Thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam giai đoạn 2000-2013

Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc phát triển

kinh tế - xã hội, tạo động lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc

đẩy chuyển giao công nghệ, chủ động trong hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới đối với nước

ta. Tuy nhiên, thực trạng thu hút FDI của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, hiệu quả

sử dụng chưa cao, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư còn chưa hợp lý. Vì vậy, việc lựa chọn những

giải pháp thu hút và sử dụng FDI hợp lí sẽ giúp nền kinh tế - xã hội nước ta phát triển ngày càng

nhanh, mạnh. Bài báo sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá thực trạng hoạt động

của doanh nghiệp FDI nước ta trong 13 năm qua, phát hiện những hạn chế của lĩnh vực này

và đề xuất một số giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư FDI trong

tương lai.

pdf 8 trang kimcuc 12640
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam giai đoạn 2000-2013", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam giai đoạn 2000-2013

Thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại việt nam giai đoạn 2000-2013
27
Thực trạng sản xuất . . .
THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA DOANH 
NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI 
VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2000-2013
Khổng Văn Thắng*
TÓM TẮT 
Trong những năm qua, đầu tư nước ngoài đã góp phần quan trọng vào việc phát triển 
kinh tế - xã hội, tạo động lực đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc 
đẩy chuyển giao công nghệ, chủ động trong hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới đối với nước 
ta. Tuy nhiên, thực trạng thu hút FDI của Việt Nam còn gặp nhiều khó khăn, thách thức, hiệu quả 
sử dụng chưa cao, việc phân bổ nguồn vốn đầu tư còn chưa hợp lý. Vì vậy, việc lựa chọn những 
giải pháp thu hút và sử dụng FDI hợp lí sẽ giúp nền kinh tế - xã hội nước ta phát triển ngày càng 
nhanh, mạnh. Bài báo sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá thực trạng hoạt động 
của doanh nghiệp FDI nước ta trong 13 năm qua, phát hiện những hạn chế của lĩnh vực này 
và đề xuất một số giải pháp nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả nguồn vốn đầu tư FDI trong 
tương lai.
Từ khóa: đầu tư trực tiếp, doanh nghiệp, cơ cấu đầu tư, tăng trưởng kinh tế. 
CURRENT STATUS OF PRODUCTION AND BUSINESS ENTERPRISES OF 
FOREIGN DIRECT INVESTMENT IN VIETNAM IN THE PERIOD 2000 -2013
ABSTRACT
Over the past few years, FDI has contributed greatly to the development of the economy 
and society, pushed the speed of growth, transfered economic structures, technology, and integrated 
actively with the region and the world of Viet Nam. However, the current situation of acttracting FDI 
of Viet Nam still has to be faced with many difficulties, challenges, and low efficiency, the allocation 
of investment capital are not rational. Therefore, choosing the good methods of attracting and 
using FDI will help develop the economy and society more quickly and strongly. This paper, using 
descriptive statistical methods to assess the current status of FDI enterprises operating in our 
country for 13 years, discovered the limitations of the field and proposes a number of solutions to 
continually improve effective investment in future FDI.
Keysword: direct investment, business, investment structure, economic growth. 
* ThS. Cục Thống kê tỉnh Bắc Ninh, ĐT: 0982857009
28
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Từ khi có Luật Doanh nghiệp và Luật 
Doanh nghiệp sửa đổi năm 2005 đã tạo điều 
kiện thuận lợi cho khu vực doanh nghiệp nói 
chung và đặc biệt là khu vực có vốn đầu tư 
nước ngoài (FDI) tăng lên nhanh chóng và có 
vai trò đáng kể thúc đẩy tốc độ tăng trưởng 
của nhiều ngành kinh tế. Đặc biệt, doanh 
nghiệp FDI còn là động lực để thúc đẩy các 
ngành thuộc công nghiệp chế biến, chế tạo 
trong nước, làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
theo hướng tích cực và góp phần giải quyết có 
hiệu quả nhiều vấn đề xã hội và hội nhập kinh 
tế quốc tế, trở thành một bộ phận quan trọng 
của nền kinh tế, năm 2013 các doanh nghiệp 
FDI chiếm tới 45,4% tổng lợi nhuận và 30,5% 
tổng số nộp ngân sách nhà nước của toàn bộ 
khu vực doanh nghiệp. Đồng thời, khu vực 
doanh nghiệp FDI còn đóng góp tỷ trọng ngày 
càng vào GDP. Năm 1995 tỷ lệ đóng góp vào 
GDP của khu vực FDI chỉ đạt 6,3%, tăng lên 
15,2% năm 2000 và 19,6% năm 2013.
