Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Bình Dương

Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân có vai trò quan

trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục được

khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, qua đó đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần

kinh tế. Tuy nhiên, cùng với những khó khăn chung của nền kinh tế cả nước, kinh tế tư nhân ở Bình

Dương vẫn rất cần sự chung tay nỗ lực hơn nữa của các cấp, các ngành địa phương trong tỉnh, tạo

mọi điều kiện nhằm vượt qua những khó khăn, hạn chế để kinh tế tư nhân của tỉnh trở thành động

lực quan trọng cùng với các thành phần kinh tế khác đóng góp thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh, bền

vững về mọi mặt góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của Tỉnh.

pdf 10 trang kimcuc 5001
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Bình Dương", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Bình Dương

Thực trạng và giải pháp nhằm phát triển kinh tế tư nhân ở Bình Dương
66
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN KINH TẾ 
TƯ NHÂN Ở BÌNH DƯƠNG
 Lê Đình Bình*
TÓM TẮT
Chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, trong đó kinh tế tư nhân có vai trò quan 
trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Kinh tế tư nhân đã và đang tiếp tục được 
khuyến khích, tạo điều kiện phát triển, qua đó đã khơi dậy được tiềm năng của các thành phần 
kinh tế. Tuy nhiên, cùng với những khó khăn chung của nền kinh tế cả nước, kinh tế tư nhân ở Bình 
Dương vẫn rất cần sự chung tay nỗ lực hơn nữa của các cấp, các ngành địa phương trong tỉnh, tạo 
mọi điều kiện nhằm vượt qua những khó khăn, hạn chế để kinh tế tư nhân của tỉnh trở thành động 
lực quan trọng cùng với các thành phần kinh tế khác đóng góp thúc đẩy sự tăng trưởng nhanh, bền 
vững về mọi mặt góp phần giải quyết các vấn đề an sinh xã hội của Tỉnh.
Từ khóa: kinh tế tư nhân, động lực quan trọng, thúc đẩy lực lượng sản xuất, cơ chế.
SITUATIONS AND SOLUTIONS TO DEVELOP PRIVATE SECTORS 
IN BINH DUONG
ABSTRACT
Multiple componenteconomic development policies, in which private economic sectorsplayan 
important role in local socialeconomic development.The Private sectors havebeen continuing to be 
encouraged and facilitatedto develop, which has been evoked potential of theprivate economic 
sectors. However, along with the common difficulties of the national economy, the private sectors 
in Binh Duong still need further efforts of all levels of local government in the province, creating 
favorable conditions to overcome difficulties , limits so that the provincial private sectorscan become 
an important force along with other economic sectors to contribute to promote faster growth, 
stronger in every way in order to contribute to solveprovincial issues of security and society .
Keywords: private economic sector, important forces, promote the productive forces and 
mechanisms.
* ThS. GV. Trường Đại học Thủ Dầu Một
67
Thực trạng và . . .
1. Mở đầu
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thư XI đã 
khẳng định: “hoàn thiện cơ chế, chính sách để 
phát triển mạnh kinh tế tư nhân trở thành một 
trong những động lực của nền kinh tế. Phát 
triển mạnh các loại hình kinh tế tư nhân ở hầu 
hết các ngành, lĩnh vực kinh tế theo quy hoạch 
và quy định của pháp luật. Tạo điều kiện hình 
thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân và tư 
nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà 
nước”[1,209]
Điều này chứng tỏ tầm quan trọng của 
kinh tế tư nhân đã được khẳng định và trên 
thực tế kinh tế tư nhân cũng đã và đang thể 
hiện được vai trò quan trọng cùng với những 
đóng góp ngày càng cao đối với nền kinh tế, 
đang thực sự trở thành một động lực mạnh mẽ 
cho sự phát triển kinh tế xã hội.
Thực tiễn cho thấy, việc phát triển kinh tế 
tư nhân trong cơ chế kinh tế thị trường định 
hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương 
đúng đắn và nhất quán của Đảng ta dựa trên 
cơ sở khoa học, phù hợp với quy luật khách 
quan của kinh tế thị trường, là sự vận dụng 
một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư 
tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện lịch sử cụ 
thể nước ta. 
Đại hội đại biểu Đảng bộ Tỉnh Bình 
Dương lần thứ IX cũng đã khẳng định: 
“Khuyến khích, hỗ trợ các doanh nghiệp của 
các thành phần kinh tế trong tỉnh đầu tư đổi 
mới công nghệ, kỹ thuật tiên tiến; ...nâng cao 
chất lượng, hiệu quả hoạt động của các doanh 
nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã trên các 
lĩnh vực, tạo điều kiện chuyển biến mạnh về 
chất trong các ngành công nghiệp”[2,102]
Trong những năm gần đây, nhờ quan 
điểm đổi mới tích cực của đảng bộ Tỉnh Bình 
Dương cùng với các cấp các ngành với cơ chế 
tác động rõ ràng, dứt khoát và đúng hướng đã 
thúc đẩy kinh tế tư nhân ngày càng phát triển.
2. Thực trạng kinh tế tư nhân ở tỉnh 
Bình Dương.
