Thương mại bán lẻ và dịch vụ: Một số nhận định kết quả đạt được từ năm 2000 đến 2013

Để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ nhằm tạo động lực góp phần phát triển kinh tế của nước ta trong những năm tới, cần phải

đánh giá tổng thể thực trạng quá trình phát triển thương mại bán lẻ và dịch

vụ trong các năm qua. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích tình

hình bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của VN từ năm 2000 đến 2013 theo 2 giai

đoạn là trước và sau khi gia nhập WTO. Nghiên cứu này được thực hiện

thông qua phương pháp phân tích thống kê kinh tế, các số liệu thu thập

về tình hình bán lẻ hàng hóa và dịch vụ từ năm 2000 đến 2013, phân tích

dựa trên các báo cáo chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu. Kết quả

phân tích chỉ ra những nguyên nhân mà tình hình bán lẻ và dịch vụ của VN

có sự giảm sút trong những năm qua và thị trường bán lẻ vẫn chưa thật sự

thu hút các nhà đầu tư bán lẻ nổi tiếng của thế giới tham gia.

pdf 7 trang kimcuc 13440
Bạn đang xem tài liệu "Thương mại bán lẻ và dịch vụ: Một số nhận định kết quả đạt được từ năm 2000 đến 2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thương mại bán lẻ và dịch vụ: Một số nhận định kết quả đạt được từ năm 2000 đến 2013

