Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác
Về thiết bị và sản xuất các dược chất
phóng xạ
a. Về thiết bị điện quang, cả nước hiện
có:
- Máy chụp X quang: 1.381
- Máy CT: 1028
- Máy MRI: 456
- Máy chụp DSA: 18
b. Về thiết bị xạ trị, cho đến nay cả nước
ta có:
- Máy xạ trị Co-60: 5
- Máy xạ trị gia tốc: 56
- Xạ phẫu: 8 (bao gồm: 5 dao gamma, 2
dao gamma quay, 01 Cyber knife)
- Máy xạ trị áp sát: 7 (bao gồm 5 máy xạ
trị áp sát suất liều cao, 2 máy suất liều thấp)
- Xạ trị trong mổ (IORT): 01
- CT mô phỏng xạ trị: 41
c. Y học hạt nhân
● Về y học hạt nhân chẩn đoán, cả nước
hiện có:
- SPECT: 25
- SPECT/CT: 15
- PET/CT: 12
- PET/MRI: 0
- Cyclotron: 5 (2 máy đang hoạt động).
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng ứng dụng bức xạ ion hóa trong điều trị ung thư và một số bệnh lý khác
THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 1Số 61 - Tháng 12/2019 I. THỰC TRẠNG VỀ ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA TRONG LĨNH VỰC ĐIỆN QUANG, Y HỌC HẠT NHÂN VÀ UNG THƯ A. Thực trạng về trang thiết bị và nhân lực chuyên ngành Điện quang, Y học hạt nhân và Xạ trị ung thư tại Việt Nam 1. Về thiết bị và sản xuất các dược chất phóng xạ a. Về thiết bị điện quang, cả nước hiện có: - Máy chụp X quang: 1.381 - Máy CT: 1028 - Máy MRI: 456 - Máy chụp DSA: 18 b. Về thiết bị xạ trị, cho đến nay cả nước ta có: - Máy xạ trị Co-60: 5 - Máy xạ trị gia tốc: 56 - Xạ phẫu: 8 (bao gồm: 5 dao gamma, 2 dao gamma quay, 01 Cyber knife) - Máy xạ trị áp sát: 7 (bao gồm 5 máy xạ trị áp sát suất liều cao, 2 máy suất liều thấp) - Xạ trị trong mổ (IORT): 01 - CT mô phỏng xạ trị: 41 c. Y học hạt nhân ● Về y học hạt nhân chẩn đoán, cả nước hiện có: - SPECT: 25 - SPECT/CT: 15 - PET/CT: 12 - PET/MRI: 0 - Cyclotron: 5 (2 máy đang hoạt động). ● Về y học hạt nhân điều trị: - Hiện cả nước đã sử dụng nhiều đồng vị phóng xạ và dược chất phóng xạ để điều trị như: I-131, P-32, I-125 (cấy hạt phóng xạ), Y-90 để điều trị ung thư tuyến giáp thể biệt hóa, cường giáp trang, bướu cổ đơn thuần, ung thư di căn xương, ung thư gan nguyên phát và thứ phát, ung thư tuyến tiền liệt - Hệ thống cấy hạt phóng xạ (Seed implantation) với I-125: 01 Bức xạ ion hóa ứng dụng trong y tế chủ yếu trong 3 lĩnh vực Y học hạt nhân (YHHN), Điện quang và Ung thư (xạ trị ung thư). Với sự tiến bộ của khoa học công nghệ, với sự ra đời của các thiết bị chẩn đoán và điều trị hiện đại, các công nghệ bức xạ tiên tiến đã được áp dụng, đem lại nhiều lợi ích to lớn cả về ý nghĩa khoa học cũng như thực tiễn, đặc biệt là ứng dụng để chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư và một số bệnh lý khác tại Việt Nam. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG BỨC XẠ ION HÓA TRONG ĐIỀU TRỊ UNG THƯ VÀ MỘT SỐ BỆNH LÝ KHÁC THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 2 Số 61 - Tháng 12/2019 - Hệ thống xạ trị trong chọn lọc (SIRT) với Y-90: 01 ● Về sản xuất và ứng dụng các dược chất phóng xạ trong chẩn đoán và điều trị: - Tất cả các cơ sở y học hạt nhân trong cả nước đều đã ứng dụng hầu hết các đồng vị phóng xạ, các hợp chất đánh dấu thường quy đã có trên thế giới để chẩn đoán và điều trị bệnh. Nguồn dược chất phóng xạ (DCPX) này một phần đáng kể được sản xuất tại Lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt, phần còn lại phải nhập từ nước ngoài. - Hiện đang có nhu cầu rất lớn để sử dụng các dược chất phóng xạ mới cho chẩn đoán và điều trị bệnh nhân, đặc biệt là bệnh nhân ung thư. 2. Về nhân lực Tình hình nhân lực của cả 3 chuyên ngành điện quang, xạ trị ung thư, y học hạt nhân như sau: a. Điện quang - Bác sỹ điện quang: 274 - Kỹ sư vật lý: 37 - Kỹ thuật viên: 443 b. Xạ trị ung thư: - Bác sỹ xạ trị ung bướu: 236 - Kỹ sư vật lý: 103 - Kỹ thuật viên xạ trị: 231 c. Y học hạt nhân: - Bác sỹ YHHN: 163 - Kỹ sư vật lý (hạt nhân): 43 - Dược sỹ hóa dược phóng xạ: 29 - Kỹ thuật viên YHHN: 103 - Điều dưỡng YHHN: 160 3. Tình hình sản xuất và cung cấp dược chất phóng xạ và hợp chất đánh dấu ở Việt Nam: + Về sản xuất thuốc phóng xạ: Hiện chỉ có một lò phản ứng hạt nhân Đà Lạt sản xuất được một số đồng vị phóng xạ: I-131, P-32, Tc-99m và một số hợp chất đánh dấu. Năng lực sản xuất không đáp ứng đủ nhu cầu của các cơ sở YHHN và ung bướu trong cả nước. + Về nhập khẩu thuốc phóng xạ: Nhiều dược chất phóng xạ, hợp chất đánh dấu phải nhập từ nước ngoài mới đáp ứng được nhu cầu chẩn đoán và điều trị của các bệnh viện. - Hiện chỉ có một công ty đủ điều kiện được Bộ Y tế cấp phép để nhập, phân phối, vận chuyển thuốc phóng xạ, do đó các cơ sở YHHN và ung bướu gặp rất nhiều khó khăn và luôn thiếu thuốc phóng xạ cho chẩn đoán và điều trị. - Các đồng vị phóng xạ, hợp chất đánh dấu (thuốc phóng xạ) do Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt sản xuất đã hết hạn visa của Bộ Y tế Việt Nam. 4. Về hoạt động của các máy gia tốc vòng (cyclotron) sản xuất đồng vị phóng xạ: Hiện tại, cả nước có 5 cyclotron, nhưng mới chỉ có 3 cyclotron đang hoạt động có giấy phép của Bộ Y tế, còn 2 cyclotron chưa đi vào hoạt động do chưa đáp ứng được các yêu cầu của Bộ Y tế. Hiện 1 cyclotron đã hỏng tiếp. Như vậy, cả nước hiện chỉ còn 01 cyclotron đang hoạt động ở Hà Nội và 01 cyclotron đang hoạt động ở Đà Nẵng). B. So sánh tình trạng trang thiết bị và nhân lực ngành Y học hạt nhân Việt Nam và một số nước trong khu vực châu Á 1. Tình hình về nhân lực ngành y học hạt nhân Trong những năm gần đây, chuyên ngành y học nhân nhân đã có những bước tiến nhanh, mạnh về nhân lực, bao gầm cả về bác sỹ YHHN, kỹ sư vật lý hạt nhân, kỹ thuật viên so với các nước trong khu vực. THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 3Số 61 - Tháng 12/2019 Bảng 1: Tình hình nhân lực ngành Y học hạt nhân Dân số (triệu người) Bác sĩ Kỹ thuật viên Kỹ sư Dược sĩ hóa học phóng xạ Nhân viên hóa học phóng xạ Điều dưỡng Khác Việt Nam 94 163 101 43 29 N/A 160 N/A Thái Lan 69 92 116 40 17 N/A 56 47 Singapore 5,6 7 13 N/A N/A N/A 12 11 Hàn Quốc 51,5 302 909 20 N/A 20 204 N/A Nepal 28,9 6 N/A N/A N/A N/A N/A N/A Malaysia 31,6 47 62 58 30 N/A N/A N/A Campuchia 14,7 2 N/A 3 1 N/A N/A N/A Indonesia 255,5 61 74 12 22 N/A N/A N/A 2. Tình hình trang thiết bị ngành Y học hạt nhân So với các nước trong khu vực thì trong những năm gần đây Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có tốc độ phát triển các kỹ thuật YHHN chẩn đoán và điều trị nhanh nhất cả về số lượng và chủng loại các thiết bị. Bảng 2: Tình hình trang thiết bị ngành Y học hạt nhân Số lượng cơ sở YHHN Gamma SPECT & SPECT/CT PET & PET/CT PET/MRI Cyclotron Việt Nam 28 06 40 12 0 05 Thái Lan 25 34 45 11 0 04 Hàn Quốc N/A 250 50 176 4 34 Pakistan 49 105 10 07 N/A N/A Nepal N/A 4 N/A 2 N/A N/A Sri Lanka 6 4 5 3 N/A N/A Myanmar 4 4 6 1 N/A 1 Mông Cổ 1 N/A 1 N/A N/A N/A Malaysia 26 N/A 27 20 N/A 05 Campuchia 1 1 N/A N/A N/A N/A Indonesia 14 N/A 14 4 N/A N/A II. MỘT SỐ TIẾN BỘ TRONG CHẨN ĐOÁN BỆNH UNG THƯ 1. Kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và kỹ thuật nội soi sinh thiết Nhiều thiết bị chẩn đoán hình ảnh hiện đại đã có mặt ở Việt Nam để chẩn đoán, mô phỏng lập kế hoạch xạ trị, sàng lọc phát hiện sớm chính xác ung thư Nhiều kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh như CT đa lớp cắt (64 dãy, 128, 256, 320, 640 dãy...), MRI 1.5 Tesla, MRI 3.0 Tesla đã cho phép chẩn nhiều loại bệnh, đặc biệt với ung thư để giúp đánh giá tổn thương u (T), tình trạng hạch (N) và di căn xa. CT hay MRI định vị (navigation) thường là phương tiện hướng dẫn sinh thiết được sử dụng nhiều nhất, kể cả phẫu thuật sinh thiết định vị u não. Đối với các tạng có tính chất di động cao như gan, lách, mạc treo, ruột thì thường sử dụng siêu âm làm phương tiện dẫn đường bởi siêu âm có tính chất tạo ảnh theo thời gian