Kinh tế tư nhân đóng vai trò khơi dậy, huy 
động và khai thác nguồn tiềm năng to lớn về 
vốn, sức lao động kinh nghiệm quản lí, trí tuệ 
và khả năng kinh doanh, khai thác thông tin 
và các nguồn lực khác cho phát triển kinh tế, 
thích ứng với sự biến đổi linh hoạt của môi 
trường kinh doanh.
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân năm 
của các doanh nghiệp ngoài nhà nước theo 
ngành kinh tế ở một số lĩnh vực có lợi cho an 
sinh xã hội của Tỉnh.
Giáo dục & đào tạo: 2009 là 88 tỷ đồng; 
2010 là 220 tỷ đồng; 2011 là 354 tỷ đồng.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: 2009 
là 290 tỷ đồng; 2010 là 969 tỷ đồng; 2011 là 
1.064 tỷ đồng
Nghệ thuật, vui chơi giải trí: 2009 là 1.886 
tỷ đồng; 2010 là 2.413 tỷ đồng; 2011 là 2.723 
tỷ đồng 
Khai thác, xử lý và cung cấp nước: 2009 
là 3.239 tỷ đồng; 2010 là 4.221 tỷ đồng; 2011 
là 5.542 tỷ đồng 
Kinh tế tư nhân có sự tăng trưởng đáng kể 
về số lượng, phát triển trong các ngành nghề 
có lợi cho phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. 
Số doanh nghiệp đang hoạt động
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 có 1.300 
doanh nghiệp; 2010 có 1.330 doanh nghiệp; 
2011 có 1.310 doanh nghiệp.
Tổng số doanh nghiệp trong nước trên 
địa bàn tỉnh tính đến tháng 9/2013 là: 14.754 
doanh nghiệp. 
Cơ cấu – Structure (%). Doanh nghiệp tư 
nhân: 2009 là 20.06%; 2010 là 17.89%; 2011 
là 15.10%.
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước 
ngoài: 2009 có 1.234 doanh nghiệp; 2010 
68
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
có 1.285 doanh nghiệp; 2011có 1.375 doanh 
nghiệp.
Qua số liệu thống kê trên cho thấy các 
doanh nghiệp tư nhân và doanh nghiệp 
có 100% vốn đầu tư nước ngoài đang có 
xu hướng giảm dần về số lượng. 
Số doanh nghiệp đang hoạt động theo ngành 
kinh tế của các doanh nghiệp ngoài nhà nước 
theo ngành kinh tế ở một số lĩnh vực có lợi 
cho an sinh xã hội của Tỉnh.
Hoạt động trong lĩnh vực giáo dục & đào 
tạo: 2009 có 27 doanh nghiệp; 2010 có 33 
doanh nghiệp; 2011có 36 doanh nghiệp.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: 2009 có 
28 doanh nghiệp; 2010 có 33 doanh nghiệp; 
2011có 36 doanh nghiệp.
Kinh tế tư nhân trực tiếp khơi dậy nhiều 
ngành, nhiều nghề truyền thống trong các 
ngành, vủng ở các địa phương tạo ra nhiều 
chủng loại hàng hoá đa dạng, phong phú. Các 
ngành nghề truyền thống là thủ công mỹ nghệ 
đồ gỗ, tranh sơn mài, đồ gốm sứ, đồ thủ công 
mỹ nghệTăng thu nhập cho người lao động, 
làm giằu chính đáng
Thu nhập của người lao động trong doanh 
nghiệp đang hoạt động phân theo loại hình 
doanh nghiệp (ĐVT: Tỷ đồng): 
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 là 712; 2010 
là 730; 2011 là 765. 
Doanh nghiệp có 100% vốn đầu tư nước 
ngoài: 2009 là 12.961; 2010 là 17.522; 2011 
là 23.885.
Số cơ sở kinh tế cá thể: năm 2009 có 
60.615 cơ sở; năm 2010 có 68.117 cơ sở; năm 
2011 có 72. 832 cơ sở.
Thu nhập bình quân đầu người một tháng 
theo giá hiện hành: 2008 là 1.929 nghìn đồng; 
2010 là 2.698 nghìn đồng; 2012 là 3.591 
nghìn đồng.
Khoảng cách thu nhập giữa nhóm thu 
nhập cao nhất với nhóm thu nhập thấp nhất: 
2008 là 6 lần; 2010 là 7 lần; 2012 là 6 lần.
Kinh tế tư nhân góp phần giải quyết một 
phần gánh nặng thất nghiệp hiện nay cho lao 
động trong và ngoài tỉnh. Tạo công ăn việc làm 
cho một lượng lớn lao động, đảm bảo đời sống 
và do đó góp phần đáng kể cho việc ổn định xã 
hội của địa phương. 
Số lao động trong các doanh nghiệp đang 
hoạt động phân theo loại hình doanh nghiệp
Doanh nghiệp tư nhân: 2009 là 4.330 
người; 2010 là 3.806 người; 2011 là 3.967 
người.
Cơ cấu – Structure (%) 2009 là 0.64%; 
2010 là 0.52%; 2011 là 0.51%. Như vậy, số lao 
động trong doanh nghiệp ngoài nhà nước cũng 
có xu hướng giảm qua từng năm.
Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài: 2009 
là 372.957 người; 2010 là 409.915 người; 2011 
là 452.218 người. Cơ cấu – Structure (%) 2009 
là 55.27%; 2010 là 55.97%; 2011 là 57.80%.
Số lao động trong các doanh nghiệp đang 
hoạt động phân theo ngành kinh tế của các 
doanh nghiệp ngoài nhà nước theo ngành kinh 
tế ở một số lĩnh vực có lợi cho an sinh xã hội 
của Tỉnh.
Cung cấp nước; hoạt động quản lý và xử lý 
rác thải, nước thải: 2009 là 1.124 người; 2010 
là 1.195 người; 2011 là 1.216 người. Năm sau 
giảm so với năm trước.
Giáo dục & đào tạo: 2009 là 445 người; 
2010 là 514 người; 2011 là 733 người.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: 2009 
là 1.175 người; 2010 là 1.745 người; 2011 là 
2.177 người.
Số lao động trong các cơ sở kinh tế cá thể: 
2009 có 100.325 người; năm 2010 có 118.840 
người; năm 2011 co126.812 người.
Tỷ lệ thất nghiệp: năm 2010 là 2.60%; năm 
2011 là 2.35%; 2012 là 2.15%.
69
Trong 9 tháng 2013. Đã giải quyết việc 
làm cho 39.640 lao động, chi trợ cấp thất 
nghiệp hàng tháng cho 36.432 lao động với 
số tiền 277,5 tỷ đồng.
Kinh tế tư nhân cùng với các thành phần 
kinh tế khác tạo ra nhiều sản phẩm, hàng 
hóa và dịch vụ, nhanh nhạy với thị trường, 
hàng hóa tạo ra ngày càng nhiều, đa dạng về 
mẫu mã, giá cả, chất lượng, chủng loại đáp 
ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của người tiêu 
dùng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong tỉnh 
và xuất khẩu góp phần ổn định giá cả, kiềm 
chế lạm phát, bảo đảm tính ổn định và bền 
vững trong phát triển kinh tế - xã hội. 
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu 
dịch vụ ước đạt 63.755 tỷ đồng, tăng 22,2%. 
Tổng doanh thu dịch vụ vận tải ước đạt 9.902 
tỷ đồng, tăng 19,6%. Chỉ số giá tiêu dùng 9 
tháng đầu năm 2013 tăng 3,38% so với tháng 
12/2012.
Cơ cấu – Structure (%) Doanh nghiệp 
có 100% vốn đầu tư nước ngoài: 2009 là 
19.33%; 2010 là 17.28%; 2011 là 15.85%. 
Thu hút vốn đầu tư nước ngoài đã giảm trong 
bình hàng năm là 1.74%.
Vốn sản xuất kinh doanh bình quân năm 
của các doanh nghiệp theo ngành kinh tế
Giáo dục & đào tạo: 2009 là 88 tỷ đồng; 
2010 là 220 tỷ đồng; 2011 là 354 tỷ đồng.
Y tế và hoạt động trợ giúp xã hội: 2009 
là 290 tỷ đồng; 2010 là 969 tỷ đồng; 2011 là 
1.064 tỷ đồng.
Nghệ thuật, vui chơi giải trí: 2009 là 
1.886 tỷ đồng; 2010 là 2.413 tỷ đồng; 2011 
là 2.723 tỷ đồng. 
Khai thác, xử lý và cung cấp nước: 2009 
là 3.239 tỷ đồng; 2010 là 4.221 tỷ đồng; 2011 
là 5.542 tỷ đồng. 
Thoát nước và xử lý nước thải: 2009 là 
88 tỷ đồng; 2010 là 95 tỷ đồng; 2011 là 25 tỷ 
đồng. 
Hoạt động thu gom, xử lý và tiêu hủy rác 
thải, tái chế phế liệu: 2009 là 39 tỷ đồng; 2010 
là 101 tỷ đồng; 2011 là 183 tỷ đồng. 
Kinh tế tư nhân cùng với các thành phần 
kinh tế khác giữ vai trò hỗ trợ, bổ xung cho 
kinh tế nhà nước, tạo thành mối liên kết hợp 
tác, cạnh tranh cùng phát triển nhờ đó vừa 
cho phép khai thác có hiệu quả mọi nguồn lực 
tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tận 
dụng triệt để những ưu thế của thị trường và 
tuân theo quy luật của kinh tế thị trường. 
Tổng chi ngân sách địa phương thực hiện 
năm 2011 là 5.247 tỷ đồng, tăng 12% so với 
thực hiện năm 2010. Năm 2012 là 5.824 tỷ 
đồng, tăng 11% so với năm 2011. 09 tháng 
đầu năm 2013 là 3.751 tỷ đồng, đạt 69% dự 
toán, bằng 96% so với cùng kỳ. 
Kinh tế tư nhân góp phần đẩy lùi dần tình 
trạng độc quyền, thu hút vốn đầu tư (bảng 1) 
trong và ngoài nước tham gia sản xuất làm 
cho sản xuất hàng hoá phát triển, thị trường 
được mở rộng. Thông qua việc phát triển kinh 
tế tư nhân mà quyền làm chủ của nhân dân, 
trước hết là quyền làm chủ của các chủ thể 
kinh tế được phát huy.