Thương mại bán lẻ và dịch vụ: Một số nhận định kết quả đạt được từ năm 2000 đến 2013
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
34
1. Tổng quan
Thương mại bán lẻ và dịch vụ 
của VN trong hơn 25 năm qua đã 
đạt được những thành quả thể hiện 
qua mức độ tăng trưởng hàng năm, 
tuy nhiên bên cạnh những thành 
tựu vẫn còn tồn động khá nhiều hạn 
chế chưa khai thác hết tiềm năng và 
sự phát triển chưa thật sự bền vững. 
Với thị trường năng động có dân số 
90 triệu người, trong đó nhóm chi 
tiêu cho tiêu dùng lớn nhất đang ở 
tuổi 22 - 55, chiếm hơn 70% dân 
số. Đây là dấu hiệu tích cực về tiềm 
năng phát triển của thị trường bán 
lẻ trong những năm tới. Năm 2013 
tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch 
vụ của cả nước ước tính đạt khoảng 
130 tỷ USD. Theo cam kết mở cửa 
thị trường bán lẻ khi gia nhập Tổ 
chức Thương mại Thế giới -WTO, 
VN đã chính thức cho phép các nhà 
đầu tư nước ngoài tham gia thành 
lập doanh nghiệp bán lẻ 100% vốn 
nước ngoài từ năm 2009. Tính đến 
thời điểm hiện tại thị trường bán 
lẻ VN vẫn chưa xuất hiện nhiều 
những công ty kinh doanh bán lẻ 
nổi tiếng thế giới. 
2. Thực trạng thương mại bán 
lẻ và dịch vụ từ 2000 đến 2013
2.1. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và 
dịch vụ
Trong những năm qua tình hình 
kinh tế thế giới có nhiều khó khăn, 
riêng trong năm 2013 kinh tế thế 
giới có dấu hiệu đang phục hồi trở 
lại sau suy thoái nhưng triển vọng 
kinh tế toàn cầu nhìn chung chưa 
vững chắc, nhất là đối với các nền 
kinh tế phát triển. Những yếu tố bên 
ngoài đã tác động không nhỏ đến 
nền kinh tế VN. Tình hình trong 
nước đang đối phó với những khó 
khăn như tỷ lệ nợ xấu ngân hàng 
ở mức cao, thị trường bất động 
sản chưa khởi sắc, chứng khoán 
sụt giảm, doanh nghiệp thiếu vốn, 
nhiều doanh nghiệp phải thu hẹp 
sản xuất, dừng hoạt động hoặc 
giải thể, lao động không việc làm 
gia tăng đã ảnh hưởng trực tiếp 
sức mua của người tiêu dùng giảm 
đáng kể và thị trường bán lẻ của cả 
nước sụt giảm. Tính đến cuối năm 
2013, tổng mức bán lẻ hàng hóa và 
dịch vụ của cả nước ước tính đạt 
2.618 nghìn tỉ đồng, tăng 12,6% 
so với năm 2012 và là mức tăng 
thấp nhất tính tứ năm 2001 đến 
nay, nếu loại trừ yếu tố giá thì năm 
2013 tăng 5,6%. Tổng mức bán lẻ 
hàng hóa và dịch vụ năm 2013 của 
kinh tế nhà nước đạt 258,6 nghìn 
Thương mại bán lẻ và dịch vụ: 
Một số nhận định kết quả đạt được 
từ năm 2000 đến 2013
Ts. Bùi THaNH TrÁNG
Để thu hút các nhà đầu tư trong nước và nước ngoài tham gia vào lĩnh vực bán lẻ và dịch vụ nhằm tạo động lực góp phần phát triển kinh tế của nước ta trong những năm tới, cần phải 
đánh giá tổng thể thực trạng quá trình phát triển thương mại bán lẻ và dịch 
vụ trong các năm qua. Mục tiêu của nghiên cứu này nhằm phân tích tình 
hình bán lẻ hàng hóa và dịch vụ của VN từ năm 2000 đến 2013 theo 2 giai 
đoạn là trước và sau khi gia nhập WTO. Nghiên cứu này được thực hiện 
thông qua phương pháp phân tích thống kê kinh tế, các số liệu thu thập 
về tình hình bán lẻ hàng hóa và dịch vụ từ năm 2000 đến 2013, phân tích 
dựa trên các báo cáo chỉ số phát triển kinh doanh bán lẻ toàn cầu. Kết quả 
phân tích chỉ ra những nguyên nhân mà tình hình bán lẻ và dịch vụ của VN 
có sự giảm sút trong những năm qua và thị trường bán lẻ vẫn chưa thật sự 
thu hút các nhà đầu tư bán lẻ nổi tiếng của thế giới tham gia. 
Từ khóa: Thị trường bán lẻ và dịch vụ, WTO, VN, nhà đầu tư, phát 
triển kinh doanh.
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
35
tỷ đồng, chiếm 9,9% và giảm 8,6% 
so năm 2012. Kinh tế ngoài nhà 
nước đạt 2.269,5 nghìn tỷ đồng, 
chiếm 86,7%, tăng 15,3%. Khu 
vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 
89,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,4% 
tăng 32,8%. Xét theo ngành kinh 
doanh, thì kinh doanh thương 