thực (real-time imaging). Máy CT 128 dãy để chẩn đoán và mô phỏng lập kế hoạch xạ trị (tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai) Máy chụp cắt lớp (CT) 640 dãy Kỹ thuật sinh thiết trong lòng (intraluminal biopsy) đã được áp dụng rộng rãi trong y học thực hành ở nhiều trung tâm y khoa lớn trên thế giới, bao gồm sinh thiết trong lòng mạch (như THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 4 Số 61 - Tháng 12/2019 sinh thiết gan qua tĩnh mạch cảnh trong, sinh thiết thận qua tĩnh mạch chủ) và sinh thiết trong lòng đường bài xuất (như sinh thiết niêm mạc đường mật, sinh thiết niêm mạc niệu quản). Đối với một số các cơ quan như tai mũi họng, dạ dày - thực quản - đại trực tràng thì sự tiến bộ của phương pháp nội soi ống mềm, siêu âm nội soi giúp xác định tổn thương ở giai đoạn sớm hơn và sinh thiết khối u tốt hơn. Thậm chí trong một số loại ung thư giai đoạn sớm, chỉ cần nội soi cắt bỏ khối u là đủ. 2. Hóa sinh miễn dịch Xét nghiệm các chất chỉ điểm khối u trong máu: AFP, AFP-L3, PIVKA II, CEA, PSA, CA125, CA 72-4 là các xét nghiệm quen thuộc trong thực hành lâm sàng ung thư. Các chỉ số này có thể là giá trị quan trọng để sàng lọc, định hướng chẩn đoán hoặc theo dõi tiến triển bệnh (đáp ứng, tái phát hoặc di căn). Xét nghiệm tìm tế bào u lưu hành trong hệ tuần hoàn (circulating tumour cells, CTCs) cũng giúp ích nhiều trong việc chẩn đoán ung thư. Qua một số lượng lớn các xét nghiệm lâm sàng sử dụng phương pháp này, người ta thấy sự xuất hiện của CTCs là một yếu tố tiên lượng mạnh đối với thời gian sống thêm toàn bộ ở những bệnh nhân ung thư vú, đại trực tràng hay tuyến tiền liệt di căn... 3. Mô bệnh học, tế bào học, di truyền học Sự phát triển của các chuyên ngành cận lâm sàng như mô bệnh học, tế bào học, di truyền học đã giúp việc điều trị bệnh ung thư tiến một bước tiến quan trọng trong việc lựa chọn bệnh nhân một cách chính xác nhất cho các phương pháp điều trị mới, tiến tới “điều trị theo từng cá thể” hay “điều trị cá thể hóa” (invidualized treatment). Các kỹ thuật nhuộm hóa mô miễn dịch với một số chất chỉ điểm nhằm phát hiện, đánh giá tình trạng các thụ thể nội tiết: ER, PR, HER2/neu... Xét nghiệm đột biến gen: KRAS, NRAS, EGFR, BRAF với kỹ thuật giải trình tự gen (DNA sequencing), hoặc PCR lai đầu dò phân tử hay kỹ thuật Scorpions ARMS (Amplification Refractory Mutation System). Chẳng hạn: Đột biến EGFR (Epidermial Growth Factor Receptor: Thụ thể yếu tố phát triển biểu bì) Gen EGFR đóng vai trò quan trọng trong hoạt động chức năng phát triển và biệt hóa của tế bào. Đột biến EGFR dẫn đến tăng biểu hiện hoặc tăng cường hoạt động của EGFR được phát hiện trong nhiều loại bệnh ung thư trong đó có ung thư phổi. Xét nghiệm EGFR thường quy cho tất cả các bệnh nhân ung thư phổi không phải tế bào nhỏ giai đoạn III và IV nhằm lựa chọn phương pháp điều trị thích hợp nhất cho bệnh nhân. Hiện nay, tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu (YHHN và UB) Bệnh viện Bạch Mai đã thực hiện được xét nghiệm đột biến EGFR cả trên mẫu mô, hoặc trên mẫu huyết tương. Cụ thể, đã thực hiện được 2.353 xét nghiệm đột biến gen EGFR (trong mẫu mô và trong huyết tương) cho ung thư phổi không tế bào nhỏ. Đột biến gen KRAS (Kirsten ras oncogene), NRAS, BRAF, DPYD Đột biến gen KRAS làm cho protein KRAS bị kích hoạt liên tục, do đó truyền tín hiệu mà không cần tín hiệu trung gian liên quan EGFR, tế bào vẫn tiếp tục tăng sinh, nhân lên Ví dụ, tác dụng kháng u nhờ ức chế EGFR của Cetuximab (Erbitux) bị bất hoạt khi KRAS đột biến, do đó Cetuximab không có chỉ định điều trị khi gen Kras bị đột biến... Tại Trung tâm YHHN và UB, bệnh viện Bạch Mai đã có 670 bệnh nhân được xác định đột biến gen KRAS, BRAF (479 ca), NRAS (338 ca) trong ung thư đại trực tràng; gen BRAF (693 ca) THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 5Số 61 - Tháng 12/2019 