Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam

Ngày nay, cùng với sự phát triển của ứng dụng công nghệ hạt nhân, công nghệ bức xạ tại

nước ta thì vấn đề đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân cho các cơ sở bức xạ và hạt nhân

càng trở nên cấp thiết. Để đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân thì việc xây dựng văn hóa an

ninh hạt nhân đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, văn hóa hạt nhân là một khái niệm

mới đối với Việt Nam và ngay cả trên thế giới, vì vậy nghiên cứu về văn hóa hạt nhân,

trước hết là nghiên cứu đánh giá thực trạng văn hóa hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt

nhân là rất cần thiết. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu do Cục An toàn bức xạ và

hạt nhân thực hiện về đánh giá thực trạng văn hóa an ninh hạt nhân được thực hiện tại

18/28 cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A, 6/24 cơ sở sử dụng phóng xạ

mức an ninh B2 trên cả nước và tại cơ sở hạt nhân duy nhất của Việt Nam hiện nay3; và

các giải pháp đề xuất của nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại

các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam trong thời gian tới.

pdf 11 trang kimcuc 12860
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam

Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam
84 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
THỰC TRẠNG VÀ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NÂNG CAO 
VĂN HÓA AN NINH HẠT NHÂN TẠI CÁC CƠ SỞ BỨC XẠ 
VÀ HẠT NHÂN CỦA VIỆT NAM 
Bùi Thị Thụy Anh1 
Cục An toàn bức xạ hạt nhân 
Tóm tắt: 
Ngày nay, cùng với sự phát triển của ứng dụng công nghệ hạt nhân, công nghệ bức xạ tại 
nước ta thì vấn đề đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân cho các cơ sở bức xạ và hạt nhân 
càng trở nên cấp thiết. Để đảm bảo an toàn, an ninh hạt nhân thì việc xây dựng văn hóa an 
ninh hạt nhân đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, văn hóa hạt nhân là một khái niệm 
mới đối với Việt Nam và ngay cả trên thế giới, vì vậy nghiên cứu về văn hóa hạt nhân, 
trước hết là nghiên cứu đánh giá thực trạng văn hóa hạt nhân tại các cơ sở bức xạ và hạt 
nhân là rất cần thiết. Bài báo này trình bày kết quả nghiên cứu do Cục An toàn bức xạ và 
hạt nhân thực hiện về đánh giá thực trạng văn hóa an ninh hạt nhân được thực hiện tại 
18/28 cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A, 6/24 cơ sở sử dụng phóng xạ 
mức an ninh B2 trên cả nước và tại cơ sở hạt nhân duy nhất của Việt Nam hiện nay3; và 
các giải pháp đề xuất của nhóm nghiên cứu nhằm nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại 
các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam trong thời gian tới. 
Từ khóa: Văn hóa an ninh hạt nhân; Cơ sở bức xạ và hạt nhân; An toàn và an ninh bức xạ 
và hạt nhân. 
Mã số: 16122801 
1. Mở đầu 
Ngày nay, công nghệ hạt nhân được ứng dụng có hiệu quả trong nhiều lĩnh 
vực khác nhau trong sản xuất cũng như trong đời sống tại hầu hết các quốc 
gia trên thế giới. Tuy nhiên cùng với sự phát triển và ứng dụng của công 
nghệ hạt nhân thì nguy cơ đối với các sự cố an ninh hạt nhân ngày một tăng 
lên, nhất là trong thời gian qua đặc biệt tăng cao khi chủ nghĩa khủng bố lan 
rộng trên thế giới. Chính vì thế tại cuộc họp Đại Hội Đồng của Cơ quan 
năng lượng nguyên tử quốc tế IAEA, tháng 9/2012 các thành viên IAEA đã 
thống nhất đưa ra Nghị quyết trong đó có các phương pháp tích hợp để bảo 
1 Liên hệ tác giả: thuyanhvov5@gmail.com, btanh@varans.vn. 
2 Theo Thông tư số 23/2010 ngày 29/12/2010 của Bộ Khoa học và Công nghệ về Hướng dẫn bảo đảm an ninh 
nguồn phóng xạ, có 4 mức an ninh hạt nhân, trong đó mức A tương ứng với nhóm nguồn phóng xạ có mức độ 
nguy hiểm và nguy cơ tiềm ẩn cao nhất, mức D là thấp nhất. 
3 Cơ sở hạt nhân duy nhất của Việt Nam hiện nay là Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, trực thuộc Viện Năng 
lượng nguyên tử Việt Nam, là nơi có Lò phản ứng hạt nhân nghiên cứu đang hoạt động. 