2. DOANH NGHIỆP FDI TĂNG 
TRƯỞNG NHANH VỀ SỐ LƯỢNG
Theo số liệu thống kê cho thấy, chỉ 
trong vòng 13 năm doanh nghiệp FDI của 
Việt Nam đã có bước tăng trưởng rất ngoạn 
mục và khá ổn định ở hầu hết các lĩnh vực. 
Nếu như năm 2000 cả nước có 1.525 doanh 
nghiệp FDI đang hoạt động thì đến năm 2013 
trên phạm vi toàn quốc thời điểm 31/12/2013 
là 9.093 doanh nghiệp, gấp 6 lần năm 2000, 
bình quân giai đoạn 2000-2013 mỗi năm 
tăng xấp xỉ 16%. 
Nghiên cứu theo loại hình doanh nghiệp 
cho thấy, loại hình doanh nghiệp 100% vốn 
nước ngoài năm 2000 mới có 854 doanh 
nghiệp nhưng đến 2013 đã là 7.543 doanh 
nghiệp (chiếm 83% toàn bộ doanh nghiệp 
FDI), gấp 8,8 lần năm 2000, bình quân giai 
đoạn 2000 - 2013 mỗi năm tăng xấp xỉ 20%. 
Doanh nghiệp liên doanh năm 2000 là 671 
doanh nghiệp và đến năm 2013 đã là 1.550 
doanh nghiệp (chiếm 17% số doanh nghiệp 
FDI), gấp 2,3 lần năm 2000, bình quân giai 
đoạn 2000-2013 mỗi năm tăng 7,2%. 
Xét theo ngành sản xuất kinh doanh, điểm 
dễ nhận thấy số doanh nghiệp FDI đang hoạt 
động thuộc khu vực công nghiệp và xây dựng 
hiện chiếm tỷ lệ cao nhất với 73%. Nếu như 
năm 2000 khu vực công nghiệp - xây dựng 
cả nước có 1.101 doanh nghiệp, đến năm 
2013 cả nước đã có 6.629 doanh nghiệp hoạt 
động ở lĩnh vực này, bình quân giai đoạn này 
doanh nghiệp công nghiệp và xây dựng tăng 
16,1% (trong đó, riêng ngành công nghiệp 
năm 2000 đã có 1.058 doanh nghiệp, đến năm 
2013 doanh nghiệp công nghiệp đã lên đến 
6.038 doanh nghiệp, chiếm 66,4%, bình quân 
giai đoạn này doanh nghiệp công nghiệp tăng 
15,6%). Tiếp đến là khu vực dịch vụ, năm 
2000 cả nước mới có 382 doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực dịch vụ, đến năm 2013 
cả nước đã có 2.341 doanh nghiệp hoạt động 
ở lĩnh vực này, chiếm 25,7%, bình quân giai 
đoạn 2000-2013 khu vực này tăng 16,3%, cao 
hơn lĩnh vực công nghiệp cũng giai đoạn này 
0,7%. Trong khi đó, số doanh nghiệp FDI hoạt 
động trong khu vực nông, lâm nghiệp và thủy 
sản lại có mức tăng rất thấp và nhất so với cả 
3 ngành sản xuất (Công nghiệp – xây dựng; 
dịch vụ và nông,lâm, thủy sản), bình quân 
giai đoạn này chỉ tăng 9,4%, năm 2000 có 
42 doanh nghiệp thì đến năm 2013 số doanh 
nghiệp hoạt động lĩnh vực nông, lâm nghiệp 
và thuỷ sản mới có 123 doanh nghiệp, chiếm 
1,4%. Điều này cho thấy vẫn còn quá ít doanh 
29
Thực trạng sản xuất . . .
nghiệp đầu tư vào lĩnh vực mà Việt Nam có 
khá nhiều tiềm năng về lĩnh vực này.
