Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp Tiểu học thông qua nguồn tư liệu bài hát
Việc sử dụng nguồn tư liệu là âm nhạc và các bài hát vào việc dạy học ngôn ngữ đã
được khẳng định là mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, việc sử dụng các bài hát có chứa đựng
yếu tố văn hóa vào việc dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc
thiểu số cấp tiểu học như thế nào cho có hiệu quả vẫn là một vấn đề cần được trao đổi. Bài
viết này đề xuất một số cách sử dụng bài hát như một công cụ dạy học hay một nguồn tư liệu
hỗ trợ mang tính liên ngành Ngôn ngữ, Âm nhạc, Văn hóa trong việc dạy học tiếng Việt cho
học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học, đồng thời khảo sát hiệu quả của phương pháp này so
với việc dạy tiếng Việt đơn thuần. Kết quả cho thấy việc đưa bài hát vào trong lớp học tiếng
Việt đã mang lại hiệu quả là tăng cường động cơ học tập và giúp học sinh được trải nghiệm
trong một môi trường ngôn ngữ - văn hóa thực sự.
Từ khóa: Văn hóa, tiếng Việt, ngôn ngữ thứ hai, dân t
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp Tiểu học thông qua nguồn tư liệu bài hát
120 HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2018-0068 Educational Sciences, 2018, Volume 63, Issue 5, pp. 120-129 This paper is available online at TÍCH HỢP YẾU TỐ VĂN HÓA VÀ ÂM NHẠC VÀO DẠY HỌC TIẾNG VIỆT CHO HỌC SINH DÂN TỘC THIỂU SỐ CẤP TIỂU HỌC THÔNG QUA NGUỒN TƯ LIỆU BÀI HÁT Đỗ Việt Hùng1, Nguyễn Thị Ngân Hoa2 và Đỗ Phương Thảo3 1,2Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 3Khoa Việt Nam học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Việc sử dụng nguồn tư liệu là âm nhạc và các bài hát vào việc dạy học ngôn ngữ đã được khẳng định là mang lại nhiều lợi ích. Tuy nhiên, việc sử dụng các bài hát có chứa đựng yếu tố văn hóa vào việc dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học như thế nào cho có hiệu quả vẫn là một vấn đề cần được trao đổi. Bài viết này đề xuất một số cách sử dụng bài hát như một công cụ dạy học hay một nguồn tư liệu hỗ trợ mang tính liên ngành Ngôn ngữ, Âm nhạc, Văn hóa trong việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học, đồng thời khảo sát hiệu quả của phương pháp này so với việc dạy tiếng Việt đơn thuần. Kết quả cho thấy việc đưa bài hát vào trong lớp học tiếng Việt đã mang lại hiệu quả là tăng cường động cơ học tập và giúp học sinh được trải nghiệm trong một môi trường ngôn ngữ - văn hóa thực sự. Từ khóa: Văn hóa, tiếng Việt, ngôn ngữ thứ hai, dân tộc thiểu số, bài hát. 1. Mở đầu 1.1. Văn hóa là một khái niệm quan trọng trong giảng dạy ngôn ngữ, đặc biệt là trong việc dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai. Một thực tế mà nhiều người thừa nhận là việc thiếu hiểu biết kiến thức văn hóa trong môi trường giáo dục đa văn hóa, môi trường song ngữ thường dẫn tới việc “sốc văn hóa” và sử dụng những chiến lược giao tiếp không phù hợp, ngay cả với những người nắm vững ngữ pháp và có vốn từ vựng tương đối. Chính vì thế, trong những năm qua, việc đưa những tri thức nền về văn hóa vào trong chương trình giảng dạy ngôn ngữ trên thế giới nói chung và chương trình dạy tiếng Việt ở Việt Nam nói riêng được quan tâm đặc biệt. Hiện nay, trong thời đại công nghệ thông tin, truyền thông và đặc biệt là truyền thông kĩ thuật số, việc tích hợp các sản phẩm dạy học và các sản phẩm của công nghệ truyền thông là một xu thế tất yếu. Trong các loại sản phẩm truyền thông đa phương tiện thì các CD, DVD hoặc video clip của các bài hát được sử dụng vào việc dạy học ngôn ngữ đã được khẳng định là mang lại nhiều lợi ích, đặc biệt là về mặt tâm lí và tư duy. Tuy nhiên, việc sử dụng các bài hát có chứa đựng yếu tố văn hóa vào việc dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học như thế nào cho có hiệu quả vẫn là một vấn đề cần được trao đổi. Bài viết này đề xuất một số cách sử dụng bài hát như một công