nghiệp đạt 2.009,2 nghìn tỷ đồng, 
chiếm 76,7% và tăng 12,2% so với 
năm trước; khách sạn nhà hàng đạt 
315,8 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,1% 
và tăng 15,2%; dịch vụ đạt 268,6 
nghìn tỷ đồng, chiếm 10,3% và 
tăng 13,3%; du lịch đạt 24,3 nghìn 
tỷ đồng, chiếm 0,9% và tăng 3,5%. 
Xét về cơ cấu theo thành phần kinh 
tế từ 2000 đến 2013, tỉ lệ của kinh 
tế ngoài nhà nước tăng từ 80% lên 
85%, kinh tế nhà nước giảm từ 
17% xuống 12%, khu vực có vốn 
đầu tư nước ngoài chiếm tỉ lệ nhỏ 
và đang có xu hướng gia tăng từ 
1,5% lên 3,0%.
Tính đến năm 2013, tổng mức 
bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tăng 
gấp 12 lần so với năm 2000, năm 
2008 có mức tăng trưởng cao nhất, 
được thể hiện tại Bảng 1. Xét theo 
từng giai đoan, từ 2000 -2006- 
trước khi gia nhập WTO, mức tăng 
trưởng bình quân hàng năm-CAGR 
(Compound Annual Growth Rate) 
của tổng mức lưu chuyển hàng hóa 
bán lẻ và dịch vụ là 18,4% (Bảng 
2). Giai đoạn từ 2007 -2013 có 
mức tăng trưởng là 23,27%. Tính 
cho cả giai đoạn từ 2000 đến 2013 
có mức tăng trưởng là 20,97%. 
Nếu loại yếu tố tăng giá thì mức 
tăng trưởng bình quân hàng năm 
của cả giai đoạn từ 2000 đến 2013 
ước tính khoảng 10%. Kết quả này 
phản ánh tốc độ tăng trưởng chưa 
cao, sau 7 năm gia nhập WTO, khả 
năng thu hút đầu tư nước ngoài và 
khai thác thị trường bán lẻ hàng hóa 
và dịch vụ vẫn còn nhiều hạn chế. 
Nhìn nhận kết quả đạt được cần 
xem xét cả mặt tích cực và những 
hạn chế. Thành tựu đạt được của 
thương mại bán lẻ và dịch vụ là 
nhờ vào tốc độ tăng trưởng của nền 
kinh tế trong các năm qua khá ổn 
định, quy mô thị trường được mở 
rộng, cùng với mức dân số 90 triệu 
người, nhu cầu tiêu dùng tăng từng 
năm và 70% thu nhập của người 
tiêu dùng là dành cho mua sắm, đời 
sống nhân dân từng bước được cải 
thiện ở hầu hết các vùng miền của 
cả nước. Đồng thời phản ánh tính 
năng động của kinh tế ngoài nhà 
nước, khu vực này chiếm tỉ trọng 
85% tổng mức bán lẻ, và kinh tế 
nhà nước có xu hướng giảm thể 
hiện tính phù hợp theo cam kết 
của WTO. Về mặt hạn chế là do 
tác động của những yếu tố khách 
quan như khủng hoảng kinh tế thế 
giới ảnh hưởng trực tiếp đến kinh 
tế VN. Về chủ quan có nhiều yếu 
tố ảnh hưởng đến sự phát triển 
cả về mặt số lượng và chất lượng 
của thương mại bán lẻ và dịch 
vụ. Có thể nhìn nhận tiến độ triển 
khai thực hiện các chính sách phát 
triển thương mại bán lẻ và dịch vụ 
chậm và thiếu đồng bộ, cơ sở hạ 
tầng thương mại chưa được đầu tư 
đúng mức. Cơ chế chính sách quản 
lý chưa theo kịp sự phát triển của 
hoạt động thương mại bán lẻ, quản 
lý nhà nước trong lĩnh vực này vẫn 
còn nhiều hạn chế. Quy hoạch phát 
triển hệ thống phân phối bán lẻ còn 
nhiều bất cập, dẫn tới phát triển hệ 
thống phân phối mang tính tự phát, 
nhiều chợ xây xong theo quy hoạch 
bị bỏ hoang, chợ tự phát, chợ lưu 
Hình 1: Tổng mức bán lẻ hàng hóa & dịch vụ và tốc độ tăng trưởng
Nguồn : Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (2001, 2003, 2005, 2008, 2012, 2013)
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
36
động vẫn tiếp tục hình thành. Liên 
kết giữa sản xuất và thương mại 
còn yếu, chưa hình thành các chuỗi 
logistics trong kinh doanh thương 
mại. Chưa xây dựng cơ chế hoạt 
động có hiệu quả về giám sát chất 
lượng, mức độ an toàn vệ sinh của 
hàng hóa lưu thông qua các kênh 
phân phối bán lẻ. Sự cạnh tranh 
thiếu lành mạnh giữa các doanh 
nghiệp, các doanh nghiệp kinh 
doanh bán lẻ thiếu vốn và hạn chế 
về nguồn nhân lực quản lý. 
2.2. Chỉ số phát triển kinh doanh 
bán lẻ
Theo cam kết của WTO, VN 
đã mở cửa thị trường bán lẻ từ 
ngày 1/1/2009 nhưng cho đến 
nay, các tập đoàn lớn của nước 
ngoài chuyên kinh doanh trong 
lĩnh vực bán lẻ chưa đầu tư nhiều, 
chỉ bắt đầu nghiên cứu, tìm hiểu 
thị trường để xây dựng chiến 