3. LAO ĐỘNG VIỆC LÀM VÀ THU 
NHẬP CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG 
CÁC DOANH NGHIỆP CÓ VỐN ĐẦU TƯ 
NƯỚC NGOÀI NGÀY CÀNG TĂNG CAO
Lao động làm việc trong các doanh nghiệp 
FDI tại thời điểm 31/12 năm 2000 có 407.565 
người với mức thu nhập bình quân 19 triệu 
đồng/người/năm thì đến thời điểm này của 
năm 2013 đã tăng lên đến trên 3.222.538 
người, gấp gần 8 lần so với năm 2000 và thu 
thập bình quân của người lao động cũng đã 
tăng lên và đạt 78,6 triệu đồng/người/năm, 
trong đó doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài 
năm 2000 là 285.975 người, chiếm 70,2%, 
thu nhập bình quân đạt 15,2 triệu đồng/người/ 
năm, đến năm 2013 đã là 2.964.438 người, 
chiếm 92%, tốc độ tăng bình quân giai đoạn 
này là 18,8%/năm và thu nhập bình quân cũng 
đã đạt đến 74,3 triệu đồng/người/năm; doanh 
nghiệp liên doanh với nước ngoài năm 2000 
là 121.590 người, chiếm 29,8%, thu nhập 
bình quân đạt 29,4 triệu đồng/người/năm, đến 
năm 2013 thu hút được 258.101 người và chỉ 
còn chiếm 8%, bình quân mỗi năm thu hút 
thêm 216,5 nghìn lao động, góp phần đáng kể 
vào giải quyết việc làm của nền kinh tế và 
thu nhập bình quân cũng lên đến 128,6 triệu 
đồng/người/năm. Khu vực công nghiệp và 
xây dựng của các doanh nghiệp FDI hiện thu 
hút lao động đạt tỷ lệ cao nhất với 91% và 
hiện thu hút được 2.932.232 người, thu nhập 
bình quân năm 2000 là 17 triệu đồng/người/
năm đến năm 2013 lao động làm việc trong 
lĩnh vực công nghiệp – xây dựng đã có thu 
nhập bình quân đạt 68,9 triệu đồng/người/
năm (riêng ngành công nghiệp lực lượng lao 
động hiện chiếm đến 90,2% tổng lao động 
toàn khối doanh nghiệp FDI và thu hút được 
2.908.311 người, thu nhập bình năm 2000 là 
17 triệu đồng/ người/ năm, đến 2013 cũng đã 
lên đến 68,4 triệu đồng/người/năm). Lĩnh vực 
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tuy tiềm năng 
rất lớn song thu hút lao động lại khá thấp, năm 
2000 có 3.902 lao động, thu nhập bình quân 
đạt 15,8 triệu đồng/người/năm, đến năm 2013 
lĩnh vực này thu hút được 9.813 lao động, 
tăng bình quân giai đoạn 2000-2013 là 8%/
năm, thấp hơn tốc độ tăng về số lượng doanh 
nghiệp là 1,4%, song thu nhập bình quân cũng 
mới chỉ đạt mức 71 triệu đồng/người/năm. 
Riêng lĩnh vực dịch vụ, thu hút lực lượng lao 
động cho nền kinh tế nước ta có mức tăng là 
khá mạnh, năm 2000 cả nước mới có 37.293 
lao động làm việc ở lĩnh vực này với mức thu 
nhập bình quân đạt 43,8 triệu đồng/người/
năm, đến 2013 số lao động làm việc trong 
ngành dịch vụ đã là 280.494 người, tăng bình 
quân giai đoạn này lên đến 18,3%/năm và thu 
nhập bình quân đạt cao nhất trong các ngành 
kinh tế đạt đến 180,4 triệu đồng/người/năm.
