tịch Hồ Chí Minh không quên nhắn nhủ tới nhân dân cả nước phải luôn đề cao cảnh giác, 
không được chủ quan khinh địch, đặc biệt là trong những thời khắc quyết định của cuộc chiến 
“Quân và dân ta phải luôn ghi nhớ rằng: Lũ giặc cướp nước, chết thì chết, nết không chừa. 
Càng gần thất bại thì chúng càng hung ác. Do đó, càng gần thắng lợi thì ta càng gặp nhiều 
khó khăn. Quân và dân ta phải luôn ghi nhớ: Kháng chiến nhất định thắng lợi, nhưng phải 
trường kỳ và gian khổ” [5]. Mặt khác, Người đề ra nhiệm vụ cho đồng bào và chiến sĩ trong 
những năm tới: Phải tăng cường hơn nữa đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế với nhân dân 
Liên Xô, Trung Quốc và các nước dân chủ mới; đối với các chiến sĩ vệ quốc quân, bộ đội địa 
phương, dân quân du kích phải thi đua giết giặc lập công; đồng bào sĩ, nông công thương thi 
đua tăng gia sản xuất; cán bộ, chính quyền và các đoàn thể thi đua thực hành cần, kiệm, 
liêm, chính 
38 
Như vậy, thông điệp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh nhắn nhủ tới đồng bào và chiến sĩ cả 
nước là không được chủ quan khinh địch, quyết tâm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ cách 
mạng mà Đảng và Chính phủ đề ra trong thời gian tới. 
* Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 6 năm Toàn quốc kháng chiến (12 - 1952) 
Nhân dịp này, Người đi sâu lý giải nguyên nhân dẫn đến những thất bại liên tiếp của thực 
dân Pháp trên chiến trường “Địch thua to vì nhiều nguyên nhân. Không những chúng bị nhân 
dân ta kiên quyết chống lại, mà còn bị nhân dân Pháp và nhân dân thế giới phản đối; tinh thần 
quân đội chúng ngày càng sút kém; mâu thuẫn nội bộ của phe chúng, phe đế quốc, ngày càng 
sâu sắc.” [5]. Những lập luận của Người không chỉ giúp đồng bào và chiến sĩ cả nước vui mừng 
mà còn giúp cho nhân dân Pháp và nhân dân tiến bộ thế giới hiểu được kết cục tất yếu của kẻ 
xâm lược. Cùng với những thành tích đạt được, Người cũng thẳng thắn chỉ rõ một trong những 
khuyết điểm mà chúng ta mắc phải trong giai đoạn này là chưa thi hành đúng chính sách ruộng 
đất, theo Người “Giảm tô, giảm tức là một quyền lợi chính đáng của nông dân cũng chưa thực 
hiện được đến nơi đến chốn. Đó là một tình trạng rất không công bằng. Vì vậy, sang năm, 
Chính phủ, Đảng và Mặt trận sẽ kiên quyết phát động nông dân thực hiện triệt để chính sách 
giảm tô, giảm tức để đảm bảo quyền lợi chính đáng của nông dân” [5]. 
Có thể nói, những chính sách của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có vai 
trò quan trọng trong việc bồi dưỡng sức dân, khuyến khích và vận động được sức mạnh của 
quần chúng nhân dân lao động, đặc biệt là giai cấp nông dân cho cuộc chiến. 
* Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 7 năm Toàn quốc kháng chiến (12 - 1953) 
Trải qua 7 năm tiến hành kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những thắng 
lợi của ta trên chiến trường nhằm động viên và khích lệ tinh thần chiến đấu của đồng bào và 
chiến sĩ cả nước trong giai đoạn quyết định của cuộc chiến “7 năm qua, chúng ta đã tiêu diệt 
hơn 32 vạn quân địch, đã làm cho địch thiếu hụt binh sĩ:”. Để cứu vớt thất bại ấy, địch ra sức 
thực hiện âm mưu “Dùng người Việt đánh người Việt, gấp rút mở rộng ngụy quân; song như 
thế thì khác nào uống thuốc độc cho đỡ khát” [6]. Cùng với đó là sự tổn thất của địch và sự 
can thiệp ngày càng sâu của Mỹ vào cuộc chiến hao người tốn của này đã được Hồ Chí Minh 
luận giải một cách thấu đáo “7 năm qua, địch đã hao tổn 3 triệu bạc Pháp. Vì vậy, mà kinh tế 
tài chính của địch đã kiệt quệ, chúng phải quỵ lụy, xin xỏ Mỹ, ngày càng phụ thuộc vào Mỹ, 
đế quốc Mỹ thì nhân đó mà nô dịch nhân dân Pháp và trực tiếp can thiệp vào chiến tranh Việt 
- Miên - Lào, hòng thay thế địa vị của Pháp ở Đông Dương” [6]. 