lược đầu tư lâu dài hơn. Các nhà 
đầu tư lớn khi thâm nhập vào 
thị trường bán lẻ của một quốc 
gia thường xem xét nhiều yếu 
tố, trong đó kết quả nghiên cứu 
về chỉ số phát triển kinh doanh 
bán lẻ toàn cầu (Global Retail 
Development Index -GRDI) là 
một trong những yếu tố mang 
tính quyết định. Hàng năm, Hãng 
tư vấn A.T.Kearney của Mỹ thực 
hiện khảo sát tại 30 quốc gia có 
nền kinh tế mới nổi để xếp loại 
mức độ phát triển kinh doanh 
bán lẻ. Chỉ số GRDI được xây 
dựng dựa theo thang điểm 100, 
và chia thành bốn nhóm lớn, 
có trọng số bằng nhau là 25%, 
thị trường nào có tổng điểm số 
càng cao có nghĩa là độ hấp dẫn 
và triển vọng phát triển của thị 
trường đó càng lớn. Bốn tiêu 
chí của GRDI bao gồm (1) Mức 
độ rủi ro quốc gia và rủi ro kinh 
doanh (Country and Business 
Risk), trong đó 0 điểm là rủi ro 
cao và 100 điểm là rủi ro thấp; 
(2) Độ hấp dẫn của thị trường 
(Market Attractiveness), trong đó 
0 điểm là độ hấp dẫn thấp và 100 
điểm là độ hấp dẫn cao; (3) Độ 
bão hoà của thị trường (Market 
Saturation), trong đó 0 điểm là 
bão hoà và 100 điểm là không 
bão hoà; (4) Áp lực thời gian 
(Time Pressure), trong đó 0 điểm 
là không có áp lực về thời gian 
và 100 điểm là cần khẩn trương 
thâm nhập thị trường. Sau một 
năm gia nhập WTO, vào năm 
2008, VN trở thành thị trường 
hấp dẫn nhất thế giới, vượt qua 
Ấn Độ, Nga và Trung Quốc có 
chỉ số GRDI cao nhất. Kết quả 
này là do kinh tế tăng trưởng 
mạnh, thể chế chính sách cải tiến 
theo hướng thân thiện với nhà 
đầu tư nước ngoài và nhu cầu tiêu 
dùng tăng nhanh, nhiều mô hình 
bán lẻ hiện đại xuất hiện và hoạt 
động nhương quyền kinh doanh 
bắt đầu phát triển. Tuy nhiên, chỉ 
sau một năm thị trường bán lẻ của 
VN bắt đầu có dấu hiệu xấu đi, 
chỉ số GRDI rớt xuống hàng thứ 
6 năm 2009, thứ 14 năm 2010, 
thứ 23 năm 2011, năm 2012 và 
2013 không còn nằm trong danh 
sách 30 quốc gia đang phát triển 
có thị trường bán lẻ sôi động nhất 
thế giới. Trong bốn tiêu chí đánh 
giá, tiêu chí mức độ hấp dẫn thị 
trường của VN trong năm 2011 là 
8,4%, chứng tỏ thị trường bán lẻ 
chưa thực sự hấp dẫn đối với nhà 
đầu tư nước ngoài. Các nhà đầu 
tư đánh giá thị trường bán lẻ VN 
Hạng Quốc gia Hấp dẫn thị trường
Phát triển 
bán lẻ
Rủi ro quốc gia 
& kinh doanh Điểm số
1 China 37.0 14.3 10.1 61.4
2 UAE 38.8 8.2 11.9 58.9
3 Kuwait 31.4 7.2 9.9 48.6
4 Russia 30.4 8.1 7.8 46.4
5 Saudi Arabia 25.6 7.4 10.9 43.9
6 India 25.8 8.0 8.2 42.0
7 Brazil 23.6 7.5 9.0 40.1
8 Turkey 21.3 7.3 8.8 37.4
9 Vietnam 23.3 6.9 7.1 37.3
10 Chile 16.4 8.3 12.2 36.
Bảng 1: Tăng trưởng bình quân hàng năm của 
tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ
Nguồn : Tổng cục Thống kê, Niên giám Thống kê (2001, 2003, 2005, 2008, 2012, 2013)
Giai đoạn Tổng số (%)
Chia ra
Kinh tế
Nhà nước (%)
Kinh tế ngoài
Nhà nước
(%)
Khu vực có vốn 
đầu tư nước ngoài 
(%)
2000 - 2006 18.04 11.50 18.76 36.39
2007 - 2013 23.27 21.68 23.53 21.70
2000 - 2013 20.97 15.62 21.64 28.46
Bảng 2: 10 quốc gia được xếp hạng cao về chỉ số GRDI trong 10 năm
Nguồn: A.T.Kearney, Global Retail Development Index (GRDI), 10-year perspective, 2011
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
37
còn nhiều rào cản như bất ổn của 
tình hình kinh tế vĩ mô, thủ tục 
cấp giấy phép còn phức tạp, sức 
mua trên thị trường giảm, quy 
hoạch thị trường bán lẻ không 
đồng bộ, chất lượng chuỗi cung 
ứng kém, chất lượng nguồn nhân 
lực còn thấpĐặc biệt, yếu kém 
trong cơ sở hạ tầng và chi phí 
thuê mặt bằng quá cao đang là 
rào cản với các nhà bán lẻ nước 
ngoài.
Mặc dù chỉ số GRDI liên 
tục rớt hạng trong các năm qua, 
nhưng xét trong 10 năm từ 2001 
-2010, VN được xếp hạng thứ 9 
trong nhóm 10 quốc gia có mức 
hấp dẫn thị trường và tốc độ phát 
triển bán lẻ cao. 
Theo báo cáo của A.T.Kearney, 
trong 10 năm VN được xếp hạng 