Bảng 1.
Các tiêu chí so sánh về vốn thu hút của 
doanh nghiệp ngoài nhà nước
Năm 
2010
Năm 
2011
Năm 
2012
Tháng
9/ 2013
Thu hút đầu tư trong nước 6.281 tỷ đồng
26.300 tỷ 
đồng
11.331 
tỷ đồng
12.131 tỷ 
đồng
Thu hút đầu tư nước ngoài 1.050 tỷ USD
889 triệu 
đô la Mỹ
2.609 tỷ 
USD
1.113 
tỷ USD
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương 2012
Thực trạng và . . .
70
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Qua bảng 1 cho thấy thu hút vốn đầu 
tư trong nước và đầu tư nước ngoài có sự 
biến động lớn trong năm 2012 thu hút đầu 
tư trong nước giảm 14.969 tỷ đồng so với 
năm 2011, thu hút đầu tư nước ngoài năm 
2013 theo ước tính cũng giảm trên 1 tỷ 
USD.
Kinh tế tư nhân thúc đẩy lực lượng sản 
xuất phát triển, góp phần duy trì và phát 
triển các làng nghề truyền thống, kinh 
nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiện 
quản lí đã được tích luỹ qua nhiều thế hệ 
của từng gia đình và dòng họ, phát huy 
truyền thống gắn liền với hiện đại.
Kinh tế tư nhân khơi dậy và phát huy 
được tiềm năng về vốn (bảng 2), đất đai, 
lao động, của các tầng lớp nhân dân. Qua 
đó, thu hút được nguồn lực đầu tư cho 
những lĩnh vực có lợi cho an sinh xã hội 
của Tỉnh. việc thu hút các nguồn đầu tư xã 
hội, đóng vai trò là nguồn vốn chủ yếu đối 
với sự phát triển của kinh tế địa phương.
Bảng 2.
Vốn đầu tư của các khu vực kinh tế tư nhân 
cho các ngành kinh tế Năm 2010 Năm 2011
Năm 
2012
Vốn đầu tư của khu vực ngoài nhà nước 
(ĐVT: tỷ đồng) 7.968 14.223 18.246 
Vốn của tổ chức doanh nghiệp ngoài nhà 
nước (ĐVT: tỷ đồng)
5.967 11.931 14.094 
Vốn khu vực đầu tư trực tiếp nước ngoài 
(ĐVT: tỷ đồng) 14.015 12.667 17.438
Vốn của dân cư 
(ĐVT: tỷ đồng) 2.001 2.293 4.152 
Vốn đầu tư cho giáo dục 
(ĐVT: tỷ đồng) 548 559 823
Vốn đầu tư cho y tế và hoạt động trợ giúp xã 
hội (ĐVT: tỷ đồng)
461 447 546
Vốn đầu tư cho nghệ thuật, vui chơi giải trí 
(ĐVT: tỷ đồng)
344 331 393
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Bình Dương 2012
Kinh tế tư nhân góp phần làm tăng xuất 
khẩu và tăng nguồn thu ngân sách nhà nước, 
do việc nộp thuế môn bài, trong nhập xuất 
khẩu.
Thu ngân sách qua thuế
Thu hải quan: năm 2010 là 7.442.8 tỷ 
đồng; năm 2011 là 8.096.5 tỷ đồng; năm 2012 
là 7.500.0 tỷ đồng. Mặc dù có sự sụt giảm giữa 
năm 2011 và năm 2012 nhưng thu thuế xuất 
nhập khẩu vẫn đóng góp đáng kể cho tổng thu 
ngân sách địa phương của tỉnh.
Trong 9 tháng đầu năm 2013 kim ngạch 
xuất khẩu ước đạt 9 tỷ 841 triệu đô la Mỹ, 
tăng 15,6%. Trong đó, khu vực kinh tế có vốn 
đầu tư nước ngoài tăng 17,8%, chiếm 81,2%. 
Kim ngạch nhập khẩu ước đạt 7 tỷ 865 triệu 
đô la Mỹ, tăng 16,5%. Tổng giá trị thanh toán 
vốn đầu tư xây dựng cơ bản là 2.634 tỷ đồng, 
đạt 65,9% kế hoạch năm.
Thu từ doanh nghiệp và cá nhân sản xuất, 
71
kinh doanh hàng hóa, dịch vụ: năm 2010 là 
11.936.7 tỷ đồng; năm 2011 là 14.033.5 tỷ 
đồng; năm 2012 là 15.500.0 tỷ đồng.
Thu từ thuế thu nhập cá nhân: năm 2010 
là 1.196.9 tỷ đồng; năm 2011 là 1.808.9 tỷ 
đồng; năm 2012 là 2.129.8 tỷ đồng.
Thu ngân sách Nhà nước tính đến tháng 
9/2013 ước thực hiện 21.500 tỷ đồng, đạt 
75,8%.