JSTPM Tập 6, Số 1, 2017 85 
vệ chống lại các hành động khủng bố hạt nhân. Một trong những mục tiêu 
của chương trình an ninh hạt nhân của IAEA là để cung cấp hướng dẫn và 
hỗ trợ để giúp các nước thành viên thiết lập một văn hóa an ninh hạt nhân 
(VHANHN) vững mạnh. Điều này sẽ tạo thuận lợi và tối ưu hóa các khía 
cạnh về con người trong chương trình an ninh hạt nhân quốc gia. 
VHANHN hiệu quả có thể giúp gia tăng đáng kể tính hiệu quả trong công 
tác an ninh cơ sở bức xạ và hạt nhân. 
Tại Việt Nam trong thời gian qua, việc ứng dụng khoa học kỹ thuật bức xạ 
và hạt nhân trong đời sống cũng như trong sản xuất đang phát triển rất 
mạnh mẽ. Theo thống kê của Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN), 
tính đến tháng 3/2016, trong cả nước có 3.909 nguồn phóng xạ (2.069 
nguồn đang sử dụng và 1.840 nguồn đang lưu giữ) theo các nhóm nguồn 
với các mức độ nguy cơ tiềm ẩn khác nhau. Cùng với đó, Việt Nam cũng đã 
bước đầu tiếp cận và triển khai một số hoạt động ban đầu về bảo đảm an 
ninh cho vật liệu phóng xạ và hạt nhân. Bộ Khoa học và Công nghệ 
(KH&CN) đã ban hành một số văn bản quy phạm pháp luật để nâng cao 
việc thực hiện văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ sở như: Thông tư số 
23/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 “Hướng dẫn bảo đảm an ninh nguồn 
phóng xạ” và Thông tư số 24/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 với các 
điều khoản về phân loại và phân nhóm nguồn phóng xạ theo yêu cầu về an 
ninh... Tuy nhiên, do sự hiểu biết và ý thức của các cơ sở bức xạ, hạt nhân 
trong việc thực hiện các quy định về bảo đảm an ninh vẫn còn nhiều bất 
cập, nên trong thời gian vừa qua vẫn xảy ra một số sự cố an ninh nguồn 
phóng xạ (mất nguồn). Một số sự cố mất nguồn phóng xạ điển hình gần đây 
như sự cố mất cắp nguồn phóng xạ của Công ty TNHH APAVE Châu Á - 
Thái Bình Dương tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 12/09/2014. Nhân viên 
đã vi phạm các nguyên tắc về bảo đảm an ninh cho nguồn phóng xạ sử 
dụng di động (nguồn phóng xạ kín Ir-192 dùng trong chụp ảnh công 
nghiệp), để nguồn phóng xạ bị đánh cắp tại nhà. Sự cố tuy không gây ra 
thiệt hại về sức khỏe của con người và môi trường nhưng đã gây ra hoang 
mang tâm lý đối với dân chúng tại Thành phố, mất nhiều công sức và 
nguồn lực trong hoạt động tìm kiếm, thu hồi. Gần đây là sự cố mất nguồn 
phóng xạ Co-60 dùng để đo mực thép lỏng trong dây chuyền tại nhà máy 
luyện phôi thép Pomina. Nhà máy đã phát hiện mất nguồn phóng xạ vào 
tháng 03/2015 khi thực hiện bàn giao giữa người phụ trách an toàn bức xạ 
cũ và nhân viên mới. Sự cố mất nguồn này đã được báo cáo rất muộn 
(tháng 04/2015), gây khó khăn rất nhiều trong hoạt động tìm kiếm. Các sự 
cố đã xảy ra cho thấy, nhận thức về vấn đề an ninh tại cơ sở vẫn còn nhiều 
hạn chế, đặc biệt là VHANHN của các cơ sở vẫn chưa được thực hiện hiệu 
quả, gây nguy cơ mất an toàn cho con người và môi trường. 
86 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
Từ những phân tích trên cho thấy, việc nghiên cứu thực trạng VHANHN để 
có cơ sở đề xuất các giải pháp nâng cao VHANHN tại các cơ sở bức xạ và 
hạt nhân của Việt Nam trong thời gian tới là rất cần thiết. 