Trong lời kêu gọi lần này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu lên 2 nhiệm vụ trọng tâm cho 
toàn Đảng, toàn dân thực hiện trong thời gian tới là: “Đẩy mạnh kháng chiến và cải cách 
ruộng đất” [6]. Theo Người, 2 nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau “Phải cải cách 
ruộng đất để bồi dưỡng lực lượng nhân dân, đảm bảo kháng chiến thắng lợi. Phải đẩy mạnh 
kháng chiến để bảo đảm cải cách ruộng đất thành công” [6]. Và thực tế lịch sử đã chứng 
minh, cải cách ruộng đất đã thúc đẩy cuộc kháng chiến của chúng ta thành công nhanh chóng. 
Trong lời kêu gọi này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết những thắng lợi mà quân và 
dân ta đã đạt được sau 7 năm chiến đấu anh dũng; đồng thời, Người cũng nêu ra 2 nhiệm vụ 
trọng tâm cho toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta thực hiện nhằm giành thắng lợi quyết định, 
sớm kết thúc chiến tranh. 
39 
* Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm 8 năm Toàn quốc kháng chiến (12 - 1954) 
Trải qua chín năm chiến đấu lâu dài và gian khổ, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp 
của nhân dân Việt Nam anh hùng đã kết thúc vẻ vang với chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 
“Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” buộc thực dân Pháp phải ngồi vào bàn đàm phán ở 
Giơnevơ (Thụy Sỹ) thi hành hiệp định về kết thúc chiến tranh, lập lại hòa bình ở Đông 
Dương. Trong dịp kỷ niệm sự kiện 8 năm Toàn quốc kháng chiến (12/1946 - 12/1954) Chủ 
tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt Đảng, Chính phủ tuyên bố trước toàn thể đồng bào và chiến sĩ 
cả nước, cùng nhân dân tiến bộ thế giới, trong đó có nhân dân Pháp rằng: cuộc kháng chiến 
trường kỳ chống thực dân Pháp của nhân dân Việt Nam đã toàn thắng “Sau 8, 9 năm kháng 
chiến cực kỳ gian khổ và anh dũng, chúng ta đã thu được thắng lợi vẻ vang; chiến tranh đã 
chấm dứt, hòa bình đã trở lại, chúng ta có cơ hội để xây dựng nước nhà” [6]. Đặc biệt với sự 
mẫn cảm thiên tài của một chính khách tầm cỡ quốc tế, Người cũng không quên gửi lời nhắn 
nhủ tới đồng bào và chiến sĩ cả nước phải hết sức đề cao, cảnh giác trong thời điểm đất nước 
mới hòa bình “Nhưng chúng ta phải biết rằng: So với đấu tranh vũ trang trong kháng chiến, 
thì đấu tranh chính trị trong hòa bình cũng phải trường kỳ và gian khổ, và còn gay go, phức 
tạp hơn. Vì vậy, nhân dân, quân đội và cán bộ ta chớ có chủ quan, tự mãn, mà phải giữ vững 
chí khí đấu tranh, tinh thần anh dũng” [6]. 