Thu ngân sách Nhà nước năm 2011 từ 
kinh tế - xã hội khối huyện 6.234 tỷ đồng, 
tăng 18% so với thực hiện năm 2010. Năm 
2012 thực hiện 6.138 tỷ đồng, bằng 98% so 
với thực hiện năm 2011. Thực hiện 09 tháng 
đầu năm 2013 tổng thu 4720 tỷ đồng, đạt 67% 
dự toán năm, tăng 25% so với cùng kỳ.
 Theo cục thuế Tỉnh, trong 9 tháng đầu 
năm 2013, các doanh nghiệp bàn giao tiền 
thuế 1.029 tỷ đồng.
Tổng số thuế thu từ các doanh nghiệp 
ngoài quốc doanh trên địa bàn tỉnh đến 
30/9/2013 là 3.252 tỷ đồng.
3. Khó khăn, hạn chế
Trình độ công nghệ còn thấp, kinh nghiệm 
quản lí còn yếu, thiếu chiến lược và kế hoạch 
kinh doanh, một số hoạt động của một bộ phận 
kinh tế tư nhân không ổn định, chạy theo lợi 
nhuận, tình trạng hàng giả, hàng nhái, hàng 
kém chất lượng, gian lận thương mại có chiều 
hướng gia tăngkinh nghiệm và năng lực 
cạnh tranh thấp nên dễ bị tổn thương, thiếu 
nguồn lực cơ bản như vốn, năng lực quản lí, 
thị trường, đất đai, khó tiếp cận với nguồn 
cung ứng hỗ trợ. 
Những thay đổi thường xuyên về chính 
sách thuế nhập khẩu cũng gây bị động và thiệt 
hại cho các doanh nghiệp tư nhân. Những quy 
định về thuế thu nhập doanh nghiệp đang gặp 
nhiều vướng mắc về xác định chi phí hợp lí 
để tính thuế dẫn đến xác định lợi nhuận không 
thực tế. Thuế giá trị gia tăng còn tạo nhiều sơ 
hở cho việc trốn, lậu thuế. Nhiều quy định còn 
chưa phù hợp với đặc điểm và trình độ phát 
triển của khu vực kinh tế tư nhân.
Doanh nghiệp tư nhân mới chủ yếu tập 
trung kinh doanh trong các ngành thương mại 
và dịch vụ sơ cấp. Số lượng doanh nghiệp 
trong các ngành công nghiệp chế biến và dịch 
vụ cao cấp còn rất ít kinh tế tư nhân nhất là 
các doanh nghiệp mới tập trung phát triển ở 
thị xã, thành phố. Còn ở các khu vực nông 
thôn có rất ít doanh nghiệp thuộc kinh tế tư 
nhân.
Nhiều đơn vị kinh tế tư nhân chưa thực 
hiện tốt những quy định của pháp luật về lao 
động, hợp đồng lao động, chế độ bảo hiểm, 
tiền lương, tiền công, bảo hộ lao động, giờ 
làm việc....đối với người lao động. Một số 
doanh nghiệp, hộ kinh doanh cá thể vi phạm 
pháp luật, trốn lậu thuế, nợ đọng thuế, kinh 
doanh trái phép, chưa thực hiện đúng luật 
doanh nghiệp và các quy định về đăng kí kinh 
doanh. 
Chi cục thuế thu nợ đọng thuế 190 doanh 
nghiệp/450 doanh nghiệp có nợ đọng bàn 
giao, số thuế nợ đọng thu được 53 tỷ đồng/338 
tỷ đồng, đạt tỷ lệ 15,6% tổng thuế nợ đọng 
bàn giao. Tổng số thuế nợ đọng của các doanh 
nghiệp nhận bàn giao đến 30/9/2013 là 333 tỷ 
đồng, bằng 98% nợ đọng thuế bàn giao. 
Kinh tế tư nhân có tính tự phát cao, chủ 
doanh nghiệp thường chỉ chú ý đến lợi ích cá 
nhân, bất kể việc khai thác kiệt quệ tài nguyên 
thiên nhiên hay việc ứng xử không phù hợp 
với môi trường xung quanh và công nhân lao 
động. 
Khả năng tiếp cận thị trường và dự báo 
chưa cao nên gặp rủi ro cao trong kinh doanh. 
Việc đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc 
nhiều thành phần kinh tế khác nhau trong các 
Thực trạng và . . .
72
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
quan hệ giao dịch về mặt bằng sản xuất kinh 
doanh, hỗ trợ xúc tiến thương mại, tiếp cận 
thông tin thị trườngchưa đồng bộ, hợp lý.
Bản thân các cơ sở sản xuất, kinh doanh 
khu vực kinh tế tư nhân cũng còn mặc cảm và 
còn nhiều hạn chế về cơ sở vật chất kỹ thuật, 
trình độ quản lí và hiểu biết pháp luật.
Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp 
nói chung và kinh tế tư nhân nói riêng chưa 
kịp thời, việc thực thi chính sách cũng thiếu 
sự thống nhất và gắn kết từ các cơ chế chính 
sách phát triển khu vực kinh tế tư nhân tại địa 
phương chưa nhất quán và có nhiều thay đổi 
làm cho doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn 
trong việc hoạch định một chiến lược phát 
triển lâu dài, sự hỗ trợ từ phía các cơ quan nhà 
nước đối với dịch vụ cung cấp lao động chất 
lượng cao, dịch vụ hỗ trợ doanh nghiệp, xúc 
tiến đầu tư, thương mại còn yếu.