2. Văn hóa an ninh hạt nhân 
2.1. Khái niệm văn hóa an ninh 
VHANHN theo Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) được định 
nghĩa là "tập hợp các đặc điểm, thái độ và hành vi của các cá nhân, tổ chức 
được dùng như là một phương tiện để hỗ trợ và tăng cường an ninh hạt 
nhân” (IAEA Nuclear Security Series No.20, 2013); với vai trò là "phòng 
ngừa, phát hiện và ứng phó với những hành vi tội phạm hoặc hành vi trái 
phép liên quan đến hoặc nhằm vào vật liệu hạt nhân, vật liệu phóng xạ, cơ 
sở liên quan, hoặc các hoạt động liên quan” (IAEA Nuclear Security Series 
No.20, 2013). Chính vì vậy, phạm vi ảnh hưởng của văn hóa an ninh ảnh 
hưởng đến an toàn, an ninh hạt nhân của tất cả các cơ sở bức xạ, cơ sở hạt 
nhân và các hoạt động hạt nhân. 
2.2. Mô hình văn hóa an ninh hạt nhân 
Mô hình của IAEA về văn hóa an ninh hạt nhân (Bảng 1) được nêu trong 
Hướng dẫn thực hiện năm 2008 (IAEA 2008). 
Bảng 1. Mô hình văn hóa an ninh hạt nhân của IAEA 
MỤC TIÊU: AN NINH HẠT NHÂN HIỆU QUẢ 
Các hệ thống quản lý được phát 
triển tốt và ưu tiên cho an ninh 
(a) Chính sách an ninh có thể thấy; 
(b) Vị trí và trách nhiệm rõ ràng; 
(c) Đo lường việc thực hiện; 
(d) Môi trường làm việc; 
(e) Đào tạo và chuyên môn; 
(f) Quản lý công việc; 
(g) An ninh thông tin; 
(h) Vận hành và bảo dưỡng; 
(i) Xác định liên tục sự tin cậy của 
nhân viên; 
(j) Bảo đảm chất lượng; 
(k) Quản lý thay đổi; 
(l) Quy trình phản hồi; 
(m) Kế hoạch dự phòng và luyện tập; 
(n) Tự đánh giá; 
 Hành vi giúp cho an ninh hạt nhân 
hiệu quả hơn 
Hành vi của lãnh đạo 
(a) Kỳ vọng; 
(b) Sử dụng quyền lực; 
(c) Ra quyết định; 
(d) Giám sát; 
(e) Sự tham gia của nhân viên; 
(f) Trao đổi thông tin hiệu quả; 
(g) Cải tiến công việc; 
(h) Động lực. 
Hành vi của nhân viên 
(a) Ứng xử chuyên nghiệp; 
(b) Trách nhiệm giải trình cá nhân; 
(c) Tuân thủ quy trình; 
(d) Làm việc nhóm và hợp tác; 
(e) Cảnh giác. 
JSTPM Tập 6, Số 1, 2017 87 
(o) Giao tiếp với cơ quan quản lý; 
(p) Hợp tác với các tổ chức bên ngoài; 
(q) Giữ hồ sơ. 
NGUYÊN TẮC HƯỚNG DẪN QUYẾT ĐỊNH VÀ HÀNH VI ỨNG XỬ 
(a) Động lực; 
(b) Lãnh đạo; 
(c) Cam kết và trách nhiệm; 
(d) Tính chuyên nghiệp và năng lực; 
(e) Học hỏi và cải thiện. 
NIỀM TIN VÀ THÁI ĐỘ 
(a) Tin vào sự tồn tại của mối đe dọa; 
(b) An ninh hạt nhân là quan trọng. 
Mô hình này có thể áp dụng rộng rãi cho các cơ sở hạt nhân (các nhà máy 
điện hạt nhân, cơ sở chu trình nhiên liệu, các lò phản ứng nghiên cứu, cơ sở 
vận chuyển vật liệu hạt nhân, cơ sở sử dụng nguồn phóng xạ, các tổ chức 
khác xử lý/lưu giữ vật liệu phóng xạ, hải quan và các tổ chức kiểm soát 
biên giới). Mô hình văn hóa an ninh của IAEA phân các biểu hiện của văn 
hóa thành năm yếu tố (IAEA 2008), đó là: (i) Niềm tin và thái độ; (ii) Các 
nguyên tắc hướng dẫn các quyết định và hành vi; (iii) Hành vi của lãnh đạo; 
(iv) Hệ thống quản lý; và (v) Hành vi của nhân viên. Mô hình nêu trên đang 
được IAEA phổ biến và hướng dẫn cho các quốc gia để giúp xây dựng 
VHANHN cho các cơ sơ hạt nhân và cơ sở bức xạ. Ở Việt Nam, với sự hỗ 
trợ của IAEA, một số hội thảo, tập huấn về VHANHN cũng đã được tổ 
chức với sự tham dự của các cơ sở hạt nân và cơ sở bức xạ. 