trong ung thư tuyến giáp; gen DPYD (338 ca); Giải trình tự gen NGS (96 ca); 3.157 bệnh nhân đã được xét nghiệm AFP, AFP-L3%, PIVKA-II để phát hiện sớm ung thư gan. Chuyển đoạn ALK (Anaplastic Lymphoma Kinase) Trong ung thư phổi không tế bào nhỏ, các dạng chuyển đoạn ALK (thường gặp nhất là tạo gen dung hợp EML4-ALK) được phát hiện bằng xét nghiệm hóa mô miễn dịch hoặc lai huỳnh quang tại chỗ (FISH). Các thuốc crizotinib, ceritinib, alectinib đã được FDA phê duyệt điều trị cho bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có chuyển đoạn ALK. 4. Các xét nghiệm sinh học đánh giá PD-1 (programmed cell death), PD-L1, PD- L2 - PD-1, CTLA-4 là thụ thể trên bề mặt lympho T. - PD-L1, PD-L2 có ở tế bào ung thư gắn với PD-1 sẽ ức chế hoạt động chức năng của lympho T, làm cho các tế bào ung thư “trốn thoát” khỏi hệ miễn dịch. Chẳng hạn, xét nghiệm PD-L1 có giá trị định hướng điều trị và tiên đoán kết quả điều trị trong ung thư phổi không tế bào nhỏ giai đoạn tiến xa khi sử dụng liệu pháp miễn dịch. Nghiên cứu quốc tế Mystic (Việt Nam có tham gia) cho thấy, sự bộc lộ PD-L1 càng cao thì đáp ứng với liệu pháp miễn dịch càng lớn 5. Xác định nồng độ một số nội tiết tố bằng kỹ thuật định lượng miễn dịch phóng xạ (RIA: Radioimmunoassay và IRMA: Immunoradiometricasay) Xác định nồng độ một số nội tiết tố có nồng độ rất thấp như: Growth hormone (GH), Cortisol, PTH, TSH, các hormone tuyến giáp (T3, T4, FT3, FT4), Thyroglobuline (Tg), anti- Tg, Osteocalcin, calcitonin, Insulin, ACTH, AFP, CEA trong máu người bình thường và một số loại ung thư khác bằng kỹ thuật định lượng miễn dịch phóng xạ. Đến nay, Trung tâm YHHN và UB, Bệnh viện Bạch Mai đã thực hiện được hơn 90.000 mẫu xét nghiệm được định lượng bằng phương pháp định lượng miễn dịch phóng xạ (RIA và IRMA) với độ chính xác cao. 6. Y học hạt nhân chẩn đoán và kỹ thuật ghi hình tích hợp (Hybrid imaging) Trong thời gian qua, nhiều thiết bị chụp cắt lớp vi tính đa dãy (Multi Slides Computed Tomography: MSCT), máy chụp cộng hưởng (Magnetic Resonance Imaging: MRI)... thế hệ mới đã ra đời, tạo ra được các hình ảnh với độ chính xác, độ phân giải cao. Nhiều tiến bộ của các phương tiện ghi hình, đặc biệt là ghi hình tích hợp (Hibrid Imaging) như PET/CT, SPECT/ CT, PET/MRI đã được tạo ra, đóng một vai trò quan trọng trong việc chẩn đoán sớm, xác định đúng giai đoạn bệnh và giúp lựa chọn phương pháp điều trị tối ưu nhất cho người bệnh nhằm kéo dài thời gian sống thêm trong khi nâng cao chất lượng cuộc sống. Kỹ thuật ghi hình tích hợp Với sự phát triển không ngừng của các kỹ thuật chẩn đoán hình ảnh và y học hạt nhân giúp tăng chất lượng bệnh: các bệnh ung thư, tim mạch, thần kinh, cơ xương khớp Các máy CT (cắt lớp vi tính) đa lớp cắt: 64, 128, 256, 320 dãy, các máy MRI (cộng hưởng từ) 1.5 Tesla, 3.0 Tesla cho phép chẩn đoán bệnh chính xác hơn với hình ảnh cấu trúc rõ nét. Sự phát triển của y học hạt nhân cũng đóng góp không nhỏ trong việc chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư. Các máy ghi hình y học hạt nhân: SPECT (Chụp cắt lớp bằng bức xạ đơn photon: Single photon emission computerized THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 6 Số 61 - Tháng 12/2019 tomography), PET (Chụp cắt lớp phát xạ positron: Positron emission tomography) cho hình ảnh chuyển hoá của các tế bào trong cơ quan cần ghi hình. Việc tích hợp SPECT hoặc PET với CT hoặc MRI trong cùng một hệ thống máy chụp, trong 1 lần ghi hình cho bệnh nhân cung cấp cả thông tin về cấu trúc và thông tin về chức năng của cơ quan cần ghi hình. Các hệ thống ghi hình tích hợp như SPECT/CT, PET/CT, PET/MRI đang trở thành công cụ thiết yếu quan trọng cho ngành ung bướu, tim mạch, thần kinh Lợi ích của việc ghi hình kết hợp là do CT (hay MRI) cung cấp hình ảnh cấu trúc giải phẫu rõ nét, còn PET: cung cấp hình ảnh tổn thương ở giai đoạn rất