4. QUY MÔ VÀ KẾT QUẢ KINH 
DOANH CỦA CÁC DOANH NGHIỆP CÓ 
VỐN ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT 
NAM NGÀY CÀNG LỚN MẠNH
Tổng nguồn vốn của khu vực doanh nghiệp 
FDI sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh 
doanh thời điểm 31/12/2013 là 3.411 nghìn 
tỷ đồng, gấp 14,2 lần năm 2000, bình quân 
giai đoạn 2000-2013 tăng 24,7%/năm. Trong 
đó, vốn của doanh nghiệp 100% vốn đầu tư 
nước ngoài năm 2000 là 89.062 tỷ đồng, đến 
năm 2013 lên đến 2.663,358 nghìn tỷ đồng, 
tăng bình quân 32,7%/năm. Xét theo ngành 
kinh doanh vốn FDI đầu tư vào khu vực công 
30
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
nghiệp và xây dựng năm 2000 có 162.618 tỷ 
đồng, chiếm 67,7% tổng nguồn vốn, đến năm 
2013 nguồn vốn của khu vực công nghiệp xây 
dựng đã là 1.883.151 tỷ đồng, chiếm 55,2%, 
và tăng bình quân giai đoạn này là 22,6%/
năm (riêng công nghiệp năm 2000 là 161.425 
tỷ đồng, chiếm 67,2% đến năm 2013 nguồn 
vốn đã là 1.845.148 tỷ đồng, chiếm 54,1%, 
tăng bình quân 22,5%/năm); tiếp đến là khu 
vực dịch vụ, năm 2000 là 76.131 tỷ đồng, 
chiếm 31,7%, đến năm 2013 nguồn vốn đã là 
1.518.419 tỷ đồng và chiếm 44,5%, tăng bình 
quân giai đoạn này là 28,3%/năm. Khu vực 
nông, lâm nghiệp và thủy sản nguồn vốn đầu 
tư năm 2000 là 1.486 tỷ đồng, chiếm 0,62%, 
đến năm 2013 nguồn vốn đầu tư vào khu vực 
này đã lên đến 9.779 tỷ đồng, chiếm 0,3%, 
mức tăng nguồn vốn đầu tư giai đoạn 2000-
2013 của khu vực này là 17%/năm. Chỉ số 
quay vòng vốn (tính bằng doanh thu trên vốn) 
của khu vực FDI cao hơn các khu vực còn lại, 
chỉ số này của khu vực FDI năm 2013 đạt 0,9 
lần (năm 2000 là 0,7 lần), trong khi khu vực 
DN ngoài nhà nước là 0,7 lần và thấp nhất là 
các DNNN chỉ có 0,5 lần. Hiệu suất sinh lợi 
trên vốn và trên doanh thu của khu vực FDI 
cao hơn nhiều so với các khu vực còn lại, cụ 
thể hiệu suất sinh lời trên vốn và trên doanh 
thu của khu vực FDI năm 2013 đạt 7,3% và 
7,9% trong khi khu vực DNNN đạt 3,2% và 
6%, thấp nhất là khu vực DN ngoài nhà nước 
với 0,8% và 1,2%. Thu nhập bình quân một 
lao động một tháng năm 2013 đạt 6,6 triệu 
đồng, thấp hơn mức 9,6 triệu đồng của khu 
vực DNNN, nhưng cao hơn mức 5,1 triệu 
đồng của khu vực DN ngoài nhà nước.
Về tài sản cố định (TSCĐ) và đầu tư dài 
hạn năm 2000 cả nước có 148.015 tỷ đồng, 
đến năm 2013 đã là 1.437.727 tỷ đồng, tăng 
bình quân giai đoạn này là 20,9%/năm. Xét 
theo loại hình doanh nghiệp thì doanh nghiệp 
100% vốn nước ngoài năm 2000 là 44.986 tỷ 
đồng, chiếm 30,4%, đến năm 2013 tổng tài 
sản và đầu tư dài hạn của doanh nghiệp 100% 
vốn nước ngoài đã là 1.033.948 tỷ đồng, 
chiếm 71,9%, tổng mức TSCĐ và đầu tư dài 
hạn, tăng bình quân là 29,9%/năm. Doanh 
nghiệp liên doanh, năm 2000 tổng TSCĐ và 
đầu tư dài hạn có 103.029 tỷ đồng, chiếm 
69,6%, đến năm 2013 là 403.779 tỷ đồng và 
chỉ còn chiếm 28% tổng TSCĐ và đầu tư dài 
hạn, bình quân giai đoạn này TSCĐ và đầu tư 
dài hạn của loại hình doanh nghiệp liên doanh 
tăng là 12,1%/năm. Chia theo ngành kinh tế 
ta thấy ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản là 
có mức đầu tư TSCĐ và đầu tư dài hạn thấp 
nhất, bình quân chỉ đạt 11,7%/năm, cụ thể là 
năm 2000 có 1.080 tỷ đồng, đến năm 2013 
mới là 4.096 tỷ đồng. Ngành công nghiệp xây 
dựng thì có mức tăng cao hơn, năm 2000 có 
102.783 tỷ đồng, đến năm 2013 là 961.859 
tỷ đồng, tăng bình quân 20,5%/năm (trong 
đó riêng ngành công nghiệp năm 2000 có 
102.338 tỷ đồng, đến năm 2013 đã là 951.064 
tỷ đồng, tăng bình quân 20,4%/năm). Ngành 
dịch vụ tuy mức vốn đầu tư chưa phải là lớn 
nhất nhưng lại có mức đầu tư tăng nhanh nhất, 
bình quân giai đoạn này tăng tới 21,8%/năm, 
cụ thể năm 2000 có 44.152 tỷ đồng, đến năm 
2013 con số này đã lên đến 471.772 tỷ đồng.