3. Khảo sát đánh giá tình hình thực hiện văn hóa an ninh tại cơ sở bức 
xạ và hạt nhân của Việt Nam 
3.1. Phạm vi khảo sát 
Hiện nay, theo phân loại mức an ninh nguồn phóng xạ quy định tại Thông 
tư số 23/2010 ngày 29/12/2010 của Bộ Khoa học và Công nghệ về Hướng 
dẫn bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ, tại Việt Nam có 28 cơ sở bức xạ sử 
dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A (mức an ninh cao nhất) và 24 cơ sở sử 
dụng nguồn chụp ảnh phóng xạ mức an ninh B đang hoạt động. Trong 
phạm vi nghiên cứu này, khảo sát về VHANHN được thực hiện tại 18 cơ sở 
bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A, 6 cơ sở sử dụng phóng xạ 
mức an ninh B và tại Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt (NCHN) - cơ sở 
bức xạ đồng thời cũng là cơ sở hạt nhân duy nhất của nước ta hiện nay. 
88 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
3.2. Đối tượng khảo sát 
Đối tượng khảo sát của nghiên cứu này bao gồm các cá nhân trực tiếp liên 
quan đến công tác an ninh hạt nhân và an ninh nguồn phóng xạ, bao gồm: 
Lãnh đạo các cơ sở, người quản lý bộ phận có sử dụng nguồn phóng xạ, 
người chịu trách nhiệm an ninh tại các cơ sở, những nhân viên làm việc trực 
tiếp với nguồn phóng xạ. 
3.3. Nội dung đánh giá 
Mẫu Bản tự đánh giá về việc thực hiện văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ 
sở bức xạ và hạt nhân do Cục An toàn bức xạ và hạt nhân (ATBXHN) thiết 
kế được xây dựng trên cơ sở bản hướng dẫn văn hóa an ninh của IAEA. 
Bản tự đánh giá này nhằm tìm hiểu về nhận thức và việc thực hiện văn hóa 
an ninh của nhân viên/người quản lý đang làm việc tại các cơ sở bức xạ và 
hạt nhân, bao gồm năm nhóm câu hỏi tương ứng với 5 yếu tố của 
VHANHN. Các câu trả lời cho các câu hỏi được chia theo mức độ đồng ý 
của đối tượng tham gia đánh giá với các ý kiến được đưa ra bao gồm 5 mức 
độ từ cao đến thấp, cụ thể như sau: (i) Hoàn toàn đồng ý; (ii) Đồng ý (đồng 
ý về cơ bản nhưng không hoàn toàn); (iii) 50/50; (iv) Tương đối đồng ý 
(đồng ý 1 phần nhưng dưới 50%); (v) Hoàn toàn không đồng ý. 
3.4. Kết quả khảo sát 
Các kết quả thu được từ 38 Bản tự đánh giá của các đối tượng tham gia 
khảo sát từ các cơ sở bức xạ và cơ sở hạt nhân như sau: 
* Các cơ sở bức xạ 
Kết quả khảo sát với 18 cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh 
A và 6 cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh B, với bộ câu hỏi 
tự đánh giá cho thấy câu trả lời “Hoàn toàn đồng ý” và“Đồng ý” đối với các 
câu hỏi chiếm tỷ lệ lớn trong khi đó các câu trả lời “50/50”, “Tương đối 
đồng ý” và “Hoàn toàn không đồng ý” chỉ chiếm một tỷ lệ rất nhỏ (cụ thể 
như trong Biểu đồ 1). Điều này cho thấy văn hóa an ninh hạt nhân tại các 
cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A hiện nay đang được 
thực hiện tương đối tốt. Tuy nhiên, bên cạnh đó, với một số lượng nhỏ các 
câu trả lời “50/50”, “Tương đối đồng ý” và đặc biệt là câu trả lời “Hoàn 
toàn không đồng ý” cũng đã cho thấy một số vấn đề bất cập trong việc thực 
hiện VHANHN tại các cơ sở được khảo sát. Đó là các bất cập trong việc 
ban hành các văn bản, quy định về quy trình và hướng dẫn an ninh nguồn 
phóng xạ, an ninh hạt nhân, trong hệ thống quản lý và nhất là trong hành vi 
của nhân viên cũng như của chính lãnh đạo các cơ sở. 