sớm, ở mức độ tế bào, mức độ phân tử. Do đó PET/CT hoặc PET/MRI cho hình ảnh kết hợp đồng thời và chồng gộp trong một lần chụp với các ưu điểm của cả CT/MRI và PET, từ đó giúp chẩn đoán bệnh ở giai đoạn rất sớm, chính xác, tăng độ nhạy, độ đặc hiệu của kỹ thuật PET/CT, PET/MRI, nhờ có được đồng thời hình ảnh cấu trúc giải phẫu rõ nét của CT/MRI và hình ảnh chức năng chuyển hoá ở giai đoạn sớm của PET. PET/CT có giá trị đặc biệt tr ... ng hạt vi cầu phóng xạ 90Y liều 1,13 GBq. Hình ảnh CT ổ bụng trước và sau điều trị nút mạch bằng hạt vi cầu phóng xạ TRƯỚC ĐIỀU TRỊ - U gan: 62x58 mm, tăng sinh mạch. Giá trị AFP: 29,36 ng/ml SAU ĐIỀU TRỊ 90Y 6 THÁNG - U gan: 30x20 mm, không tăng sinh mạch. Giá trị AFP: 3,1 ng/ml Ca lâm sàng: bệnh nhân ung thư đại trực tràng di căn vào gan được điều trị bằng kỹ thuật xạ trị trong chọn lọc với 90Y và hóa chất tại Bệnh viện Bạch Mai Bệnh nhân: Nguyễn Đình Tr. Nam, 49 tuổi. Chẩn đoán: Ung thư đại tràng di căn gan, giai đoạn IV. Xạ trị trong chọn lọc bằng vi cầu phóng xạ 90Y liều 2,05 GBq + FOLFOX4. TRƯỚC ĐIỀU TRỊ Ugan: 7,0x8,6 cm, tăng sinh mạch. Giá trị CEA: 1.000 ng/ml SAU ĐIỀU TRỊ 90Y + FOLFOX4 6 THÁNG U gan 3,0x3,5 cm, giảm tăng sinh mạch. Giá trị CEA: 40 ng/ml Hình ảnh CT gan trước và sau điều trị bằng hạt vi cầu phóng xạ 90Y 5.5. Điều trị ung thư và một số bệnh lý khác bằng các đồng vị phóng xạ và một số dược chất phóng xạ (thuốc phóng xạ) Điều trị ung thư biểu mô tuyến giáp thể biệt hóa, bệnh bướu tuyến giáp lan tỏa nhiễm độc THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 18 Số 61 - Tháng 12/2019 bằng iốt phóng xạ 131I. Điều trị ung thư di căn xương, bệnh đa hồng cầu nguyên phát bằng 32P - Đã có hơn 3.600 bệnh nhân ung thư tuyến giáp thể biệt hoá và hơn 2.500 bệnh nhân bệnh bướu tuyến giáp lan toả nhiễm độc (Basedow) được điều trị thành công bằng 131I. Đã có hàng nghìn bệnh nhân đã được chữa khỏi bằng các đồng vị phóng xạ nói trên. - Hơn 1.000 bệnh nhân ung thư di căn xương đã được điều trị giảm đau bằng 32P với hiệu quả giảm đau cao, an toàn, kinh tế, nâng cao chất lượng cuộc sống cho bệnh nhân ung thư. 5.6. Xạ trị định vị thân (Stereotactic Ablative Radiotherapy (SABR) or Stereotactic Body Radiation Therapy (SBRT) Là phương pháp xạ trị hiện đại phân liều lớn với độ chính xác cao và thiết bị cố định thân chuẩn. Liều bức xạ tại khối u rất cao (BED > 100 Gy) sẽ hủy hoại khối u như một cuộc phẫu thuật. Xạ trị định vị thân trong bệnh ung thư được áp dụng khi khối u có kích thước nhỏ, còn khu trú như ung thư phổi, gan (kích thước u dưới 5 cm), chưa có di căn hạch mà bệnh nhân có chống chỉ định phẫu thuật, tuổi cao, hoặc bệnh nhân từ chối phẫu thuật. Các nghiên cứu cho thấy, SABR là phương pháp không xâm nhập, an toàn, có hiệu quả điều trị cao tương đương với phẫu thuật giai đoạn sớm. Ngoài ra, SABR còn điều trị hiệu quả cho các trường hợp di căn gan, phổi đơn độc. Liều bức xạ thường dùng là 45-60 Gy, chia làm 3-4 fractions. 5.7. Xạ trị trong mổ (IntraOperative RadioTherapy: IORT) Kỹ thuật xạ trị trong phẫu thuật hay trong mổ còn được gọi là xạ trị trong mổ trúng đích (Targeted Intraoperative Radiation Therapy: TARGIT) thực chất là một loại xạ trị áp sát với các tia X năng lượng thấp và khả năng xuyên sâu vào mô kém nên chỉ có tác dụng tại chỗ không ảnh hưởng hoặc ảnh hưởng rất ít tới mô lành xung quanh. Đó chính là cơ sở khoa học của kỹ thuật IORT. IORT là kỹ thuật không xâm lấn, dễ chịu đựng hơn so với các loại hình xạ trị khác, áp dụng cho từng cá thể và làm tăng độ chính xác trúng đích. Giảm thời gian hoặc không cần phải xạ chiếu ngoài bổ trợ sau mổ, giảm tác dụng ngoại ý lên cơ quan lành, tiết kiệm chi phí cho người bệnh, giảm tỷ lệ tái phát tại chỗ, đảm bảo tính thẩm mỹ. Tăng khả năng xạ trị thích hợp cho từng bệnh nhân. IORT được sử dụng ở Mỹ từ năm 1999, đến nay trên 80 cơ sở trên khắp các châu lục ứng