trong nhóm 5 quốc gia (gồm 
Trung Quốc, Ấn Độ, Nga, VN, 
Chi Lê) có mức chi tiêu bán 
lẻ tính trên đầu người (Retail 
Spending-CAGR 2001-2010 per 
capita) cao hơn mức trung bình 
là 9% (CAGR 2001-2010 per 
capita của VN là 12%), và tốc 
độ tăng trưởng bình quân của 
kênh bán lẻ hiện đại tính trên đầu 
người của VN là 28% so với mức 
trung bình là 20%. Theo dự báo 
của A.T.Kearney, thị trường bán 
lẻ VN vẫn còn sức hút nhất định, 
nhờ quy mô thị trường, số lượng 
người tiêu dùng và kênh bán lẻ 
hiện đại là xu hướng phát triển 
tất yếu trong tương lai. Điều này 
có thể nói rằng nếu ổn định được 
tình hình vĩ mô và khôi phục 
được sự hấp dẫn, thì tương lai 
phát triển của thị trường bán lẻ 
nước ta sẽ rất cao. 
2.3. Kênh bán lẻ truyền thống và 
hiện đại
Đề cập đến thương mại bán lẻ 
cần phải xem xét cả thương mại 
bán lẻ truyền thống và thương 
mại bán lẻ hiện đại. Cho đến nay, 
kênh bán lẻ truyền thống vẫn 
giữ vai trò chính trong việc thực 
hiện phân phối hàng hóa bán lẻ, 
chiếm gần 80% tổng mức bán lẻ. 
Tính đến cuối năm 2012, cả nước 
có 8.547 chợ, trong đó có 7.374 
chợ loại 3 chiếm 86%, 926 chợ 
loại 2; và 247 chợ loại 1. Nhìn 
chung, sự đa dạng của chợ truyền 
thống đã góp phần phục vụ nhu 
cầu mua sắm của nhiều loại đối 
tượng tiêu dùng. Tuy nhiên, chất 
lượng của các chợ thấp, nhiều chợ 
xuống cấp không có kinh phí sửa 
chữa, vệ sinh môi trường không 
đảm bảo. Chất lượng vệ sinh 
an toàn hàng hóa và thực phẩm 
không được kiểm tra thường 
xuyên, chưa hình thành hệ thống 
chuỗi kinh doanh từ nguồn cung 
ứng đến chợ và đến người tiêu 
dùng, nên hàng hóa khó truy xét 
nguồn gốc. Do vậy, vấn đề quản 
lý hoạt động kinh doanh tại các 
chợ cần được xem xét kỹ trong 
tổng thể phát triển thương mại 
bán lẻ nhằm góp phần nâng cao 
văn minh thương mại trong quá 
trình hội nhập.
Nhiều chính sách của Nhà 
nước ưu tiên phát triển thương 
mại bán lẻ trong thời gian qua đã 
tạo điều kiện nâng cấp các chợ 
truyền thống, đồng thời khuyến 
khích các nhà đầu tư trong và 
ngoài nước tham gia xây dựng 
và phát triển kênh bán lẻ hiện 
đại đã làm thay đổi diện mạo của 
thương mại bán lẻ cả nước, đặc 
biệt tại các thành phố lớn. Tính 
đến nay, cả nước có 659 siêu thị 
và 116 trung tâm thương mại. 
Ngoài ra, còn có hàng nghìn 
cửa hàng chuyên doanh và cửa 
hàng tiện lợi (theo mô hình hiện 
đại của các nước tiên tiến) phân 
bố rộng khắp cả nước. Ước tính 
chung, thị phần các loại hình bán 
lẻ hiện đại chiếm khoảng 20% 
tổng mức bán lẻ, gấp đôi thời 
điểm trước khi gia nhập WTO. Sự 
phát triển nhanh chóng của kênh 
bán lẻ hiện đại tạo ra áp lực cạnh 
tranh trong nội bộ các siêu thị và 
trung tâm thương mại, cũng như 
cạnh tranh giữa kênh bán lẻ hiện 
đại và kênh bán lẻ truyền thống. 
Chính sự tranh tranh đã làm thay 
đổi chất lượng phục vụ và người 
tiêu dùng có thêm nhiều lựa chọn 
mua sắm hơn. 
Bên cạnh sự phát triển nhanh 
của thương mại bán lẻ truyền 
thống và bán lẻ hiện đại, thì 
thương mại bán lẻ trực tuyến 
đã và đang phát triển nhanh. 
Hãng A.T.Kearney (2012), đã 
có những nhận định rằng công 
nghệ đang làm thay đổi hướng 
kinh doanh của các hãng bán lẻ 
2008 2009 2010 2011 2012
Số lượng chợ
Loại 1
Loại 2
Loại 3
7.871
215
921
6.735
8.495
219
954
7322
8.528
224
907
7397
8.550
232
936
7.382
8.547
247
926
7.374
Số lượng siêu thị - 451 571 638 659
Số lượng trung tâm thương mại 72 85 101 116 115
Bảng 3: Kênh bán lẻ truyền thống và hiện đại
Nguồn : Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (2008, 2012)
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
38
tại những thị trường mới nổi. Kỳ 
vọng và hành vi của người tiêu 
dùng cũng đang dần trở nên khác 
biệt do những biến đổi về kinh 
tế và tốc độ tiếp cận thông tin. 
Người tiêu dùng hiện đã có ý 
thức cao về nhãn hiệu, hàng hóa 
và liên hệ chặt chẽ hơn với cộng 