cụ dạy học hay một nguồn tư liệu hỗ trợ mang tính liên ngành Ngôn ngữ, Âm nhạc, Văn hóa trong việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học, đồng thời khảo sát hiệu quả của phương pháp này so với việc dạy tiếng Việt đơn thuần. Ngày nhận bài: 19/2/2018. Ngày sửa bài: 19/4/2018. Ngày nhận đăng: 10/5/2018. Tác giả liên hệ: Đỗ Phương Thảo. Địa chỉ e-mail: phuongthaovnh@gmail.com Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số 121 1.2. Trong nhiều năm qua, các nhà phương pháp luận dạy học tiếng Anh như một ngoại ngữ (EFL) trên thế giới đã tích cực xem xét khả năng sử dụng âm nhạc và bài hát trong lớp học (Ví dụ: Judith Weaver Failoni (1993), Eken (1996), Brian Cullen (1998), Saricoban (2000), Kevin Schoepp (2001), Robert Lake (2002), Natalia F. Orlova (2003) ).. Họ đã phân tích và nhận thấy việc sử dụng âm nhạc vào dạy học ngôn ngữ là cách tiếp cận hứng thú và có hiệu quả đối với người học. Về mối quan hệ giữa âm nhạc và ngôn ngữ, các nhà thần kinh học đã phát hiện ra rằng việc xử lí âm nhạc và ngôn ngữ xảy ra trong cùng một phần của bộ não và dường như có sự tương đồng trong cách xử lí cú pháp âm nhạc và ngôn ngữ. Lí thuyết giáo dục về "đa trí tuệ" của Gardner (1993) khẳng định rằng: âm nhạc và ngôn ngữ là hai trong số bảy loại trí thông minh của con người. Ông cho rằng mặc dù giáo viên ngoại ngữ không quan tâm đến việc phát triển trí tuệ âm nhạc, họ vẫn có thể sử dụng trí thông minh âm nhạc của học sinh để đạt được các kỹ năng khác. Âm nhạc có thể được tích hợp vào các hoạt động của lớp học, mà không cần giả định rằng giáo viên hoặc học sinh có thể soạn nhạc hoặc biểu diễn âm nhạc. Do đó, một chức năng của âm nhạc là có thể trở thành công cụ giảng dạy, tương tự như tài liệu nghe nhìn hoặc phần mềm máy tính [dt 4; tr.97]. Về lí do của việc sử dụng bài hát trong lớp học ngoại ngữ, Kevin Schoepp (2001) đã đưa ra ba lí do của việc sử dụng bài hát trong lớp học tiếng Anh như một ngoại ngữ, đó là các lí do về tình cảm, nhận thức và ngôn ngữ, tất cả đều dựa trên lí thuyết học tập và cung cấp cái nhìn sâu sắc về những lợi ích của các bài hát trong lớp học. Ông khẳng định rằng: “Các bài hát đã trở thành một phần trong kinh nghiệm ngôn ngữ của chúng ta, và nếu được sử dụng một cách phù hợp với bài học ngôn ngữ, chúng có thể mang lại những giá trị rất lớn” [12]. Bên cạnh việc khẳng định âm nhạc và bài hát có thể trở thành một công cụ dạy học hữu hiệu ở nhiều phương diện, các nhà nghiên cứu cũng đã khẳng định vai trò là tấm gương phản chiếu nền văn hóa, là nguồn “tư liệu sống” của văn hóa mà giáo viên có thể sử dụng như một công cụ để dạy học lồng ghép ngôn ngữ - văn hóa (Judith Weaver Failoni, 1993; Natalia F. Orlova, 2003). Như vậy, tất cả các nghiên cứu đều thừa nhận vai trò của âm nhạc trong lớp học ngoại ngữ, đặc biệt là vai trò truyền tải văn hóa, rèn luyện các kĩ năng giao tiếp và tạo động lực học tập. Tuy nhiên, các nghiên cứu này đều là của các học giả nước ngoài, phần lớn là tìm hiểu về việc dạy tiếng Anh qua bài hát. Còn việc vận dụng các bài hát vào làm công cụ để dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học sao cho phù hợp với những đặc trưng của ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam nói chung và đặc trưng văn hóa của người học nói riêng thì gần như chưa có nhà nghiên cứu nào, cả ở trong và ngoài nước đề cập đến. 1.3. Thực hiện bài viết này, mục đích của chúng tôi là muốn đi từ việc tìm hiểu cơ sở lí luận của việc sử dụng nguồn tư liệu bài hát trong việc dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai hiện nay đến việc thiết kế thử nghiệm một số biện pháp nhằm đưa bài hát có chứa đựng yếu tố văn hóa vào giờ học tiếng Việt của học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học như một công cụ dạy học hay một nguồn tư liệu có tính tích hợp Ngôn ngữ - Âm nhạc – Văn hóa. Từ đó, có những đánh giá khách quan về ưu, nhược điểm của phương pháp này; đưa ra được những góp ý, đề xuất để xây dựng nội dung chương trình Tiếng Việt dành cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học hiện nay cho phù hợp với đặc trưng ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam nói chung và đặc trưng của từng dân tộc thiểu số nói riêng. Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa và Đỗ Phương Thảo 122 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Cơ sở lí luận Trong những lí do và mục đích của việc đưa âm nhạc và bài hát vào việc dạy tiếng, chúng tôi tập trung khai thác những lợi ích về mặt văn hóa, tư duy và tâm lí mà bài hát mang lại cho người học trong một giờ học. 2.1.1. Về mặt văn hóa Có thể nói, bài hát là một trong những nguồn tài nguyên giàu chất văn hóa và hấp dẫn nhất mà chúng ta có thể dễ dàng sử dụng trong lớp học ngôn ngữ. Natalia F. Orlova (2003) trong bài viết Helping Prospective EFL Teachers Learn How to Use Songs in Teaching Conversation Classes bằng kinh nghiệm giảng dạy riêng của mình cho rằng: Một trong những lí do của việc sử dụng bài hát trong lớp học ngoại ngữ là: “Là một hiện tượng văn hoá, các bài hát có thể giới thiệu cho sinh viên những mẫu âm nhạc và văn hoá điển hình của cộng đồng ngôn ngữ đích” [11]. Còn Judith Weaver Failoni (1993) cho rằng: “Việc sử dụng âm nhạc trong lớp học ngoại ngữ cung cấp một cách tiếp cận độc đáo để nâng cao nhận thức của sinh viên về một nền văn hoá khác. Âm nhạc cung cấp một tấm gương lí thú về lịch sử, văn học và văn hoá của một quốc gia, có thể được nhìn thấy trong văn bản của các bài hát, và trong phong cách âm nhạc. Các phong cách âm nhạc và các chủ đề văn bản, cùng với các biến thể phát âm và tiếng địa phương giữa các quốc gia nói cùng một ngôn ngữ, cung cấp cho sinh viên một cái nhìn bao quát về đại diện của các xã hội khác trong ngôn ngữ đích” [4; tr.97]. Một điều thú vị mà Judith Weaver Failoni chú ý là: “Đôi khi cùng một bài hát có thể được tìm thấy bằng tiếng Anh và ngôn ngữ đích, ngoài việc cung cấp một so sánh các ngôn ngữ thông qua phân tích dịch còn cho phép kiểm tra cùng một ý tưởng âm nhạc trong hai nền văn hóa” [4;tr.103]. Như vậy, văn bản lời bài hát và phong cách âm nhạc từ các quốc gia là một điểm khởi đầu tốt để khám phá một nền văn hóa. Người học có thể nói chuyện hoặc viết về ấn tượng của họ, giải thích cách nó khác hoặc tương tự với thứ âm nhạc mà họ quen thuộc, và thể hiện những gì họ thích hoặc không thích về phong cách âm nhạc. “Phong cách âm nhạc, phong cách ca hát, giọng hát, và các chủ đề văn bản kết hợp để góp phần nâng cao nhận thức về văn hoá” [4; tr.103]. 2.1.2. Về mặt tư duy Các nhà nghiên cứu cho biết rằng: vì “bản chất của bài hát tương đối lặp đi lặp lại và nhất quán” [12] nên nhiều hoạt động sử dụng nhịp điệu với bài hát có thể củng cố quá trình ghi nhớ và lưu giữ. Như thế, bài hát chính là cơ hội để phát triển “tính tự động” (automaticity) - một thành phần của sự lưu loát ngôn ngữ liên quan đến việc biết phải nói gì và sản xuất ngôn ngữ nhanh chóng mà không cần dừng lại [12]. Có nghĩa là, khi nghe và nhắc lại lời của bài hát, người học sẽ dễ nhớ và dễ thuộc từ vựng cũng như cấu trúc ngữ pháp hơn. Khi thuộc đến nằm lòng, ở họ sẽ hình thành phản xạ nói một cách lưu loát cái cụm từ hoặc câu mà họ học được từ bài hát. Các phong cách lặp đi lặp lại của bài hát tạo cơ hội để người học có thể tạo lập ra câu riêng của họ theo cách tương tự với bài hát. Đó là lí do chính về mặt nhận thức để sử dụng bài hát trong lớp. Đồng thời, trong khi thiết lập một liên kết giữa chủ đề được lựa chọn để giảng dạy trong lớp học và những chủ đề khác, âm nhạc thúc đẩy quá trình gợi lại kiến thức nền và quá trình phản hồi. Người học tái lập kiến thức sẵn có của họ và liên hệ nó với kiến thức mới một cách bền vững và thích thú khi bài hát được sử dụng trong lớp học được tích hợp với sở thích và kỹ năng của họ (Richards & Rodgers, 