dụng kỹ thuật này. Đã có trên 100 bài báo về lâm sàng với hàng ngàn bệnh nhân được công bố về kết quả điều trị cũng như lợi ích mang lại. Có thể áp dụng IORT cho nhiều loại ung thư như: ung thư vú, trực tràng, tử cung, phổi, bàng quang, di căn xương, cột sống, ung thư phần mềm, u lympho ác tính 5.8. Xạ trị áp sát (Brachytherapy) Xạ trị áp sát là phương pháp đặt nguồn đồng vị phóng xạ áp sát vị trí cần điều trị. Xạ trị áp sát giúp nâng liều bức xạ cao hơn ở một số vị trí trong cơ thể, thời gian xạ trị áp sát thường ngắn hơn so với xạ trị chiếu ngoài. Xạ trị áp sát là phương pháp xạ trị rất khu trú, liều xạ được đưa tới vùng chiếu xạ bằng một hoặc nhiều nguồn kín. Ưu điểm: - Giảm liều chiếu xạ vào vùng xung quanh khối u, tăng liều xạ trị tại khối u và có thể kiểm soát liều xạ tại các cấu trúc xung quanh khối u. - Thời gian điều trị ngắn nên sẽ ngăn ngừa quá trình tái nhân lên của tế bào ung thư. Nhược điểm: Liều xạ trị trong một lần điều trị cao nên nếu có bất kỳ một sai sót nào trong quá trình điều THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 19Số 61 - Tháng 12/2019 trị đều có thể dẫn đến những nguy hiểm cho các mô lành. Do đó việc xác định chính xác liều xạ trị, cơ quan cần xạ trị là một việc vô cùng quan trọng. 5.9. Điều trị phóng xạ thụ thể peptid (Peptide Receptor Radionuclide Therapy - PRRT) Điều trị phóng xạ thụ thể peptid là kỹ thuật sử dụng đồng vị phóng xạ gắn với peptid, phức hợp này thông qua thụ thể peptid trên bề mặt tế bào u đi vào trong tế bào khối u và tiêu diệt tế bào. Phương pháp này chỉ định cho các khối u nội tiết không còn khả năng phẫu thuật, có hình ảnh chụp thể hiện tăng biểu hiện thụ thể somatostatin (SSTR). Thuốc phóng xạ là 111In-octreotide, 90Y-DOTA, 90Y-DOTATOC, 177Lu-DOTATE,... đã được nghiên cứu và ứng dụng trong điều trị phóng xạ thụ thể peptid trên thế giới, mang lại hiệu quả cao. 5.10. Các dược chất phóng xạ phát tia alpha trong điều trị (targeted alpha therapy - TAT) Bên cạnh các đồng vị phóng xạ phát tia beta được sử dụng rộng rãi trong điều trị y học hạt nhân như 131I (điều trị basedow, ung thư tuyến giáp thể biệt hoá, các khối u nội tiết...), 32P (điều trị bệnh đa hồng cầu nguyên phát, điều trị giảm đau do ung thư di căn xương...), 90Y-octreotide (điều trị u thần kinh nội tiết), 90Y-ibritumomab (điều trị u lympho ác tính không Hodgkin), các đồng vị phóng xạ phát tia alpha chứng minh được hiệu quả cao và đầy triển vọng trong điều trị bệnh như: 223Ra (điều trị ung thư di căn xương), 177Lu- octreotide (điều trị u nguyên bào thần kinh), 213Bi- cDTPA (điều trị u hắc tố)... Tia alpha với ưu điểm có mức năng lượng cao, quãng chạy ngắn trong mô (50-100 µm), làm tổn thương DNA tế bào, tiêu diệt tế bào u và không ảnh hưởng đến các tế bào lành xung quanh. Hướng phát triển đầy hứa hẹn trong tương lai là sự kết hợp giữa các đồng vị phóng xạ phát tia alpha với các nanobodies giúp tăng hiệu quả điều trị các khối u đặc hiệu hơn. 5.11. Xạ trị proton (Proton beam radiotherapy - PBRT) Bệnh nhân đầu tiên được xạ trị proton từ năm 1955. Năm 1988 Cục Quản lý Dược phẩm và Thực phẩm Hoa Kỳ (FDA) đã phê duyệt xạ trị proton cho bệnh nhân ung thư. Cho đến nay, hơn 90.000 người trên toàn thế giới đã được xạ trị proton tại các trung tâm ở châu Âu, châu Á và Hoa Kỳ. Máy xạ trị Proton Xạ trị proton hay xạ trị bằng hạt nặng là kỹ thuật xạ trị sử dụng các hạt nặng như proton H+, C12, He4 2 tiêu diệt tế bào khối u. Một proton là một hạt tích điện dương và là một phần của một nguyên tử, các đơn vị cơ bản của tất cả các nguyên tố hóa học, chẳng hạn như hydro hay oxy. Khi ở mức năng lượng cao, proton có thể tiêu diệt tế bào ung thư. Xạ trị proton là một phương pháp rất hiệu quả để xạ trị các khối u. Nó phá các hủy tế bào ung thư bằng cách ngăn THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 20 Số 61 - Tháng 12/2019 chặn không