Doanh thu thuần năm 2013 của khu vực 
doanh nghiệp FDI là 3.138 nghìn tỷ đồng, gấp 
19,4 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-
2013 tăng 25,3%/năm. Trong đó, khu vực 
doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài năm 2000 
mới chỉ đạt 59.400 tỷ đồng, đến năm 2013 
doanh thu thuần đạt 2.503,46 nghìn tỷ đồng, 
tăng bình quân 21,7%/năm; doanh nghiệp 
31
Thực trạng sản xuất . . .
liên doanh năm 2000 cũng mới có doanh thu 
là 102.557 tỷ đồng đến năm 2013 cũng đã là 
634.770 tỷ đồng, tăng bình quân 8,8%/năm. 
Xét theo khu vực, khu vực công nghiệp và xây 
dựng có số doanh thu đạt cao nhất, năm 2000 
doanh thu đạt 144.860 tỷ đồng, chiếm 89,4%, 
đến năm 2013 doanh thu ngành công nghiệp 
xây dựng đã đạt 2.557.001 tỷ đồng, chiếm 
81,5%, (Trong đó, riêng ngành công nghiệp 
năm 2000 doanh thu đạt 144.076 tỷ đồng, 
chiếm 88,9%, đến năm 2013 doanh thu của 
ngành này đã đạt 2.521.443 tỷ đồng, chiếm 
80,3%, doanh thu lĩnh vực này tăng bình quân 
giai đoạn 2000-2013 là 16,4%/năm); tiếp đến 
là khu vực dịch vụ, năm 2000 doanh thu đạt 
16.591 tỷ đồng, chiếm 10,24%, đến năm 2013 
doanh thu lĩnh vực này đạt 571.741 tỷ đồng, 
chiếm 18,2% và thấp nhất là khu vực nông, 
lâm nghiệp và thủy sản, năm 2000 đạt 506 tỷ 
đồng, chiếm 0,31% đến năm 2013 doanh thu 
đạt 9.487 tỷ đồng và cũng chỉ chiếm 0,3%.
Lợi nhuận trước thuế của khối doanh 
nghiệp FDI năm 2000 cả nước đạt 21.879 tỷ 
đồng, đến năm 2013 lợi nhuận trước thuế của 
khu vực FDI đã đạt 247.843 tỷ đồng, gấp 
11,5 lần năm 2000, bình quân giai đoạn 2000-
2013 tăng 11,5%/năm. Xét theo loại hình 
doanh nghiệp, doanh nghiệp 100% vốn nước 
ngoài năm 2000 lợi nhuận trước thuế đạt 178 
tỷ đồng, đến năm 2013 lợi nhuận trước thuế 
đạt 194.965 tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn 
này là 33,2%/năm; doanh nghiệp liên doanh 
lợi nhuận trước thuế năm 2000 đạt 21.719 
tỷ đồng, đến năm 2013 đạt 52.887 tỷ đồng. 