Doanh nghiệp còn thiếu tính chủ động 
trong liên kết sản xuất kinh doanh, phần lớn 
làm ăn độc lập, theo kiểu phòng thủ, chưa có 
sự hợp tác, phân công lao động và chuyên 
môn hóa sản xuất. Vấn đề tìm kiếm thị trường, 
mở rộng thị trường và khả năng chiếm lĩnh thị 
trường của kinh tế tư nhân hiện nay còn yếu, 
thường chỉ tập trung thực hiện những mục 
tiêu trước mắt. 
Môi trường pháp lí chưa đồng bộ, minh 
bạch, dẫn đến tình trạng các cơ quan thừa 
hành và các doanh nghiệp lúng túng trong 
việc chấp hành pháp luật, gây khó khăn cho 
việc đăng kí và hoạt động của khu vực kinh tế 
tư nhân. Thủ tục hành chính rườm rà và quá 
nhiều quy định. 
Chế độ kế toán, kiểm toán còn nhiều phức 
tạp, không phù hợp và thiếu linh hoạt khi áp 
dụng cho các loại hình doanh nghiệp nhỏ, cải 
cách hành chính còn chậm nhiều mặt chưa 
theo kịp với yêu cầu của thực tiễn. 
Tất cả những khó khăn đó đang là lực cản 
đối với các doanh nghiệp tư nhân khi tham 
gia hoạt động đầu tư, sản xuất kinh doanh ở 
Bình Dương.
4. Một số giải pháp nhằm phát triển 
kinh tế tư nhân ở Bình Dương.
Thứ nhất, cần thể chế hoá bằng chính 
sách trong việc tạo điều kiện thúc đẩy khu 
vực kinh tế tư nhân phát triển nhanh, mạnh và 
đúng hướng. Tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa 
cho kinh tế tư nhân phát triển đan xen với các 
thành phần kinh tế khác. 
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao 
hiệu lực của bộ máy quản lí nhà nước, đảm 
bảo sự phân công phân cấp rõ ràng cụ thể 
trong việc thực hiện chức năng quản lí nhà 
nước đối với khu vực kinh tế tư nhân.
Tạo môi trường bình đẳng giữa doanh 
nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân 
trong đầu tư kinh doanh và tiếp cận các nguồn 
lực như vốn, công nghệ, cơ hội phát triển vv...
qua đó cần có chính sách hỗ trợ phù hợp cho 
doanh nghiệp, giúp đỡ các doanh nghiệp của 
tư nhân cả về chuyên môn và năng lực tài 
chính trong hoạt động liên quan đến sở hữu 
công nghiệp. Tạo điều kiện cho kinh tế tư 
nhân được vay ngoại tệ lãi xuất thấp để nhập 
máy móc, thiết bị hiện đại, công nghệ tiên 
tiến.
Hiện nay, kinh tế trong nước và thế giới 
phát triển gặp nhiều khó khăn cần có chính 
sách ưu đãi về vốn như: cho vay lãi ưu đãi, 
gia hạn thời hạn trả nợ của doanh nghiệp, gia 
hạn thời hạn nộp thuế vv...cho những doanh 
nghiệp gặp khó khăn về vốn. hỗ trợ lãi suất 
sau đầu tư, tín dụng hỗ trợ xuất khẩu hoặc 
nhận bảo lãnh tín dụng đầu tư từ nguồn vốn 
ưu đãi của Nhà nước.
Tạo điều kiện phát huy nội lực của khu 
vực kinh tế tư nhân làm cho tài sản, quyền sử 
73
dụng đất của họ được thế chấp thuận lợi trong 
vay vốn ở các tổ chức tín dụng, quỹ hỗ trợ 
phát triển.
Phát huy dân chủ, làm cho bộ máy gần 
dân, gần doanh nghiệp, cùng với việc công 
khai các văn bản quy phạm pháp luật, các chủ 
trương, chính sách các thủ tục hành chính có 
liên quan, quan tâm tổ chức các cuộc gặp gỡ, 
tiếp xúc định kỳ và không định kỳ các doanh 
nhân, doanh nghiệp đang hoạt động... để nắm 
bắt và xử lí nhanh, kịp thời, chính xác, hiệu 
quả hơn các nhu cầu, vấn đề bức xúc đặt ra 
trong quá trình hoạt động đầu tư của doanh 
nhân, doanh nghiệp.
Không ngừng đổi mới các chủ trương, 
chính sách đối với các thành phần kinh tế, 
khẳng định rõ vai trò quan trọng của khu vực 
kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường.
Sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế theo 
hướng giảm bớt chồng chéo trong các luật 
thuế. Cơ quan thuế và hải quan phải đồng 
hành cùng doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp 
tháo gỡ khó khăn trong sản xuất kinh doanh.