cho chúng phân đôi và tăng trưởng, cũng giống như xạ trị truyền thống sử dụng năng lượng tia X... Sự khác biệt giữa hai phương pháp điều trị là xạ trị proton có khả năng hướng chùm tia bức xạ rất chính xác vào khối u và chiếu trực tiếp vào trong khối u đó, rồi dừng lại ngay tại khối u. Trong khi đó, xạ trị truyền thống (xạ trị gia tốc.) thì chùm tia bức xạ sau khi đi qua khối u thì vẫn tiếp tục đi xuyên qua các mô lành ở đằng sau khối u, phá hủy những tế bào lành này. Điều này là do tia X là sóng điện từ, không có khối lượng, cũng không có điện tích, nên có thể thâm nhập và đi xuyên qua mô. Trong khi đó, proton có một khối lượng (mặc dù cực nhỏ) và có điện tích, nên có thể tập trung bức xạ ở độ sâu chính xác tại ngay khối u. Vì vậy xạ trị proton cho phép bệnh nhân nhận liều bức xạ rất cao tại khối u, nên hiệu quả điều trị cao hơn, nhưng đồng thời lại giảm tổn thương tối đa cho các mô lành xung quanh khối u. So sánh tính ưu việt của xạ trị proton so với xạ trị truyền thống So sánh lợi ích của xạ trị proton với xạ trị truyền thống (LINAC): - Chiếu bức xạ vào khối u và các tế bào ung thư với độ chính xác cao - Giảm nguy cơ phá hủy tới các tổ chức lành - Ít có những tác dụng phụ, cả trước mắt và lâu dài - Cải thiện chất lượng cuộc sống trong và sau khi điều trị - Giảm khả năng tái phát sau xạ trị - Có thể chỉ định xạ trị proton với các khối u tái phát sau xạ trị - Thích hợp và có hiệu quả đối với bệnh nhân ung thư là người lớn và trẻ em Hình trên cho thấy xạ trị proton giúp tập trung chùm tia bức xạ cao nhất và chính xác vào khối u, nhưng giảm thấp tối đa liều bức xạ trước khi đến khối u và giảm ngay và dừng lại sau khi đi qua khối u Hình trên cho thấy các vùng của não khi tiếp xúc với bức xạ khi xạ trị. Hình bên trái cho thấy điều trị proton thì liều bức xạ chỉ tập trung chính vào khối u (tumor), trong khi xạ trị truyền thống (xạ trị gia tốc) thì trường chiếu lan tỏa ra cả nhu mô não, mắt, mũi và thân não (hình bên phải THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 21Số 61 - Tháng 12/2019 Xạ trị proton cho ung thư mắt ở trẻ em Xạ trị proton cho bệnh nhân ung thư thưc quản có hiệu quả điều trị cao và an toàn, ít biến chứng hơn so với xạ trị truyền thống Tóm lại: Ưu điểm của xạ trị bằng hạt nặng là (1) tập trung liều bức xạ tại khối u rất cao, (2) độ chính xác cao, (3) liều bức xạ đối với các cơ quan lành rất thấp (hình 1), (4) có thể thực hiện được để điều trị các khối u sâu, các khối u được bao bọc bởi các cơ quan lành rất nhạy cảm với bức xạ xung quanh như u não, ung thư xoang sàng, u trung thất, ung thư phổi, ung thư gan, ung thư tuyến tiền liệt Điều trị ung thư bằng ion nặng đang mở ra bước tiến mới trong xạ trị ung thư. Khả năng tiêu diệt tế bào ung thư mạnh hơn 2, 3 lần so với phương pháp xạ trị thông thường nên ưu thế đặc biệt với các khối u kháng bức xạ. Nhược điểm: là hệ thống xạ trị hiện đại đắt tiền, đặc biệt là giá thành bảo trì, bảo dưỡng hàng năm rất cao... 5.12. Xạ trị bằng hạt neutron (Neutron beam therapy - NBT) Xạ trị bằng hạt neutron là kỹ thuật xạ trị có ưu thế hơn xạ trị thông thường là (1) giảm yếu tố tăng cường oxy, (2) giảm hoặc mất khả năng sửa chữa của tế bào sau khi bị tổn thương, (3) ít biến đổi độ nhạy trong chu kỳ phân bào của tế bào. Hạt neutron được sinh ra từ máy gia tốc hạt (particle accelerator). Neutron được sử dụng chủ yếu để điều trị ung thư tuyến nước bọt, sarcoma mô mềm, ung thư phổi, tuỵ, đại tràng, thận và ung thư tuyến tiền liệt. 5.13. Xạ trị kích hoạt bằng neutron (Boron neutron capture therapy - BNCT) Là phương pháp xạ trị được sử dụng chủ yếu điều trị các khối u não. Bệnh nhân trước khi điều trị được tiêm (uống) thuốc chứa boron (10B). 10B sẽ được các tế bào khối u bắt giữ. Bệnh nhân sẽ được chiếu xạ bằng hạt neutron. Các hạt neutron nhiệt gây phân rã hạt nhân 10B thành hai hạt năng lượng cao là helium và lithium) tiêu diệt tế bào u mà không gây ảnh hưởng đến nhu mô lành xung quanh. 