2001, trang 100). Brian Cullen (1998) thì cho rằng: “Bài hát có sự liên hội với kinh nghiệm cá nhân. Nhiều người chỉ nghe một vài đoạn nhạc hoặc một thể loại nhạc mà có thể liên hội với những ký ức hoặc những con người đặc biệt” [1]. Như vậy, giữa bài hát và khả năng tri nhận của con người cũng có mối quan hệ. Bài hát có thể tạo ra một “ẩn dụ kinh nghiệm” Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số 123 nào đó bằng các yếu tố ngôn ngữ và phi ngôn ngữ (âm nhạc, giai điệu, hình ảnh trong video clip), đơn giản như: khi một giai điệu vang lên, người học có thể nhớ lại một cảm xúc, một người, một kỉ niệm quen thuộc nào đó. Sự tri nhận quen thuộc này sẽ hỗ trợ cho việc cảm nhận tiếp thu lời bài hát tốt hơn. Người nghe có thể không hiểu hết các từ mới nhưng những yếu tố về mặt ngữ cảnh có thể hỗ trợ họ hiểu một phần nội dung bài hát và tăng cường khả năng suy đoán nghĩa của từ, đặc biệt nếu yếu tố ngữ cảnh đó có liên quan đến yếu tố văn hóa nguồn của người học, ví dụ: dùng bài hát có nhạc Hàn Quốc để dạy người Hàn Quốc Và hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng: Ở trình độ thấp, dạng tài liệu nghe tốt nhất là phải: 1. Quen thuộc với người học; 2. Nội dung người học có thể đoán trước được; 3. Có quan hệ với những gì mà người học quan tâm, có hứng thú. Người học sẽ có thể dùng kiến thức nền của mình để hỗ trợ cho việc nghe hiểu khi kĩ năng ngoại ngữ của họ còn yếu. Như vậy, việc sử dụng các tài liệu trực quan nói chung và bài hát nói riêng nhằm hỗ trợ trong giờ học có thể giúp người học kích thích trí tưởng tượng, liên tưởng, vận dụng tối đa kiến thức nền và kinh nghiệm sống để hiểu từ và ghi nhớ từ nhanh hơn, giảm đáng kể thời gian giải thích từ vựng hay cấu trúc ngữ pháp bằng ngôn ngữ trung gian, đồng thời giúp họ dễ dàng tái tạo lại khái niệm, hình ảnh hoặc cảm xúc khi ôn tập tại nhà. 2.1.3. Về mặt tâm lí Liên quan đến vấn đề này, Stephen D. Krashen đã đưa ra Giả thuyết Bộ lọc cảm xúc (The Affective Filter) từ năm 1982. Về cơ bản, đó là một sự giải thích về các yếu tố tình cảm liên quan đến học ngôn ngữ như thế nào. Krashen giải thích rằng để việc học tập đạt được hiệu quả tối ưu thì bộ lọc tình cảm phải yếu. Bộ lọc tình cảm yếu có nghĩa là người học có thái độ tích cực đối với việc học. Nếu bộ lọc tình cảm mạnh mẽ, người học sẽ không tìm được đầu vào ngôn ngữ, hoặc đầu vào không được mở để thụ đắc ngôn ngữ. Học sinh tăng bộ lọc bảo vệ này khi chúng bị stress, nản lòng, xấu hổ, lo lắng hoặc chán. Âm nhạc có thể phát triển các giác quan của con người bằng cách thu thập kiến thức và giảm căng thẳng. Do đó, động lực và độ quan tâm đến ngôn ngữ có thể được tăng lên. Việc áp dụng thực tế của Giả thuyết Bộ lọc cảm xúc là giáo viên phải cung cấp một bầu không khí tích cực dẫn đến việc học ngôn ngữ. Trong đó, bài hát là một trong những cách để đạt được một bộ lọc tình cảm yếu và thúc đẩy việc học ngôn ngữ. Nghe bài hát vốn được xếp vào loại nghe giải trí trong 4 loại nghe (gồm nghe thông tin, nghe phê phán – đánh giá, nghe giải trí, nghe thông cảm) (Wolvin và Coakley, 1992). Tất cả các nghiên cứu đều khẳng định việc học tiếng Anh qua các bài hát mang đến một bầu không khí thư giãn cho sinh viên, những người thường lo lắng khi nói tiếng Anh trong một môi trường học tập chính thức, và thúc đẩy động cơ học tập của họ. Việc bổ sung âm nhạc vào lớp học ngoại ngữ như là một phương pháp giảng dạy có thể là một cách để thu hút sự chú ý của học sinh. Như McKenna (1977, trang 42) tuyên bố: “Trẻ em bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất bởi những gì thu hút và liên quan đến chúng và một bài hát được lựa chọn tốt có thể làm được cả hai việc đó”. Với ba ưu điểm nổi trội về mặt văn hóa, tư duy và tâm lí, bài hát là một giải pháp hữu hiệu cho việc nâng cao nhận thức và kĩ năng nghe hiểu, tăng cường động cơ, hứng thú học tập cho người học. 2.2. Phương pháp nghiên cứu 