đồng. Thương mại điện tử và bán 
lẻ hiện đại đang dần vượt qua 
hình thức bán lẻ truyền thống. 
Sự phát triển của công nghệ 
thông tin đã góp phần làm cho 
thương mại điện tử của VN phát 
triển nhanh chóng. Doanh số bán 
hàng của lĩnh vực này đã có sự 
tăng trưởng khá nhanh, ước tính 
doanh số thương mại điện tử tính 
riêng cho thị trường hàng tiêu 
dùng của VN trong năm 2012 đạt 
khoảng 600 triệu USD và dự báo 
đến năm 2015 sẽ đạt trên dưới 
1,3 tỷ USD (Bộ Công thương, 
2012). Xây dựng các chính sách 
phát triển đúng và thích hợp với 
từng thời kỳ sẽ tạo ra động lực 
và đòn bẩy kết hợp cả ba hình 
thức bán lẻ là truyền thống, hiện 
đại và trực tuyến chắc chắn góp 
phần khai thác tiềm năng của thị 
trường bán lẻ, đóng góp vào sự 
phát triển bền vững nền kinh tế và 
đẩy mạnh quá trình công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa đất nước. 
2.4. Thực trạng phát triển lĩnh 
vực dịch vụ
Lĩnh vực dịch vụ của VN 
đang trong giai đoạn phát triển 
và đạt khá nhiều tiến bộ, mức 
tăng trưởng bình quân hàng năm 
khoảng 7%. Lĩnh vực dịch vụ của 
VN tăng trưởng nhanh sau khi gia 
nhập WTO, đóng góp bình quân 
hàng năm 40,09% GDP (Bảng 4) 
và sử dụng khoảng 28% lực lượng 
lao động của đất nước. Mức này 
còn thấp so với tỷ trọng dịch vụ 
trong tổng sản phẩm của các 
nước đang phát triển có mức thu 
nhập trung bình (tỷ trọng của khu 
vực dịch vụ đạt khoảng 55%), và 
ở các nước công nghiệp thu nhập 
cao (tỷ trọng của khu vực dịch vụ 
đạt khoảng 70% tổng sản phẩm). 
Tỷ trọng GDP của dịch vụ năm 
2012, VN đứng thứ 9 trên 10 
nước Đông Nam Á (Singapore là 
77,2% cao nhất trong 10 nước). 
Có thể nhìn nhận trong 13 năm 
qua, lĩnh vực dịch vụ chưa có sự 
thay đổi đáng kể so với các nước 
trong khu vực như Singapore, 
Thái Lan, Malaysia.
Xét về cơ cấu của ngành dịch 
vụ, theo số liệu Bảng 5 phần lớn 
các ngành dịch vụ chiếm tỉ trọng 
cao như thương mại, bất động 
sản, kho bãi là những ngành chưa 
tạo ra giá trị gia tăng cao cho nền 
kinh tế. Các ngành mang tính 
chiến lược để góp phần phát triển 
kinh tế bền vững như giáo dục, y 
tế, tài chính, khoa học công nghệ 
và truyền thông chiếm tỉ trọng 
nhỏ (Niên giám thống kê 2012, 
thông tin và truyền thông chỉ 
chiếm 0,78%). Điều này phản 
ánh chất lượng tăng trưởng kinh 
Giai đoạn Tỉ trọng GDP của dịch vụ (%)
Tăng trưởng bình quân hàng năm 
(%)
2000 -2006 39,58 6,95
2007 -2012 42,56 7,09
2000 -2012 40,96 7,02
Bảng 4: Tỉ trọng GDP của dịch vụ và tăng trưởng bình quân hàng năm (%)
 Nguồn : Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (2001, 2003, 2005, 2008, 2012)
Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
39
tế trong lĩnh vực dịch vụ còn thấp 
và chưa tạo động lực để góp phần 
phát triển bền vững. Trong những 
năm qua, phát triển khu vực dịch 
vụ thiên về hướng nâng cao tỉ 
trọng GDP của ngành dịch vụ mà 
chưa chú trọng đến chất lượng 
phát triển dịch vụ. Sự phát triển 
“nóng” của một số ngành dịch vụ 
như chứng khoán, bất động sản, 
ngân hàng đã tạo ra hậu quả nợ 
xấu gia tăng trong lĩnh vực ngân 
hàng. Do vậy, cần phải chú trọng 
chuyển dịch cơ cấu dịch vụ theo 
hướng tập trung nâng cao chất 
lượng và phát triển của một số 
ngành được xem là chiến lược 
nhằm mang lại sự phát triển bền 
vững cho lĩnh vực dịch vụ và cả 
nền kinh tế.
3. Gợi ý một số kiến nghị 
Theo quy hoạch tổng thể phát 
triển thương mại VN giai đoạn 
2011 – 2020 và định hướng đến 
2030 của Bộ Công thương, việc 
phát triển thương mại phải gắn 
liền với quy mô, trình độ phát 
triển sản xuất trong nước trong 
thời kỳ thực hiện công nghiệp 
hoá, hiện đại hoá và tham gia hội 
nhập kinh tế khu vực và thế giới 
trong giai đoạn 2011–2020, tầm 
nhìn đến 2030. Mục tiêu nâng 
cao thứ bậc trong bảng xếp hạng 
môi trường thương mại toàn cầu. 
Đồng thời căn cứ theo quyết 