JSTPM Tập 6, Số 1, 2017 89 
Biểu đồ 1. Biểu đồ tổng hợp kết quả tự đánh giá VHANHN tại các cơ sở 
bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức an ninh A và B tại Việt Nam 
* Cơ sở hạt nhân 
Kết quả khảo sát tại cơ sở hạt nhân duy nhất tại Việt Nam là Viện NCHN 
cũng cho thấy số lượng câu trả lời “Hoàn toàn đồng ý” và“Đồng ý” chiếm 
số lượng lớn nhất, sau đó tới câu trả lời “50/50”, còn câu các câu trả lời 
“Tương đối đồng ý” và “Hoàn toàn không đồng ý” chỉ chiếm số lượng rất 
nhỏ (cụ thể như trong Biểu đồ 2). Kết quả đã cho thấy việc thực hiện 
VHANHN tại cơ sở hạt nhân duy nhất tại Việt Nam hiện nay rất tốt. Tuy 
nhiên, với một số lượng không nhỏ các câu trả lời “50/50” và một số lượng 
dù rất ít câu trả lời “Tương đối đồng ý” và “Hoàn toàn không đồng ý” cũng 
cho thấy việc duy trì và nâng cao VHANHN tại Viện NCHN trong thời 
gian tới vẫn rất cần thiết. 
Biểu đồ 2. Biểu đồ tổng hợp kết quả tự đánh giá VHANHN tại 
cơ sở hạt nhân của Việt Nam 
90 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
3.5. Đánh giá tình hình thực hiện văn hóa an ninh tại cơ sở bức xạ và 
hạt nhân của Việt Nam 
Thông qua việc khảo sát tại các cơ sở bức xạ sử dụng nguồn phóng xạ mức 
an ninh A, B và cơ sở hạt nhân, chúng ta thấy được một số vấn đề chính 
liên quan đến năm yếu tố của văn hóa an ninh được đánh giá như sau: 
- Về “Niềm tin và thái độ”: Niềm tin và thái độ về an ninh nguồn phóng 
xạ, an ninh hạt nhân của các cán bộ lãnh đạo, nhân viên quản lý, nhân 
viên kỹ thuật tại các cơ sở là đúng đắn, nhận thức đúng tầm quan trọng 
của công tác an ninh tạị cơ sở. Đây là kết quả của nhiều khóa đào tạo, 
huấn luyện cho lãnh đạo, nhân viên các cơ sở nhận thức được vai trò và 
trách nhiệm liên quan đến an ninh nguồn phóng xạ, an ninh hạt nhân do 
cơ quan pháp quy (ở đây là Cục ATBXHN) tổ chức với sự hướng dẫn 
của các chuyên gia quốc tế và trong nước. Tuy nhiên thông qua số lượng 
dù hạn chế các ý kiến trả lời không đồng thuận cũng cho thấy thái độ và 
quan điểm của lãnh đạo cũng như đội ngũ nhân viên tại các cơ sở về vai 
trò và tầm quan trọng của công tác an ninh hạt nhân và an ninh nguồn 
phóng xạ cần tiếp tục được nâng cao hơn nữa trong thời gian tới; 
- Về “Các nguyên tắc hướng dẫn các quyết định và hành vi”: Hệ thống các 
nguyên tắc hướng dẫn các quyết định và hành vi tại các cơ sở đã được 
thiết lập theo những quy định hiện hành trong nước và các hướng dẫn 
của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế. Tuy nhiên các kết quả cũng 
cho thấy trong thời gian tới để các nguyên tắc hướng dẫn các quyết định 
và hành vi được đội ngũ nhân viên tại các cơ sở hiểu và thực hiện tốt 
hơn nữa thì cần phải tiếp tục cập nhật, điều chỉnh hoặc ban hành lại các 
văn bản về quy trình và hướng dẫn an ninh nguồn phóng xạ, an ninh hạt 
nhân tại các cơ sở để hỗ trợ tốt hơn cho các nhân viên, nhấtlà các nhân 
viên mới khi vận hành và quản lý hệ thống; 
- Về “Hành vi của lãnh đạo”: Nhìn chung kết quả đánh giá cho thấy lãnh 
đạo tại các cơ sở đang hành động đúng nhằm nâng cao tiêu chuẩn an 
ninh nguồn phóng xạ, an ninh hạt nhân. Tuy nhiên, kết quả đánh giá 
cũng cho thấy để hoạt động quản lý an ninh hạt nhân tại các cơ sở trong 
thời gian tới hiệu quả hơn thì cần phải đặt ra mục tiêu định kỳ nâng cao 
tiêu chuẩn an ninh hạt nhân tại các cơ sở cũng như cần tăng cường 
thường xuyên chia sẻ thông tin về các vấn đề và sự cố an ninh nguồn 
phóng xạ, an ninh hạt nhân xảy ra trong nước cũng như ở nước ngoài để 