Áp dụng các chính sách ưu đãi đối với các 
lĩnh vực, ngành nghề bằng chính sách thuế, 
tín dụng phát triển các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa ở nông thôn để tạo việc làm cho người lao 
động. Tích cực tiến hành có kết quả việc thể 
chế hóa và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết 
của Đảng. Tạo thuận lợi, thông thoáng hơn 
nữa cho hoạt động sản xuất, kinh doanh về cả 
các quy định pháp luật và môi trường tâm lí 
xã hội, từ khâu đăng kí kinh doanh cũng như 
trong suốt quá trình hoạt động, đến xử lí giải 
thể, phá sản.
Thứ hai, nâng cao sức cạnh tranh của sản 
phẩm, dịch vụ của kinh tế tư nhân, nâng cao 
sức cạnh tranh của nền kinh tế trong cuộc 
cạnh tranh hội nhập quốc tế. Thực hiện liên 
doanh liên kết giữa kinh tế tư nhân với nhau, 
giữa kinh tế tư nhân với các doanh nghiệp. 
Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng 
thị trường tiêu thụ sản phẩm, phát triển kinh 
doanh.
Tôn trọng tiếng nói của đại diện doanh 
nghiệp về những vấn đề liên quan đến sản 
xuất kinh doanh, giải quyết các vấn đề xuất 
phát từ thực tế cuộc sống. Tạo môi trường 
thuận lợi để doanh nhân cùng nhau trao đổi 
ý kiến, bảo vệ lợi ích hợp pháp, thương thảo 
những công việc liên quan đến hoạt động sản 
xuất kinh doanh chung của doanh nghiệp. 
Đầu tư, đa dạng hoá các hình thức đầu tư 
phát triển cơ sở hạ tầng, khuyến khích kinh tế 
tư nhân phát triển vào các nghành và lĩnh vực 
mà pháp luật không cấm, phát triển kinh tế tư 
nhân trong các ngành công nghiệp chế biến, 
gia công, phụ trợ.
Thứ ba, tăng cường hoạt động marketing 
hỗn hợp như hoạt động nghiên cứu thị trường, 
hoàn thiện chiến lược sản phẩm, hoàn thiện 
phân phối và hoàn thiện mạng lưới bán hàng 
dịch vụ trên mọi hình thức. 
Giảm chi phí sản xuất, chi phí trung gian, 
các quy định và thủ tục rườm rà, phức tạp 
trong hợp đồng chuyển giao công nghệ để thu 
hút các nhà đầu tư tư nhân vào việc chuyển 
giao công nghệ. 
Giảm thời gian và chi phí gia nhập thị 
trường của doanh nghiệp tư nhân khi xin đăng 
kí kinh doanh, đăng ký thương hiệu. Cải cách 
công tác kiểm tra, thanh tra hoạt động của 
doanh nghiệp tư nhân, có môi trường pháp 
lí cụ thể và có các chế tài hình thức xử phạt 
nghiêm hơn đối với các công ty, doanh nghiệp 
vi phạm pháp luật.
Chủ động áp dụng thông tin điện tử vào 
trong hoạt động của các công ty và doanh 
nghiệp. Nhờ đó mà các chủ doanh nghiệp 
cũng như người lao động nắm bắt thông tin 
Thực trạng và . . .
74
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
một cách kịp thời, đầy đủ, chính xác, từ đó 
giúp cho các doanh nghiệp có các giải pháp 
hợp lý. 
Doanh nghiệp cần mạnh dạn đầu tư ứng 
dụng công nghệ mới, phát triển dịch vụ thông 
tin, tham gia, hỗ trợ các hoạt động xúc tiến 
thương mại, tiếp cận thông tin, tiếp thị của 
doanh nghiệp và Hiệp hội. 
Xây dựng và mở rộng hoạt động dịch vụ 
kế toán, kiểm toán độc lập tạo điều kiện cho 
các doanh nghiệp của tư nhân sử dụng được 
dịch vụ này, nhằm làm giảm chi phí cho công 
tác kế toán, thống kê.
Thứ tư, phát triển kinh tế tư nhân ở mọi 
khu vực và địa phương trong tỉnh. Mở rộng, 
phát triển kinh tế tư nhân ở các khu vực nông 
thôn ....để có thể tận dụng mọi nguồn lực về 
tài nguyên, con người, lao động góp phần tạo 
công ăn việc làm giảm thất nghiệp tăng thu 
nhập và nâng cao mức sống cho người lao 
động. 
Phát triển mạnh các trung tâm dịch vụ 
việc làm, xây dựng hệ thống thông tin thị 
trường lao động, kết hợp đào tạo nghề gắn với 
việc làm để tư vấn, giới thiệu và cung ứng 
lao động cho các cơ sở kinh tế tư nhân. Nâng 
cao chất lượng nguồn nhân lực trong khu vực 
kinh tế tư nhân, đào tạo cán bộ quản lí, điều 
hành và nhân công. Thường xuyên tập huấn 
nâng cao tay nghề, trình độ kĩ thuật. 
Tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh 
doanh theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài 
sản, quyền sở hửu công nghiệp hợp pháp của 
công dân. 
Nghiên cứu đề ra các chính sách hỗ trợ, 
khen thưởng thích đáng kịp thời để động viên 
khuyến khích, tôn vinh và nhân rộng các điển 
hình của hoạt động kinh tế tư nhân. 