định “Phê duyệt chiến lược tổng 
thể phát triển khu vực dịch vụ 
của VN đến năm 2020” số 175/
QĐ-TTg của Thủ tướng Chính 
phủ. Mục tiêu phát triển dịch 
vụ là hiệu quả, đạt chất lượng 
và năng lực cạnh tranh quốc tế; 
phát triển các lĩnh vực dịch vụ có 
tiềm năng lớn, có sức cạnh tranh 
và giá trị gia tăng cao phục vụ 
quá trình công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước, đảm bảo tăng 
trưởng bền vững và dần từng 
bước chuyển sang nền kinh tế tri 
thức. Dựa trên quy hoạch và kết 
quả phân tích trên, để thực hiện 
đạt các mục tiêu trên, nhóm tác 
giả đề xuất một số kiến nghị sau 
đây:
- Tập trung đầu tư cơ sở hạ 
tầng thương mại và dịch vụ, 
triển khai thực hiện Nghị quyết 
TW4 khóa XI (Nghị quyết số 
13-NQ/TW ngày 16/1/2012) về 
xây dựng hệ thống kết cấu hạ 
tầng đồng bộ nhằm đưa nước 
ta cơ bản trở thành nước công 
nghiệp theo hướng hiện đại vào 
năm 2020, trong đó cần cụ thể 
hóa định hướng về chiến lược 
phát triển hạ tầng thương mại và 
dịch vụ. Hiện tại, cơ sở hạ tầng 
thương mại thiếu về số lượng 
và yếu về chất lượng, chưa đáp 
ứng được yêu cầu phát triển kênh 
phân phối hiện đại, đặc biệt là tại 
các thành phố lớn. Điều này, làm 
hạn chế khả năng thu hút các nhà 
đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực 
bán lẻ có thương hiệu nổi tiếng 
tham gia vào thị trường VN. Tại 
các vùng nông thôn, cơ sở hạ 
tầng thương mại và dịch vụ phát 
triển chậm, chưa đồng đều, tiến 
độ nâng cấp còn chậm, chưa đáp 
ứng nhu cầu mua sắm của người 
dân.
- Có những chính sách ưu tiên 
cho các nhà đầu tư trong nước 
tham gia vào lĩnh vực bán lẻ hiện 
đại như ưu tiên về vị trí, hỗ trợ 
tiếp cận nguồn vốn. Để thu hút 
các nhà đầu tư nước ngoài vào 
lĩnh vực bán lẻ hiện tại cần tạo ra 
sức hấp dẫn thị trường, một trong 
các chính sách cần lưu ý là cần 
công khai và thống nhất những 
quy định liên quan đến các tiêu 
chí ENT (kiểm tra nhu cầu kinh 
tế). Thay đổi và điều chỉnh Quy 
định kiểm tra ENT phù hợp với 
điều kiện của VN vừa khuyến 
khích nhà đầu tư trong nước và 
nước ngoài, đảm bảo có các chỉ 
Nhóm ngành dịch vụ
Giai đoạn
2000-2006 2007 -2012 2000 -2013
Ngành dịch vụ 39,58 42,56 40,96
Thương mại 13,85 13,35 13,62
Vận tải, kho bãi , truyền thông 4,11 4,14 4,12
Lưu trú và ăn uống 3,30 3,89 3,57
Tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 1,81 4,25 2,94
Kinh doanh bất động sản 4,30 5,28 4,75
Khoa học, công nghệ 0,59 1,08 0,81
Hành chính, dịch vụ hỗ trợ 2,70 2,62 2,66
Đảng, đoàn thể, hiệp hội 0,13 0,30 0,21
Giáo dục, đào tạo 3,32 2,56 2,97
Y tế và trợ giúp xã hội 1,41 1,16 1,29
Nghệt thuật, giải trí 0,54 0,58 0,56
Làm thuê công việc trong các hộ gia 
đình 0,19 0,16 0,17
Dịch vụ khác 2,07 1,70 1,90
Bảng 5: Tỉ trọng GDP của các nhóm ngành dịch vụ (%)
Nguồn : Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê (2001, 2003, 2005, 2008, 2012)
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 15 (25) - Tháng 03-04/2014
Hướng Tới Ổn Định Kinh Tế Vĩ Mô VN
40
tiêu định lượng, cụ thể hóa tiêu 
chí “số lượng các nhà cung cấp 
dịch vụ”, “mật độ dân cư”, “quy 
mô quản lý”, “quy định cho vùng 
thành thị, cận thành thị và nông 
thôn”. Để phát triển kênh phân 
phối bán lẻ hiện đại cần phải có 
nguồn vốn đầu tư lớn, trong khi 
khả năng thu hồi vốn chậm, sự 
cạnh tranh khá gay gắt và thách 
thức của lĩnh vực này khá cao. 
Hiện tại, nguồn vốn và năng lực 
quản lý của các doanh nghiệp 
trong nước còn nhiều hạn chế, 
nếu muốn đẩy nhanh tiến trình 
hôị nhập thì các chính sách càng 
thuận lợi sẽ tạo động lực thúc 
đẩy nhà đầu tư tham gia.
- Với mục tiêu là đảm bảo thị 
trường bán lẻ và dịch vụ phát 
triển bền vững, cần có sự hỗ trợ 
từ Chính phủ mà không vi phạm 
các cam kết gia nhập WTO như 
hỗ trợ pháp lý, đào tạo nâng cao 
năng lực quản lý và kỹ năng bán 
hàng; xây dựng thương hiệu; 