từ đó nâng cao nhận thức và tinh thần trách nhiệm đối với nhân viên; 
- Về “Hệ thống quản lý”: Hệ thống quản lý dành cho văn hóa an ninh hạt 
nhân tại các cơ sở đã quy định vai trò và trách nhiệm liên quan đến an ninh 
hạt nhân và an ninh nguồn phóng xạ cho từng cấp quản lý, lắp đặt được hệ 
thống bảo vệ thực thể hạt nhân (PPS) tương đối hoàn chỉnh, hiện đại. Tuy 
JSTPM Tập 6, Số 1, 2017 91 
nhiên, kết quả đánh giá cũng cho thấy trong thời gian tới để hệ thống vận 
hành, quản lý về an ninh hạt nhân, an toàn nguồn phóng xạ tại các cơ sở 
hoạt động có hiệu quả thì hệ thống tự đánh giá của các cơ sở cần phải tiếp 
tục điều chỉnh và hoàn thiện theo yêu cầu thực tiễn của công tác an ninh; 
- Về “Hành vi của nhân viên”: Kết quả đánh giá cho thấy các cán bộ, nhân 
viên trực tiếp làm công tác an ninh tại các cơ sở hiện đang thực hiện tốt 
công việc nhằm nâng cao tiêu chuẩn an ninh nguồn phóng xạ, an ninh 
hạt nhân. Tuy nhiên, bên cạnh đó cần trang bị thêm một số kiến thức, 
thông tin liên quan như: kiến thức bảo mật về nghiệp vụ của từng nhân 
viên ứng với từng vị trí công việc; các yếu tố về con người có thể ảnh 
hưởng đến an ninh nguồn phóng xạ, an ninh hạt nhân,... 
4. Các cơ chế, chính sách tác động đến văn hóa an ninh hạt nhân tại 
các cơ sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam 
4.1. Quản lý nhà nước đối với nguồn phóng xạ 
Theo quy định của Luật NLNT, Cục ATBXHN là cơ quan giúp Bộ 
KH&CN thực hiện quản lý nhà nước về an toàn bức xạ và an ninh nguồn 
phóng xạ. Ở địa phương, các Sở KH&CN là cơ quan giúp Ủy ban nhân dân 
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thực hiện chức năng quản lý nhà 
nước về an toàn và an ninh nguồn phóng xạ. 
Cục ATBXHN quản lý hệ thống hỗ trợ đăng ký cấp phép trực tuyến 
RAISVN (phần mềm quản lý khai báo, cấp phép cơ sở bức xạ, thiết bị bức 
xạ, nguồn phóng xạ của Việt Nam được xây dựng theo phần mềm của 
IAEA). Các địa phương có thể sử dụng Hệ thống RAISVN phục vụ cho 
công tác cấp phép và để phục vụ công tác quản lý các nguồn phóng xạ trên 
địa phương mình quản lý. Ngoài ra đối với các cơ sở bức xạ, RAISVN sẽ 
giúp cho việc khai báo hồ sơ trực tuyến khi làm thủ tục cấp phép, tạo điều 
kiện cho việc nhanh chóng thẩm định cấp giấy phép cho cơ sở, cải tiến thủ 
tục hành chính, hỗ trợ hiệu quả cho hoạt động của doanh nghiệp. 
4.2. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật 
Trong công tác quản lý an toàn và an ninh nguồn phóng xạ nói chung cũng 
như VHANHN nói riêng, trước tiên phải đề cập đến hành lang pháp lý để 
quản lý trong lĩnh vực này. Hiện nay, hành lanh pháp lý về VHANHN đã 
có tương đối đầy đủ các văn bản quy phạm pháp luật. 
Tháng 6/2008, Luật Năng lượng nguyên tử (NLNT) số 18/2008/QH đã được 
quốc hội thông qua và chính thức có hiệu lực từ ngày 01/01/2009 với 11 
chương và 93 điều. Chương 3 quy định về đảm bảo an toàn bức xạ và an ninh 
nguồn phóng xạ. Trong đó đã có các quy định cơ bản về biện pháp bảo đảm 
92 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ, trách nhiệm của các cơ sở sử dụng 
nguồn phóng xạ và trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước. Đây chính là 
các tiền đề cơ bản, ban đầu để xây dựng một hệ thống văn bản quy định về an 
toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ. Theo đó, trách nhiệm cao nhất về vấn 
đề an toàn, an ninh nguồn phóng xạ thuộc về người đứng đầu tổ chức được 
cấp phép tiến hành công việc bức xạ liên quan đến nguồn phóng xạ. 