2.2.1. Thiết kế thử nghiệm việc tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào giờ dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học thông qua nguồn tư liệu bài hát Dựa trên những nghiên cứu của các nhà phương pháp luận về lợi ích của việc sử dụng bài hát trong lớp học ngôn ngữ/ngoại ngữ đã nêu trên, chúng tôi muốn đề xuất một số biện pháp lồng ghép yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa và Đỗ Phương Thảo 124 theo hình thức dạy liên môn: Tiếng Việt – Âm nhạc. Chúng tôi muốn áp dụng thử nghiệm hai mô hình dạy học sau: * Mô hình 1: Vận dụng yếu tố văn hóa nguồn của học sinh: dùng ... 7, bài Luyện từ và câu: “Mở rộng vốn từ: Truyền thống”, tại lớp 5B, trường Tiểu học Nậm Pố, xã Nậm Pố, huyện Mường Nhé, tỉnh Điện Biên. Số lượng: 20 học sinh. b. Khảo sát hiệu quả của thực nghiệm: Chúng tôi cũng đã tiến hành khảo sát để đánh giá hiệu quả của hai mô hình thực nghiệm trên. - Công cụ khảo sát: Để khảo sát và đánh giá hiệu quả của việc Nghe hiểu bài hát tiếng Việt, chúng tôi đã thiết kế 2 mẫu Bảng hỏi (Mẫu A: dành cho học sinh lớp 2 thuộc mô hình 1; Mẫu B: dành cho học sinh lớp 5 thuộc mô hình 2). Mỗi mẫu gồm 10 câu hỏi, trong đó có: 9 câu hỏi trắc nghiệm đã được định dạng các phương án trả lời để người đọc tự lựa chọn và 1 câu hỏi tự luận. 9 câu hỏi trắc nghiệm nhằm kiểm tra năng lực từ và câu, năng lực hiểu nội dung chính của bài hát, hiểu các vấn đề văn hóa liên quan và độ hứng thú của học sinh đối với bài học; 1 câu hỏi tự luận yêu cầu học sinh viết suy nghĩ của mình về 1 vấn đề có liên quan đến nội dung bài hát. 10 câu hỏi cũng được điều chỉnh khác nhau ở hai mẫu A và B cho phù hợp với đối tượng học sinh. - Thu thập và phân tích dữ liệu: Dữ liệu thu thập lại được chúng tôi phân tích theo 2 thông số: Số lượng (số lượng học sinh) và Tỉ lệ phần trăm (%). Các mức độ thông hiểu của học sinh được xếp vào 5 mức độ: từ mức độ 1 (Hoàn toàn không); mức độ 2 (Một chút); mức độ 3 (Trung bình); mức độ 4 (Khá cao) đến mức độ 5 (Cao). Đối với câu hỏi tự luận, chúng tôi dùng phương pháp tìm lỗi, thống kê và phân tích lỗi. Ngoài ra, chúng tôi cũng tiến hành chấm điểm hai bài tập Nghe của học sinh hai lớp và thu thập dữ liệu theo 2 thông số: Số lỗi sai (Số lần) và tỉ lệ phần trăm (%). 2.3. Kết quả nghiên cứu Trên cơ sở tổng hợp các kết quả khảo sát từ 2 mẫu Bảng hỏi và kết quả khảo sát chất lượng Nghe hiểu của 2 mẫu bài tập thực nghiệm, chúng tôi thu thập được các kết quả như sau: Bảng 1. Bảng thống kê tỉ lệ học sinh lớp 2A đạt các mức độ Nghe hiểu bài hát (Đơn vị tính: số lượng học sinh, tỉ lệ %. Tổng số: 23 học sinh) Phương diện Các mức độ nghe hiểu của học sinh MĐ1 MĐ2 MĐ3 MĐ4 MĐ5 A. Hiểu từ mới và nhớ từ mới 1 4,3 5 21,7 12 52,2 5 21,7 0 0 B. Nắm cấu trúc ngữ pháp 2 8,7 12 52,2 8 34,8 1 4,3 0 0 C. Hiểu các vấn đề về văn hóa 2 8,7 5 21,7 12 52,2 4 17,4 0 0 D. Hiểu nội dung chính của bài hát và chủ đề có liên quan 1 4,3 7 30,4 11 47,8 4 17,4 0 0 E. Nói lại/ Hát lại chính xác lời của bài hát 4 17,4 11 47,8 6 26,1 2 8,7 0 0 F. Có thể thảo luận hoặc viết về các vấn đề xoay quanh nội dung bài hát 3 13 14 60,8 5 21,7 1 4,3 0 0 Bảng 2. Bảng thống kê tỉ lệ học sinh lớp 5B đạt các mức độ Nghe hiểu bài hát (Đơn vị tính: số lượng học sinh, tỉ lệ %. Tổng số: 20 học sinh) Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa và Đỗ Phương Thảo 126 Phương diện Các mức độ nghe hiểu của học sinh MĐ1 MĐ2 MĐ3 MĐ4 MĐ5 A. Hiểu từ mới và nhớ từ mới 2 10 3 15 6 30 8 40 1 5 B. Nắm cấu trúc ngữ pháp 3 15 8 40 7 35 2 10 0 0 C. Hiểu các vấn đề về văn hóa 0 0 5 25 5 25 7 35 3 15 D. Hiểu nội dung chính của bài hát và chủ đề có liên quan 0 0 3 15 9 45 7 35 1 5 E. Nói lại/ Hát lại chính xác lời của bài hát 1 5 6 30 5 25 6 30 2 10 F. Có thể thảo luận hoặc viết về các vấn đề xoay quanh nội dung bài hát 2 10 5 25 8 40 4 20 1 5 Các mức độ hiểu này được chúng tôi sắp xếp từ hiểu bộ phận đến hiểu toàn bộ, từ thông