phương pháp quản lý hiện đại; 
thông tin thị trường, nguồn hàng; 
tư vấn pháp lý trong việc liên kết 
nhà sản xuất - nhà phân phối. 
Nhà nước nên có chính sách 
khuyến khích các doanh nghiệp 
phân phối vốn trong nước liên 
doanh, liên kết với các tập đoàn 
bán lẻ hàng đầu thế giới để phát 
triển cơ sở bán lẻ tại các thành 
phố lớn ở VN. 
- Nhà nước cần có chính sách 
hỗ trợ đầu tư nâng cấp các chợ, 
quy hoạch các chợ loại 1, loại 
2, loại 3, và hạn chế các chợ tự 
phát. Đảm bảo thương mại bán 
lẻ truyền thống phát triển theo 
hướng văn minh và hội nhập 
kinh tế thế giới. 
- Các doanh nghiệp thương 
mại bán lẻ và doanh nghiệp dịch 
vụ trong nước cần đầu tư cơ sở 
vật chất, xây dựng đội ngũ quản 
lý, xây dựng thương hiệu, nâng 
cao chất lượng phục vụ khách 
hàng. Đối với doanh nghiệp 
thương mại cần chủ động trong 
hợp tác liên kết, liên doanh thu 
mua nhằm đảm bảo nguồn hàng 
ổn định với chất lượng được đảm 
bảo. Các doanh nghiệp thương 
mại trong nước chủ động hợp tác 
liên kết với nước ngoài dưới các 
hình thức khác nhau, vừa để tăng 
cường tiềm lực tài chính, vừa để 
tiếp thu các công nghệ phát triển 
hoạt động thương mại có hiệu 
quả. Đối với các doanh nghiệp 
dịch vụ cần chú trọng nhiều về 
phát triển nguồn nhân lực. Hầu 
hết các loại dịch vụ trong đó con 
người là yếu tố quan trọng quyết 
định chất lượng dịch vụ. Do vậy, 
đầu tư phát triển nguồn nhân lực 
sẽ là động lực chính cho sự phát 
triển lĩnh vực dịch vụ VN đạt 
hiệu quả và có khả năng cạnh 
tranh trong quá trình hội nhập 
quốc tế. 
- Phát triển thương mại điện 
tử, trong đó chú trọng hoàn thiện 
khung pháp lý liên quan tới việc 
thừa nhận giá trị pháp lý của 
chứng từ điện tử, các quy định 
kinh doanh dịch vụ thương mại 
điện tử tạo môi trường thuận lợi 
cho các doanh nghiệp và khuyến 
khích người tiêu dùng mua bán 
trực tuyến. Đảm bảo an toàn về 
tài chính, hàng hóa và thông tin 
trong giao dịch thương mại điện 
tử.
- Xem xét lại các chính sách, 
quy định pháp lý đối với lĩnh vực 
dịch vụ nhằm mục tiêu là giảm 
các rào cản pháp lý làm cản trở 
việc gia nhập thị trường để tạo 
ra môi trường thuận lợi cho kinh 
doanh, thúc đẩy cạnh tranh, xóa 
bỏ độc quyền của một số ngành 
dịch vụ, phát huy năng lực của 
các cơ quan quản lý dịch vụ.
- Phát triển các dịch vụ được 
xem là “chiến lược” cho phát 
triển kinh tế, các lĩnh vực dịch 
vụ cần được tập trung phát triển 
gồm: công nghệ thông tin và 
truyền thông, tài chính, logistics, 
hỗ trợ kinh doanh, giáo dục bậc 
cao, chăm sóc sức khỏe chất 
lượng cao và du lịchl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
A.T. Kearney (2011), “Global Retail 
Development Index (GRDI)”, 10 Year 
Retrospective.
A.T. Kearney (2013), Global Retail 
Development Index, 2008, 2009, 2010, 
2011, 2012, .
A.T. Kearney (2012), Global Retail 
Expansion: Keep on moving 
A.T. Kearney (2013), Global 
Retailers:Cautiously Aggressive or 
Aggressively Cautious?
Bộ Công thương, Quyết định số 3098/QĐ-
BCT, ngày 24/6/2011, Phê duyệt Quy 
hoạch tổng thể phát triển thương mại 
VN giai đoạn 2011 – 2020 và định hướng 
đến 2030.
Bộ Công thương, Cục Thương mại điện tử 
và Công nghệ thông tin (2012), Báo cáo 
thương mại điện tử VN 2012, NXB Lao 
Động –Xã hội, Hà Nội.
Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012, 
Hội nghị lần thứ tư Ban chấp hành Trung 
ương Khoá XI, Về xây dựng hệ thống kết 
cấu hạ tầng đồng bộ nhằm đưa nước ta 
cơ bản trở thành nước công nghiệp theo 
hướng hiện đại vào năm 2020. 
Quyết định số 175/QĐ-TTg của Thủ tướng 
Chính phủ ngày 27/01/2011, Phê duyệt 
Chiến lược tổng thể phát triển khu vực 
dịch vụ của VN đến năm 2020.
Tổng cục Thống kê, Niên giám thống kê 
2001, 2003, 2005, 2008, 2010, 2012, 
NXB Thống kê, Hà Nội.

File đính kèm:

  • pdfthuong_mai_ban_le_va_dich_vu_mot_so_nhan_dinh_ket_qua_dat_du.pdf