Trên cơ sở Luật Năng lượng nguyên tử số 18/2008/QH12, hàng loạt các văn 
bản dưới Luật phục vụ công tác quản lý an toàn bức xạ và an ninh nguồn 
phóng xạ đã được ban hành, bao gồm: 
- Nghị định số 07/2013/NĐ-CP ngày 25/01/2010 của Chính phủ quy định chi 
tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Năng lượng nguyên tử; 
- Nghị định số 107/2013/NĐ-CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ quy định 
xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử; 
- Thông tư số 08/2010/TT-BKHCN ngày 22/7/2010 của Bộ KH&CN 
“Hướng dẫn về việc khai báo, cấp giấy phép tiến hành công việc bức xạ 
và cấp chứng chỉ nhân viên bức xạ”, với các điều khoản về đánh giá an 
toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ tại các cơ sở bức xạ khi cấp phép 
tiến hành công việc bức xạ; 
- Thông tư số 19/2010/TT-BKHCN ngày 28/12/2010 của Bộ KH&CN 
“Hướng dẫn thanh tra chuyên ngành về an toàn bức xạ và hạt nhân” với 
các điều khoản về thanh tra an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ 
trong quá trình thanh tra; 
- Thông tư số 23/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 của Bộ KH&CN 
“Hướng dẫn bảo đảm an ninh nguồn phóng xạ” với các điều khoản về 
các biện pháp an ninh nhằm đảm bảo an ninh nguồn phóng xạ từ mức an 
ninh cao nhất (mức A) đến mức an ninh thấp nhất (mức D) trong sử 
dụng, lưu giữ và vận chuyển nguồn phóng xạ; 
- Thông tư số 24/2010/TT-BKHCN ngày 29/12/2010 của Bộ Khoa học và 
Công nghệ với các điều khoản về phân loại và phân nhóm nguồn phóng 
xạ theo yêu cầu về an ninh; 
- Thông tư số 27/2014/TT-BKHCN ngày 10/10/2014 của Bộ trưởng Bộ 
KH&CN quy định chi tiết một số điều của Nghị định số 107/2013/NĐ-
CP ngày 20/9/2013 của Chính phủ về việc Xử phạt vi phạm hành chính 
trong lĩnh vực NLNT, với các điều khoản hướng dẫn về nội dung xử phạt 
vi phạm hành chính đối với an toàn bức xạ và an ninh nguồn phóng xạ; 
- Thông tư số 22/2014/TT-BKHCN ngày 25/8/2014 của Bộ KH&CN quy 
định về quản lý chất thải phóng xạ và nguồn phóng xạ đã qua sử dụng 
(Thông tư 22); 
JSTPM Tập 6, Số 1, 2017 93 
- Thông tư số 13/2014/TT-BKHCN ngày 09/6/2014 về hướng dẫn bảo 
đảm an toàn bức xạ trong y tế. 
Các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên đã quy định rõ trách nhiệm của 
các cá nhân, tổ chức và của cơ quan pháp quy trong việc đảm bảo an toàn 
và an ninh nguồn phóng xạ, hướng dẫn các tổ chức, cá nhân liên quan thực 
hiện các biện pháp bảo đảm an toàn và an ninh nguồn phóng xạ, cũng như 
quy định chi tiết các hành vi và hình thức xử phạt vi phạm hành chính về 
mất an toàn và an ninh nguồn phóng xạ. Đây là cơ sở cho việc xây dựng các 
quy định của các cơ sở bức xạ và hạt nhân về việc thực hiện an toàn, an 
ninh hạt nhân nói chung cũng như văn hóa an ninh nói riêng. 
Thông qua kết quả khảo sát, nhóm nghiên cứu nhận thấy việc hiểu và thực 
hiện các văn bản quy phạm pháp luật tại các cơ sở hiện nay là tương đối 
đầy đủ và nghiêm túc. Tuy nhiên, kết quả khảo sát cũng cho thấy một số 
quy định, hướng dẫn trong các văn bản còn chưa rõ ràng cũng như chưa 
phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của các cơ sở bức xạ và hạt nhân tại Việt 
Nam khiến cho những người quản lý cũng như những nhân viên trực tiếp 
tại các cơ sở gặp một vài khó khăn trong quá trình thực hiện. Do đó trong 
thời gian tới những văn bản quy phạm pháp luật này cũng cần phải tiếp tục 
được điều chỉnh và hoàn thiện. 