Chia theo ngành sản xuất kinh doanh doanh, 
nghiệp FDI hoạt động lĩnh vực công nghiệp 
xây dựng lợi nhuận trước thuế năm 2000 cả 
nước đạt 22.789 tỷ đồng, đến năm 2013 lợi 
nhuận trước thuế đạt 118.624 tỷ đồng, chiếm 
47,86%, tăng bình quân 5%/năm, (trong đó, 
riêng ngành công nghiệp, năm 2000 lợi nhuận 
trước thuế đạt 22.835 tỷ đồng, đến năm 2013 
là 118.654 tỷ đồng, chiếm 47,87%, lợi nhuận 
trước thuế tăng bình quân giai đoạn này 5%/
năm); đối với ngành dịch vụ lợi nhuận trước 
thuế năm 2000 đạt (-890) tỷ đồng, đến năm 
2013 đã tăng lên mức 129.201 tỷ đồng, tăng 
bình quân 62,8%/năm. Ngành nông, lâm 
nghiệp và thủy sản lợi nhuận trước thuế năm 
2000 là (-2) tỷ đồng, đến năm 2013 đã đạt 17 
tỷ đồng, tăng bình quân giai đoạn này là trên 
20%/năm.
Đóng góp vào ngân sách Nhà nước của 
khu vực này năm 2013 là 214,3 nghìn tỷ 
đồng, gấp 9 lần năm 2000, bình quân giai 
đoạn 2000-2013 tăng 18,1%/năm. Xét theo 
loại hình doanh nghiệp cho thấy, doanh 
nghiệp 100% vốn nước ngoài năm 2000 thuế 
và các khoản đóng góp nhà nước đạt 2.355 tỷ 
đồng, đến năm 2013 con số này đã là 96.057 
tỷ đồng, doanh nghiệp liên doanh năm 2000 là 
21.573 tỷ đồng, đến năm 2013 là 118.222 tỷ 
đồng, tăng bình quân giai đoạn này là 6,9%/
năm. Chia theo ngành sản xuất kinh doanh 
cho thấy, lĩnh vực công nghiệp xây dựng 
thuế và các khoản đóng góp ngân sách năm 
2000 là 22.315 tỷ đồng, chiếm 93,2% đến 
năm 2013 là 174.128 tỷ đồng, chiếm 81,3%, 
mức đóng góp tăng bình quân là 9,7%/năm, 
(trong đó, riêng lĩnh vực công nghiệp thuế 
và các khảon đóng góp ngân sách năm 2000 
là 22.274 tỷ đồng, đến năm 2013 là 171.723 
tỷ đồng, tăng bình quân là 9,6%/năm, chiếm 
đến 80,1% tổng toàn khối). Tiếp đến là ngành 
dịch vụ, tuy số tuyệt đối về thuế và các khoản 
đã nộp ngân sách không lớn như ngành công 
nghiệp xây dựng nhưng mức tăng lại cao hợn 
rất nhiều cụ thể năm 2000 thuế và các khoản 
32
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
nộp ngân sách nhà nước là 1.602 tỷ đồng, đến 
năm 2013 là 40.016 tỷ đồng, tăng bình quân 
18,4%/ năm. Còn lại ngành nông, lâm nghiệp 
và thủy sản do số lượng doanh nghiệp ít nên 
thuế và các khảon đóng góp ngân sách cũng 
hạn chế hơn, năm 2000 là 11 tỷ đồng, đến 
năm 2013 cũng chỉ là 135 tỷ đồng, song xét 
về số tương đối thì có mức tăng cũng khá cao 
10,8%/năm.
5. MỘT SỐ HẠN CHẾ CỦA CÁC 
DOANH NGHIỆP FDI
Bên cạnh những kết quả tích cực nêu trên, 
khu vực doanh nghiệp FDI thời gian qua vẫn 
bộc lộ một số tồn tại, hạn chế, đó là:
Thứ nhất, các doanh nghiệp FDI chủ yếu 
tập trung vào hoạt động gia công, lắp ráp, 
nguyên vật liệu chủ yếu nhập ngoại nên giá trị 
gia tăng chưa cao, điển hình là các hoạt động 
lắp ráp ô tô, xe máy, điện - điện tử, may mặc, 
da giầy, trong khi Việt Nam là một nước có thế 
mạnh về nông nghiệp thì tỷ trọng vốn đầu tư 
của các doanh nghiệp FDI vào SXKD ngành 
nông, lâm nghiệp và thủy sản rất thấp và có xu 
hướng giảm dần, năm 2000 chiếm 0,6% tổng 
vốn FDI giảm xuống còn 0,3% năm 2013.