Thứ năm, cần đề cao sự nghiêm minh và 
tăng cường lòng tin của dân chúng, doanh 
nhân và doanh nghiệp vào luật pháp và chính 
quyền với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ 
của kinh tế tư nhân. Phát triển các dịch vụ hỗ 
trợ tư pháp, nhất là về đăng kí và xử lí tranh 
chấp thương hiệu, tư vấn kế toán, thuế. Đảm 
bảo cho các cơ quan quản lí thực sự là chỗ dựa 
vững chắc và là người hướng dẫn hỗ trợ, kiểm 
tra, kiểm soát đối với kinh tế tư nhân.
Phòng tránh, giảm thiểu các rủi ro tín 
dụng, kinh doanh, các hành vi vi phạm sở 
hữu thương hiệu, sở hữu trí tuệ, sở hữu công 
nghiệp và các vi phạm bản quyền, an ninh, 
trật tự an toàn văn minh thương mại và thị 
trường khác, kiểm soát, phát hiện và xử lí 
nghiêm minh hiện tượng gian lận thương mại, 
kinh doanh trái phép, sản xuất hàng giả, trốn 
lậu thuế, bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp và 
sự cạnh tranh lành mạnh của lĩnh vực kinh tế 
tư nhân. 
Phát triển hệ thống an sinh xã hội, hệ 
thống phòng ngừa rủi ro, cảnh báo sớm các 
nguy cơ và giải quyết kịp thời các chấn động 
kinh tế, xã hội do quá trình thúc đẩy phát triển 
kinh tế tư nhân và hội nhập kinh tế quốc tế 
gây ra.
KẾT LUẬN
Chính sách đúng đắn của Tỉnh những năm 
qua từ các mô hình kinh tế phù hợp với điều 
kiện của như cho vay vốn, hỗ trợ kỹ thuật, 
định hướng thị trường, điều đó đã mở ra môi 
trường đầu tư, phát triển kinh tế, nâng cao 
thu nhập hợp pháp, nâng cao chất lượng cuộc 
sống cho nhiều hộ gia đình trong những năm 
qua trên phạm vi toàn Tỉnh. 
Kinh tế tư nhân ngày càng chứng tỏ là bộ 
phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế của 
Tỉnh. Góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh bền 
vững, tạo động lực thúc đẩy các thành phần 
kinh tế phát triển.
75
Chúng ta không thể phủ nhận những mặt 
tích cực của kinh tế tư nhân đối với sự phát 
triển nền kinh tế - xã hội trong những năm 
qua cùng những số liệu minh chứng qua từng 
năm của kinh tế tư nhân theo hướng có lợi cho 
an sinh xã hội trên phạm vi toàn tỉnh. 
Tuy nhiên, bên cạnh đó chúng ta cũng 
phải thấy được những hạn chế nhất định trong 
quá trình phát triển của kinh tế tư nhân, như 
tính chất tự phát, tình trạng chạy theo lợi 
nhuận, tình trạng không chấp hành nghiêm 
luật pháp...và những khó khăn chung mà kinh 
tế tư nhân đang gặp phải trong giai đoạn hiện 
nay. Vì vậy, cần phải có các giải pháp phù hợp 
phát triển của kinh tế tư nhân.
Xây dựng và hoàn thiện các cơ chế, chính 
sách, hệ thống pháp luật nhằm đảm bảo đầy 
đủ hành lang pháp lí, tạo điều kiện cho kinh tế 
tư nhân phát triển, nâng cao và tăng cường vai 
trò quản lí Nhà nước của Tỉnh. 
Nỗ lực và thay đổi cả trong nhận thức 
và hành động đối với kinh tế tư nhân, thì sự 
phát triển của sẽ diễn ra đúng hướng và phát 
huy hiệu quả tối đa, qua đó góp phần củng cố 
thêm niềm tin của toàn dân đối với sự lãnh 
đạo của Đảng.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI; NXB chính trị quốc gia 2011.
[2]. Văn kiện Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh Bình Dương lần thứ IX; NXB CNHH MTV XSKT Bình 
Dương năm 2010.
[3]. Mai Xuân. Bình Dương sơ kết tình hình phân cấp ngân sách, thuế, đầu tư. Và kinh tế - xã hội 9 tháng 
đầu năm 2013.www.binhduong.gov.vn/. Cập nhật lúc 20:59’, 2/11/ 2013 (GMT+7).
[4]. ThS Phan Minh Tuấn. Phát triển kinh tế tư nhân những vấn đề đặt ra. Tạp chí Tài chính số 6 – 2013. 
Cập nhật lúc 11:10’, 14/10/ 2013 (GMT+7).
[5]. TS. Nguyễn Công Nhự. Kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp. 
www.vienthongke.vn/ Cập nhật lúc 23:10’, 10/10/ 2013 (GMT+7).
[6]. Nguồn: Tạp chí Triết học. Phát triển kinh tế tư nhân - xu thế tất yếu trong nền kinh tế thị trường ở 
nước ta hiện nay. www.pti.edu.vn/. Cập nhật lúc 11:10’, 14/10/ 2013 (GMT+7).
Thực trạng và . . .

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_giai_phap_nham_phat_trien_kinh_te_tu_nhan_o_bi.pdf