5. Đề xuất các giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân tại các cơ 
sở bức xạ và hạt nhân của Việt Nam 
Thông qua đánh giá việc thực hiện VHANHN tại các cơ sở bức xạ và hạt 
nhân tại Việt Nam cũng như các cơ chế, chính sách tác động đến VHANHN 
tại các cơ sở, nhóm nghiên cứu đề xuất một số giải pháp sau nhằm tăng 
cường VHANHN tại Việt Nam trong thời gian tới: 
- Đưa khái niệm và nội dung của VHANHN vào các văn bản quy phạm và 
chính sách về năng lượng nguyên tử liên quan; sửa đổi, hoàn thiện các 
văn bản quy phạm pháp luật liên quan để tăng hiệu quả và hiệu lực của 
việc đảm bảo an ninh hạt nhân và xây dựng VHANHN tại các cơ sở; 
tăng cường công tác thông tin, truyền thông về VHANHN; đảm bảo các 
nguồn lực để thực thi có hiệu quả; 
- Cần xây dựng VHANHN tại mỗi cơ sở đủ mạnh để hỗ trợ Nhà nước 
trong việc quản lý hiệu quả các rủi ro trong công tác an ninh. Vấn đề 
mấu chốt để tăng cường văn hóa an ninh hạt nhân là sự lãnh đạo của đội 
ngũ quản lý duy trì sự liên hệ chặt chẽ và phối hợp thực hiện các hoạt 
động đảm bảo an ninh hạt nhân, chia sẻ kinh nghiệm, phát triển kỹ thuật 
và các sự kiện có ý nghĩa bảo mật an ninh; 
- Nâng cao năng lực, nhận thức về VHANHN cho đội ngũ nhân viên an 
ninh tại các cơ sở bức xạ và hạt nhân tại Việt Nam. Thông qua đó giảm 
94 Thực trạng và đề xuất giải pháp nâng cao văn hóa an ninh hạt nhân... 
thiểu đến mức thấp nhất các khả năng xảy ra các sự cố gây mất an toàn, 
an ninh của các cơ sở. Đồng thời tăng cường nâng cao khả năng ứng phó 
sự cố cho đội ngũ nhân viên các cơ sở để khi sự cố nếu xảy ra thì cũng 
có các hành động ứng phó kịp thời, giảm thiểu đến mức thấp nhất hậu 
quả do sự cố gây ra; 
- Tăng cường trang thiết bị an ninh hiện đại, đảm bảo kinh phí đầu tư cho 
hoạt động duy tu, bảo dưỡng các trang thiết bị an ninh để cho các trang 
thiết bị an ninh luôn hoạt động; 
- Các cơ quan quản lý phải lập kế hoạch kiểm tra an ninh tại các cơ sở một 
cách thường xuyên theo đúng các quy trình an ninh chuẩn đã được phê 
duyệt. Cục ATBXHN soạn thảo và ban hành các tài liệu hướng dẫn về tự 
đánh giá VHANHN trên cơ sở các tài liệu hướng dẫn của IAEA để phổ 
biến cho các cơ sở bức xạ và cơ sở hạt nhân thực hiện; 
- Các cơ sở bức xạ và cơ sở hạt nhân phải định kỳ thực hiện hoạt động tự 
đánh giá theo các tài liệu hướng dẫn về tự đánh giá VHANHN của Cục 
ATBXHN để qua đó có các biện pháp khắc phục những vấn đề phát sinh 
trong quá trình hoạt động của cơ sở; 
- Việt Nam cần có sự trao đổi thường xuyên, liên tục với IAEA để cập 
nhật và điều chỉnh các tài liệu hướng dẫn thực hiện công tác an toàn, an 
ninh nói chung cũng như VHANHN nói riêng tại các cơ sở bức xạ và hạt 
nhân cho phù hợp với sự biến đổi của thực tiễn tại Việt Nam cũng như 
trên thế giới./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. IAEA. 1968. The Project and Supply Agreement for TRIGA Mark II reactor, 
INFCIRC/106, 12/01/1968. 
2. IAEA. 1983. The Project and Supply Agreement for Dalat IVV-9 reactor, 
INFCIRC/308, 12/1983. 
3. IAEA. 2008. Implementing Guide. Nuclear Security Culture. IAEA Nuclear Security 
Series No.7, Vienna. 
4. IAEA. 2013. Nuclear Security Fundamentals. Objective and Essential Elements of a 
State’s Nuclear Security Regime. IAEA Nuclear Security Series No.20, Vienna. 
5. IAEA. 2013. Nuclear Security Plan for 2014–2017, GOV/2013/42-GC(57)/19.. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_va_de_xuat_giai_phap_nang_cao_van_hoa_an_ninh_hat.pdf