Thứ hai, kỳ vọng rất lớn của Việt Nam là 
các doanh nghiệp FDI sẽ góp phần tích cực 
nhất vào việc chuyển giao công nghệ tiên 
tiến, nâng cao trình độ, kinh nghiệm, kỹ năng 
cho các nhà quản lý doanh nghiệp của Việt 
Nam. Đồng thời với kỳ vọng phát triển nhanh 
chóng các ngành có công nghệ cao, tạo ra 
nhiều giá trị gia tăng, giúp đẩy mạnh tiến trình 
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tuy 
nhiên các kỳ vọng trên hầu như còn khá lâu 
mới đạt mục tiêu. Tỷ lệ doanh nghiệp 100% 
vốn nước ngoài thời điểm 31/12/2013 chiếm 
83% (còn lại 17% là DN liên doanh với nước 
ngoài), trong khi tỷ lệ này năm 2000 chỉ có 
56% cho thấy mô hình liên doanh không hấp 
dẫn với các nhà đầu tư nước ngoài, hoặc khi 
mới thành lập là liên doanh để tận dụng các 
điều kiện thuận lợi của các đối tác trong nước 
về đất, miễn giảm thuế, cơ sở hạ tầng và các 
ưu đãi khác, dần dần mua lại toàn bộ cổ phần 
để trở thành doanh nghiệp 100% vốn nước 
ngoài. Các doanh nghiệp FDI hiện nay chủ 
yếu tập trung vào hoạt động ở các ngành, lĩnh 
vực sử dụng nhiều lao động phổ thông có chi 
phí nhân công thấp. Mặc dù đầu tư nước ngoài 
vào Việt Nam đã được gần 30 năm, nhưng chủ 
yếu tập trung vào ngành công nghiệp chế biến 
chế tạo, khai thác dầu khí, gia công, lắp ráp 
với các trang thiết bị, dây chuyền công nghệ 
trung bình hoặc đã lạc hậu.
Thứ ba, Việt Nam đã và đang áp dụng các 
qui định về môi trường dành cho các nước đã 
và đang phát triển. Tuy nhiên, vẫn còn không 
ít các doanh nghiệp FDI không thực hiện hoặc 
thực hiện không đầy đủ các cam kết khi đăng 
ký kinh doanh về đầu tư trang thiết bị và xử lý 
chất thải, bảo vệ môi trường. 
6. MỘT SỐ GIẢI PHÁP ĐỂ NÂNG 
CAO HIỆU QUẢ DÒNG VỐN FDI VÀO 
NƯỚC TA
Thứ nhất, Việt Nam cần phát triển mạnh 
công nghiệp hỗ trợ (CNHT). Điều này sẽ 
giúp nâng cao giá trị gia tăng sản phẩm xuất 
khẩu, cũng có nghiã là vốn FDI sẽ mang lại 
hiệu quả thiết thực hơn. Ngành CNHT ở Việt 
Nam nhìn chung còn rất yếu. Tỷ lệ nguyên 
liệu, phụ tùng, linh kiện trong các sản phẩm 
vẫn phải nhập khẩu từ 70-80%. Ngay cả một số 
sản phẩm CNHT do thị trường trong nước sản 
xuất, nhưng nguyên liệu và phụ tùng nhỏ để 
sản xuất ra sản phẩm đó vẫn phải nhập khẩu. 
33
Thực trạng sản xuất . . .