hiểu đến tái hiện và hồi đáp. Trong đó, ở phương diện hiểu từ vựng và các vấn đề văn hóa có khá nhiều học sinh được xếp mức độ “khá cao”, đặc biệt là việc hiểu các vấn đề văn hóa sau khi nghe bài hát và xem video clip (có 35% học sinh lớp 5 hiểu ở mức độ “khá cao” và 52,2% học sinh lớp 2 được xếp loại “trung bình”). Còn các hoạt động nắm ngữ pháp, tái hiện lời bài hát hay thảo luận/ viết được cho là chưa đạt hiệu quả cao. Lí do là khi học một bài hát, học sinh thường chú trọng tìm hiểu nghĩa của từ mới và quan tâm đến các yếu tố văn hóa thể hiện trong bài hát. Việc tìm hiểu cấu trúc ngữ pháp, học hát và thảo luận xung quanh các vấn đề của bài hát đòi hỏi có nhiều thời gian hơn. - Về việc bài hát có ảnh hưởng đến động cơ học tập của học sinh hay không, có 40% học sinh lớp 2 và 30,4% học sinh lớp 5 khẳng định ở mức độ “khá cao” cho thấy bài hát đã góp phần làm tăng động lực, khuyến khích học sinh trong việc học nghe một cách đáng kể, giúp cho tâm lí “sợ nghe” của các em được giảm bớt. Học sinh hào hứng và thích thú với việc học nghe hơn. - Về mức độ nhận thức bài hát có nhạc dân ca dân tộc thiểu số, lời Việt so với bài hát có nhạc và lời đều là của người Kinh, kết quả của 2 bài tập thực nghiệm trên 2 nhóm đối tượng có trình độ tiếng Việt khác nhau là: Khối học sinh lớp 2 nghe bài hát Xòe hoa có nhạc dân ca Thái, lời Việt và điền 10 từ vào chỗ trống: tổng số lỗi sai là 45 lần; Khối học sinh lớp 5 nghe bài hát Ngày Tết quê em có nhạc Việt, lời Việt và điền 10 từ vào chỗ trống: tổng số lỗi sai là 52 lần. Như vậy, mặc dù các học sinh lớp 5 có khả năng thụ đắc ngôn ngữ cao hơn nhưng lại bị sai nhiều hơn. Việc này có thể có sự ảnh hưởng của yếu tố văn hóa nguồn đến tâm lí tiếp nhận và khả năng thụ đắc ngôn ngữ của nhóm học sinh lớp 2, khiến cho các em hứng thú hơn, tập trung hơn trong khi làm bài, đồng thời các yếu tố về ngữ cảnh đã hỗ trợ các em trong việc hiểu nghĩa của bài hát, khiến các em đạt kết quả tốt hơn. Như vậy, so với việc Nghe hiểu một văn bản ngôn ngữ đơn thuần, không sử dụng tư liệu bài hát thì việc nghe một file mp3 một bài hát và/ hoặc kết hợp với xem một video clip bài hát đó có lồng ghép các hình ảnh chứa đựng các yếu tố văn hóa liên quan, thì hiệu quả rõ rệt được đọng lại ở hai vấn đề: Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số 127 Về mặt tâm lí, học sinh có động cơ học tập cao hơn rất nhiều. Các em thấy hứng thú, giảm căng thẳng, nặng nề. Giờ học sẽ thú vị, sinh động hơn với các tư liệu trực quan chứ không khô khan, bó hẹp trong các vấn đề ngôn ngữ hoặc thông tin kiến thức. Về mặt nhận thức, học sinh thụ đắc ngôn ngữ dễ dàng hơn (hiểu và nhớ nghĩa của từ, ), từ đó tiếp thu các vấn đề về văn hóa có liên quan và rèn luyện các kĩ năng giao tiếp cũng hiệu quả hơn. Những giai điệu, hình ảnh dễ đi sâu vào tâm trí, nhận thức của học sinh hơn là những lời thuyết giảng. Các em được “tai nghe mắt thấy”, nhận thức các vấn đề về ngôn ngữ thông qua các yếu tố phi ngôn ngữ. Đúng như Gardner nói: “trí thông minh của một người và sự quan tâm đến âm nhạc có thể được sử dụng để đạt được các kỹ năng trong các lĩnh vực phi âm nhạc như ngoại ngữ” [dt 4; tr.97] . Đồng thời, cũng cần chú ý đến vai trò của yếu tố văn hóa nguồn và văn hóa đích trong việc hỗ trợ khả năng thụ đắc ngôn ngữ của người học. 2.4. Một số đề xuất cho việc tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học Dựa trên cơ sở tiến hành các phương pháp thực nghiệm nhằm đánh giá hiệu quả, thu thập các ý kiến đề xuất của học sinh và giáo viên về việc lồng ghép các yếu tố văn hóa, âm nhạc vào dạy học tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai thông qua nguồn tư liệu bài hát, chúng tôi xin đưa ra một số vấn đề để cùng trao đổi. Theo chúng tôi, phương pháp lồng ghép yếu tố văn hóa vào việc dạy nghe bài hát cần được tiến hành phù hợp với trình độ của học sinh. Ở trình độ ban đầu: Giáo viên nên sử dụng yếu