 Trải qua thực tiễn lãnh đạo quần chúng đấu tranh giành chính quyền thành công trong 
cách mạng tháng Tám (năm 1945) và kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi, cùng với 
những am hiểu sâu sắc về lịch sử dựng nước và giữ nước của cha ông, Hồ Chí Minh cho rằng 
một trong những yếu tố vô cùng quan trọng góp phần làm lên những chiến công hiển hách của 
dân tộc Việt Nam là truyền thống đoàn kết - sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử hình thành 
và phát triển của dân tộc Việt Nam “Chúng ta đã đoàn kết, đấu tranh, cảnh giác và tin tưởng, 
cho nên chúng ta đã thắng lợi trong kháng chiến” [6]. Và theo Người, truyền thống tốt đẹp 
này cần được phát huy hơn nữa trong thời bình “Nay chúng ta phải đoàn kết rộng rãi đồng 
bào cả nước và đoàn kết chặt chẽ với nhân dân các nước bạn cùng nhân dân yêu chuộng hòa 
bình toàn thế giới, nâng cao chí khí đấu tranh và tinh thần cảnh giác hơn nữa, tin tưởng hơn 
nữa vào lực lượng mạnh mẽ và tiền đồ vẻ vang của dân tộc ta” [6]. Và Người đưa ra kết luận 
quan trọng là: “Như vậy, chúng ta nhất định thắng lợi trong công cuộc củng cố hòa bình, thực 
hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước ta.” [6]. 
Một lần nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục thay mặt Đảng, Chính phủ và nhân dân cả 
nước trịnh trọng tuyên bố trước nhân dân Pháp và nhân dân thế giới rằng: cuộc kháng chiến 
toàn quốc của dân tộc Việt Nam anh hùng đã kết thúc thắng lợi vẻ vang; đồng thời, Người 
cũng kêu gọi đồng bào và chiến sĩ cả nước không được chủ quan và phát huy hơn nữa truyền 
thống đoàn kết trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 
2.3. Ý nghĩa lịch sử từ Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch 
Hồ Chí Minh 
Như vậy, sau chín năm trường kỳ kháng chiến với truyền thống đoàn kết, sáng tạo, cùng 
tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, thành quả của cách mạng đã đơm hoa thơm, kết trái 
ngọt, cuộc kháng chiến toàn quốc vĩ đại của dân tộc Việt Nam đã kết thúc với thắng lợi hoàn 
40 
toàn về ta. Góp phần vào thắng lợi chung đó, không thể không nhắc tới vai trò to lớn của Chủ 
tịch Hồ Chí Minh. Chính Người là tác giả của áng thiên cổ hùng văn Lời kêu Toàn quốc 
kháng chiến (1946) và Lời kêu gọi nhân dịp kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến (1947 - 
1954) đã cổ vũ, hiệu triệu và thức tỉnh được toàn thể quốc gia, dân tộc đứng lên chiến đấu để 
bảo vệ non sông đất nước. Những tư tưởng của Người trong Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn 
quốc kháng chiến có ý nghĩa to lớn quyết định đến thắng lợi của cuộc chiến. 
Thứ nhất, Hồ Chí Minh đã chỉ ra được nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến. Đồng thời 
giải thích, lập luận một cách khoa học về tính chất chính nghĩa của ta và tính chất phi nghĩa 
của địch trong cuộc chiến này. Những bài viết của Người không chỉ giúp nhân dân Việt Nam 
mà còn giúp cho nhân dân Pháp và nhân dân thế giới hiểu và nhận thức đúng bản chất cuộc 
kháng chiến toàn quốc cũng như cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp ở Việt Nam. 
Thứ hai, Người đã khơi dậy và phát huy được truyền thống đoàn kết, sáng tạo và chủ 
nghĩa anh hùng cách mạng, sức mạnh đại đoàn kết của toàn thể quốc gia, dân tộc trong cuộc 
chiến tranh vệ quốc vĩ đại. Với một ý chí kiên định và quyết tâm sắt đá là “Quyết tử cho Tổ 
quốc quyết sinh” dù cho phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng cũng phải quyết giành cho được 
độc lập. 
Thứ ba, Người đã trở thành biểu tượng mẫu mực cho tinh thần đoàn kết quốc tế trong 
sáng và niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi tất yếu của cách mạng. 