10B + n th → [11B]* → α + 7Li + 2,31 MeV Bên cạnh đó, ghi hình PET (18F-BPA-PET) có thể giúp đánh giá sự tập trung boron trong khối u trước khi điều trị. 5.14. Y học phóng xạ nano (Radionanomedicine) Đây là một hướng đi rất mới trên thế giới hiện nay, sử dụng các thuốc có kích thước nano (1-100 nm) được đánh dấu phóng xạ ứng dụng trong chẩn đoán, theo dõi, điều trị, phòng bệnh. So với các thuốc trọng lượng phân tử thấp truyền thống, các thuốc nano đánh dấu phóng xạ này mang nhiều ưu điểm về dược động học, vượt được các hàng rào sinh học và có thể tập trung tại mô đích cho chất lượng ghi hình chẩn đoán cũng như hiệu quả điều trị cao. Đây là một hướng đi rất hứa hẹn trong chẩn đoán và điều trị nhiều bệnh lý đặc biệt là các ung thư. Hiện nay, nhiều nghiên cứu vẫn đang được tiến hành với để phát triển kỹ thuật cũng như chứng minh hiệu quả và tính an THÔNG TIN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ HẠT NHÂN 22 Số 61 - Tháng 12/2019 toàn của liệu pháp này. KẾT LUẬN Ngày nay, việc chẩn đoán và điều trị bệnh đặc biệt với ung thư yêu cầu sự kết hợp của nhiều chuyên khoa như: chẩn đoán hình ảnh, y học hạt nhân, giải phẫu bệnh, sinh hóa, miễn dịch, phẫu thuật, xạ trị, nội khoa, để đạt được kết quả tốt nhất cho người bệnh. Trong tương lai, các kỹ thuật ứng dụng công nghệ bức xạ tiên tiến như PET/MRI, điều trị miễn dịch phóng xạ, xạ trị sử dụng proton và ion nặng, xạ trị kích hoạt neutron, sử dụng các dược chất phóng xạ mới trong chẩn đoán và đặc biệt trong điều trị sẽ sớm được nghiên cứu áp dụng tại Việt Nam. Mai Trọng Khoa Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu Bệnh viện Bạch Mai _________________________________ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Felipe A (2017), Intraoperative irradiation: precision medicine for quality cancer control promotion, Radiation oncology 2017, doi.org/10.1186/s13014-017-0764-5 2. Francesco G, Lisa B et al (2011), EANM procedure guidelines for the treatment of liver cancer and liver metastases with intra-arterial radioactive compounds, Eur J Nucl Med Mol Imaging, DOI 10.1007/s00259-011-1812-2. 3. Mai Trong Khoa và CS (2019). Đánh giá kết qủa điều trị 5600 bệnh nhân u não và một số bệnh lý sọ não bằng dao gamma quay tại Trung tâm Y học hạt nhân và Ung bướu, bệnh viện Bạch Mai. Y học thực hành, số 1 (1088), 2019, tr: 62- 69. 4. IAEA 2016: Boron Neutron Capture Therapy Back in Limelight After Successful Trials, iaea.org 5. Hidekazu K (2014), Radioimmunotherapy: A Specific Treatment Protocol for Cancer by Cytotoxic Radioisotopes Conjugated to Antibodies, The Scientific World Journal, Volume 2014 (2014), Article ID 492061doi10.1155/2014/492061. 6. Nancy S, Boris GN, Eric SE et al (2017): Peptide repceptor radionuclide therapy (PRRT) Outcomes in a North American Cohort with metastatic well differentiated neuroendocrine tumors, Pancreas 2017 Feb;46(2): 151-156. 7. Yana D, Marleen K, Ahmet K et al (2016): Targeted alpha therapy using short-lived alpha-particles and the promise of nanobodies as targeting vehicle, Expert Opin Biol Ther, 2016 Aug 2; 16(8): 1035–1047. 8. Sally Tinkle et al (2014), Nanomedicines: addressing the scientific and regulatory gap, Ann. N.Y. Acad. Sci. 2014,1313:35-56. 9. Dong Soo Lee, Hyung-Jun Im, Yun- Sang Lee (2015), Radionanomedicine: Widened perspectives of molecular theragnosis, 2015, 11: 795-810. 10. Edwin C. Pratt, Travis M. Shaffer, and Jan Grimm (2016), Nanoparticles and Radiotracers: Advances toward RadioNanomedicine, Wiley Interdiscip Rev Nanomed Nanobiotechnol, 2016; 8(6): 872–890. 11. Vincent t DeVita, Theodore S. Lawrence, Steven A. Rosenberg (2014), Cancer Principles and Practice of Onco.
File đính kèm:
- thuc_trang_ung_dung_buc_xa_ion_hoa_trong_dieu_tri_ung_thu_va.pdf