tố văn hóa nguồn của người học (yếu tố có sẵn ở người học, thuộc về nền văn hóa của cộng đồng dân tộc người học) nhằm khai thác kiến thức nền về văn hóa, những yếu tố liên hội về mặt ngữ cảnh và kinh nghiệm cá nhân của người học. Cụ thể, đối với việc sử dụng bài hát vào việc dạy tiếng Việt trình độ ban đầu, giáo viên có thể dùng bài hát có nhạc dân ca của các dân tộc thiểu số, lời tiếng Việt. Những bài hát này thường là những bài hát truyền thống của các dân tộc ít người, có giai điệu quen thuộc với người học nhưng được thể hiện bằng lời tiếng Việt. Đối với từng khối lớp, giáo viên Tiếng Việt và giáo viên Âm nhạc có thể kết hợp để dạy những giờ học liên môn trên cơ sở nguồn tư liệu là các bài hát của dân tộc thiểu số, lời Việt có trong chương trình môn Âm nhạc của tiểu học. Ví dụ: Quê hương tươi đẹp (dân ca Nùng, lớp 1), Xòe hoa (dân ca Thái, lớp 2), Gà gáy (dân ca Cống – Lai Châu, lớp 3), Ngày mùa vui (dân ca Thái, lớp 3), Bạn ơi lắng nghe (dân ca Ba-na, lớp 4), Hoa Chăm-pa (bài hát Lào, lớp 5), Màu xanh quê hương (dân ca Khmer Nam Bộ, lớp 5), Hát mừng (dân ca Hrê Tây Nguyên, lớp 5) Hoặc có thể sử dụng các bài hát có phần nhạc và lời tiếng Việt nhưng có một số nội dung thuộc về văn hóa của các dân tộc thiểu số như: các hình ảnh đặc trưng của miền núi: “nhà sàn”, “suối”, “nương cao” trong bài hát Đi tới trường (lớp 1), hay các hình ảnh: “chú voi”, “bản”, “rừng già”, “buôn làng” trong bài hát Chú voi con ở Bản Đôn (lớp 4) Sử dụng những bài hát này vào giờ học Nghe tiếng Việt là một trong những biện pháp nhằm tăng cường động cơ học tập ở người học, dùng “liệu pháp tâm lí” và phông kiến thức văn hóa nền làm công cụ hỗ trợ việc thụ đắc một ngôn ngữ mới. Ở trình độ nâng cao: Giáo viên có thể sử dụng yếu tố văn hóa đích (văn hóa Việt) một cách hoàn toàn trong việc lựa chọn và sử dụng bài hát, cụ thể, có thể dùng bài hát có nhạc Việt Nam, lời tiếng Việt, có chứa đựng một số yếu tố văn hóa đặc trưng của người Việt. Vì ở trình độ này, học viên đã có vốn tiếng Việt vừa đủ, khả năng nghe cũng tăng lên, đồng thời nhu cầu của học viên không chỉ dừng lại ở việc rèn luyện các kĩ năng giao tiếp bằng ngôn ngữ mà còn mở rộng ra việc tiếp thu các tri thức về văn hóa đích. Vì vậy, việc lồng ghép văn hóa Việt Nam vào trong việc dạy tiếng Việt là yêu cầu cần thiết. Tuy nhiên, nên có sự kết hợp giữa âm thanh và hình ảnh, kênh tiếng và kênh hình để hỗ trợ người học trong việc nắm bắt thông tin, thụ đắc các vấn đề ngôn ngữ - văn hóa. Đối với một số chủ điểm, có thể lựa chọn ra các bài hát phù hợp. Ví dụ: + Chào hỏi: Con chim vành khuyên (Hoàng Vân) Đỗ Việt Hùng, Nguyễn Thị Ngân Hoa và Đỗ Phương Thảo 128 + Gia đình: Ba ngọn nến lung linh (Phương Thảo, Ngọc Lễ) + Trường lớp: Đi học (Thơ: Hoàng Minh Chính; Nhạc: Bùi Đình Thảo) + Truyền thống: Ngày Tết quê em (Từ Huy) + Tình hữu nghị: Trái đất này là của chúng mình 3. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu, khảo sát và thực nghiệm, chúng tôi nhận thấy bài hát có thể được đưa vào chương trình dạy học tiếng Việt như một công cụ dạy học hay một nguồn tư liệu hỗ trợ mang tính liên ngành Ngôn ngữ - Âm nhạc – Văn hóa rất hiệu quả. Chúng tôi nhấn mạnh vai trò của các yếu tố văn hóa nguồn và văn hóa đích và cũng đề xuất một số biện pháp nhằm lồng ghép các yếu tố này vào việc dạy học tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số cấp tiểu học. Hiệu quả nổi trội nằm ở hai mặt: tình cảm (hứng thú, động cơ học tập) và nhận thức (về các vấn đề ngôn ngữ và văn hóa) của người học. Tuy nhiên, hạn chế trong nghiên cứu của chúng tôi là mới chỉ được tiến hành ở những nhóm đối tượng có số lượng chưa lớn. Trong tương lai, chúng tôi sẽ mở rộng phạm vi nghiên cứu rộng hơn, đa dạng hơn (thử nghiệm trên nhiều nhóm mẫu đến từ các dân tộc thiểu số khác nhau, các vùng miền khác nhau ở Việt Nam) để có được kết quả nghiên cứu sâu sắc và toàn diện hơn. Đồng thời, trong một bài viết khác, chúng tôi sẽ cố gắng mô tả cụ thể hơn nữa quy trình và phương pháp dạy học tiếng Việt thông qua một bài hát. Lời cảm ơn: Bài báo là sản phẩm của đề tài cấp Bộ, mã số B2015-17-77. Nhóm tác giả trân trọng cảm ơn sự tài trợ của Bộ Giáo dục và Đào tạo cho đề tài. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Cullen, B., 1998. The Internet TESL Journal, Music and Song in Discussion. Vol. IV, No. 10,. Retrieved on June 12th 2017 from: [2] Đỗ Ảnh, 2000. Một số suy nghĩ về chức năng văn hóa của hệ thống ngữ liệu trong sách giáo khoa tiếng. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia Thành tố văn hóa trong dạy – học ngoại ngữ (tr. 234-236). Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. [3] Đỗ Việt Hùng, 2010), Quan hệ ngôn ngữ - văn hoá và việc dạy học bản ngữ ở bậc phổ thông. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 11, trang 1 – 5. [4] Failoni J.W., 1993. Music as Means To Enhance Cultural Awareness and Literacy in the Foreign Language Classroom. Mid-Atlantic Journal of Foreign Language Pedagogy, 1, 97-108. [5] Gardner H., 1993. Frames of mind: The theory of multiple intelligences. New York: Basic book. [6] Hoàng Văn Vân, 2000. Văn hóa trong dạy ngoại ngữ: Bình diện lịch sử. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia Thành tố văn hóa trong dạy – học ngoại ngữ (tr. 354-358). Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. [7] Krashen S.D., 1982. Principles and Practice in Second Language Acquisition. New York: Pergamon Press. [8] Lake R., 2002. Enhancing Acquisition through Music. The Jourmal of the imagination in Language Learning and Teaching, Volume VII, 98-106. [9] Nguyễn Thị Ngân Hoa, 2013. Vai trò của công cụ media trong bộ sản phẩm dạy tiếng Việt như một ngôn ngữ thứ hai cho trẻ từ 5 – 10 tuổi. Tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống, số 5 (211); tr.8-11. Tích hợp yếu tố văn hóa và âm nhạc vào dạy học Tiếng Việt cho học sinh dân tộc thiểu số 129 [10] Nguyễn Trọng Báu, 2000. Về quan hệ văn hóa và ngôn ngữ trong lí luận dạy và học ngoại ngữ. Kỷ yếu Hội thảo Khoa học Quốc gia Thành tố văn hóa trong dạy – học ngoại ngữ (tr. 239-241). Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Ngoại ngữ - Đại học Quốc gia Hà Nội. Hà Nội. [11] Orlova N.F., 2003. The Internet TESL Journal, Helping Prospective EFL Teachers Learn How to Use Songs in Teaching Conversation Classes. Vol. IX, No. 3,. Retrieved on June 12th 2017 from: [12] Schoepp K., 2001. The Internet TESL Journal, Reasons for Using Songs in the ESL/EFL Classroom. Vol. VII, No. 2,. Retrieved on June 12th 2017 from: Schoepp-Songs.html. ABSTRACT Intergrating cultural and musical elements in teaching Vietnamese as a second language for ethnic minority pupils at primary level through song material Do Viet Hung1, Nguyen Thị Ngan Hoa2, Do Phương Thao3 1,2 Faculty of Philology, Hanoi National University of Education 3 Faculty of Vietnamese Study, Hanoi National University of Education The use of music and songs for teaching languages has been claimed to have many benefits. However, how to use the songs which contain cultural elements in teaching Vietnamese as a second language for ethnic minority pupils at primary level effectively is still a problem for further research. This article proposes some ways of using the songs as a teaching tool or an interdisciplinary resource (Language, Music and Culture) in teaching Vietnamese for ethnic minority pupils at primary level. Besides, we also survey the effectiveness of this method. The results show that using songs in Vietnamese classrooms has been effective in enhancing the learning motivation and helping them to live in a real cultural and linguistic environment. Keywords: Culture, listening comprehension, Vietnamese, foreigners, songs.
File đính kèm:
- tich_hop_yeu_to_van_hoa_va_am_nhac_vao_day_hoc_tieng_viet_ch.pdf