Thứ tư, ngôn từ mà Người sử dụng hết sức khoa học, cô đọng, súc tích, nhưng cũng rất 
gần gũi, dễ hiểu và chân thành. Do đó, những tư tưởng và thông điệp mà Người truyền tải dễ 
dàng đi vào trái tim và khối óc của mỗi người dân Việt Nam. Đó cũng chính là phong cách 
Hồ Chí Minh giản dị, chân thành, mềm dẻo, linh họat trong mọi hoàn cảnh “Dĩ bất biến, ứng 
vạn biến”. 
Thứ năm, Hồ Chí Minh đã thể hiện được tài năng và nghệ thuật lãnh đạo của một chính 
khách tầm cỡ quốc tế trong việc định hướng, dẫn dắt, điều phối, tổ chức cuộc kháng chiến 
toàn quốc của dân tộc Việt Nam đi đúng hướng và đến đích nhanh chóng. 
Thứ sáu, thực chất toàn bộ Lời kêu gọi nhân kỷ niệm sự kiện Toàn quốc kháng chiến (từ 
6 tháng cho đến 8 năm) của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự tổng kết những việc đã làm được và 
chưa làm được của ta trong cuộc kháng chiến. Từ đó, giúp Trung ương Đảng và Chính phủ có 
sự điều chỉnh đường lối kháng chiến hợp lý nhằm đẩy nhanh cuộc kháng chiến đến thắng lợi 
cuối cùng. 
3. Kết luận 
Như vậy, qua nghiên cứu, tìm hiểu Lời kêu gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến 
của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong tác phẩm “Hồ Chí Minh Toàn tập” chúng ta có thể thấy Bác rất 
quan tâm đến sự kiện lịch sử trọng đại này. Và năm nào cũng vậy, vào đúng ngày 19 - 12 Bác 
đều đặn nghiên cứu viết lời kêu gọi nhằm động viên và khích lệ tinh thần chiến đấu của nhân 
dân, củng cố niềm tin vững chắc vào tương lai của cách mạng. Những Lời kêu gọi thể hiện 
được sự lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh trên chặng 
đường đồng hành cùng dân tộc trong suốt cuộc kháng chiến toàn quốc, trở thành nguồn sức 
41 
mạnh tinh thần to lớn, góp phần quan trọng vào thắng lợi của cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại. 
Bảy mươi năm đã trôi qua, nhưng những giá trị tư tưởng của Bác trong những bài viết Lời kêu 
gọi nhân kỷ niệm Toàn quốc kháng chiến vẫn còn nguyên giá trị lý luận và thực tiễn sâu sắc 
trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa hiện nay. 
 TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục và Đào Tạo (2006). Giáo trình Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam (dùng 
cho các trường đại học, cao đẳng). Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 
[2] Trường Chinh (1976). Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân Việt Nam (Tập 2). Nhà 
xuất bản Sự Thật, Hà Nội. 
[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 4 (1995). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[4] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 5 (1995. Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[5] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6 (1995). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[6] Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 7 (1996). Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội. 
[7] Trần Thị Vui (Học viện CTQG Hồ Chí Minh), Những sáng tạo về đường lối của Đảng 
ta trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp (1945 - 1954). Truy cập tại: 
 - hieu - truyen - thong - quan - su/nhung - sang - tao - ve - 
duong - loi - cua - dang - ta - trong - thoi - ky - khang - chien - chong - thuc - dan - phap 
- 19451954/6934.html, ngày truy cập: 26/01/2015 
A STUDY ON THE APPEAL ON THE ANNIVERSARY OF NATIONAL 
STRUGGLING DAY BY PRESIDENT HO CHI MINH 
Dao Van Truong 
Tay Bac University 
Abstract: On December 19
th
 1946, the national struggle against the invaders officially broke out. During 
this hard and long - lasting struggle, President Ho Chi Minh frequently wrote the call for solidarity, innovative 
spirit and revolutionary heroism. This article focuses on the content of the call for national struggle by President 
Ho Chi Minh in “Ho Chi Minh Full Episode”. With the purpose to clarify and affirm the merits and great 
contributions of President Ho Chi Minh to the event in particular and the revolution of Vietnam in general. 
Keywords: National resistance, President Ho Chi Minh, the appeal. 

File đính kèm:

  • pdftim_hieu_loi_keu_goi_nhan_ky_niem_toan_quoc_khang_chien_cua.pdf