Vì vậy, giá trị gia tăng tạo ra rất thấp trong tổng 
giá trị hàng hoá xuất khẩu. Do đó, nước ta cần 
thực hiện mạnh mẽ chính sách ưu tiên thu hút 
vốn đầu tư vào các dự án sản xuất sản phẩm 
CNHT theo Danh mục kèm theo quyết định 
số 1483/QĐ-TTg, ngày 26/08/2011 của Thủ 
tướng Chính phủ. Chú trọng thu hút các dự án 
đầu tư vào lĩnh vực CNHT cho mạng lưới sản 
xuất hiện có của các tập đoàn đa quốc gia đã có 
mặt tại tại nước ta như: Canon, Sanmsung
Thứ hai,ưu tiên thu hút dự án đầu tư có 
công nghệ cao, đặc biệt quan tâm tới việc lựa 
chọn đối tác đầu tư. Ưu tiên thu hút các dự 
án đầu tư sử dụng công nghệ cao, công nghệ 
hiện đại, tiên tiến, thân thiện với môi trường 
để hạn chế ô nhiễm, sử dụng tiết kiệm đất, 
sử dụng lao động chất lượng cao, ít lao động 
phổ thông. Cùng với đó thực hiện các cơ chế 
chính sách ưu đãi cao nhất đối với loại dự án 
này theo quy định của pháp luật về công nghệ 
cao. Theo đó, cần bám sát, ưu tiên thu hút các 
dự án đầu tư, sản xuất sản phẩm công nghệ 
cao theo Quyết định số 49/2010/QĐ- TTg, 
ngày 19/07/2010 về việc phê duyệt Danh mục 
công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển 
và Danh mục công nghệ cao được khuyến 
khích phát triển. Bên cạnh đó, các dự án phải 
phù hộ với tiềm năng và thế mạnh của nước 
ta, phù hợp với quy hoạch phát triển kinh tế – 
xã hội chung của vùng và cả nước, quy hoạch 
sử dụng đất, quy hoạch phát triển ngành, lĩnh 
vựcnhất là những vùng có thế mạnh về 
nông, lâm nghiệp và thủy sản vì lĩnh vực này 
lượng thu hút còn rất khiêm tốn. 
Để có dự án công nghệ cao, cần lựa chọn 
đối tác có chọn lọc. Các đối tác phải có khả 
năng đem theo công nghệ tiên tiến, công nghệ 
cao, hệ thống quản lý hiện đại, tạo tác động 
lan toả tích cực tới sự phát triển của khu vực 
kinh tế trong nước; góp phần xây dựng và 
hình thành những ngành công nghiệp mũi 
nhọn theo định hướng của nước ta và theo 
vùng. Chú trọng thiết lập quan hệ và kêu gọi 
đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia (TNCs) 
hàng đầu thế giới; các doanh nghiệp nhỏ và 
vừa (SMEs) đến từ các ngành phát triển: Mỹ, 
EU, Nhật Bản, Hàn Quốc  Cần phải thẩm 
tra kỹ năng lực, kinh nghiệm của nhà đầu tư, 
đảm bảo phát triển kinh tế nước ta theo hướng 
bền vững.
Thứ ba, lựa chọn dự án đem lại hiệu quả 
kinh tế – xã hội. Vì các nhà đầu tư chỉ quan 
tâm đến lợi nhuận của dự án dựa trên phân 
tích hiệu quả tài chính. Tuy nhiên, dưới góc 
độ quản lý Nhà nước, một trong những mục 
tiêu quan trọng của thu hút đầu tư là đem lại 
hiệu quả và lợi ích kinh tế – xã hội. Việc đánh 
giá hiệu quả kinh tế – xã hội của dự án đầu tư 
được thực hiện dựa trên các tiêu chí cơ bản, 
như: phải nâng cao mức sống của người dân, 
thể hiện trực tiếp qua mức thu nhập của người 
lao động làm việc trong các dự án được cải 
thiện theo hướng bằng hoặc cao hơn mức thu 
nhập bình quân đầu người; dự án đầu tư phải 
đem lại những tác động lan toả tích cực đối 
với khu vực lân cận, hình thành các dịch vụ, 
tạo công ăn việc làm gián tiếp cho nhân dân 
vùng dự án Dự án phải tạo cơ hội hợp tác, 
lan toả đến hoạt động sản xuất, kinh doanh 
của khu vực kinh tế trong nước.
Thứ tư, thực hiện tốt chức năng quản lý 
nhà nước về FDI, tạo hành lang pháp lý đồng 
bộ, thông thoáng, đảm bảo lợi ích của cả nhà 
đầu tư nước ngoài và của cả cộng đồng. Mọi 
thủ tục hành chính phục vụ cho hoạt động đầu 
tư phải đơn giản, gọn nhẹ, không làm tăng chi 
phí, không gây phiền hà, sách nhiễu cho nhà 
đầu tư. Thường xuyên kiểm tra, giám sát chặt 
34
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
chẽ hoạt động FDI từ khi cấp giấy chứng nhận 
đầu tư, đến khi triển khai và các công tác hậu 
kiểm khác để tăng hiệu quả kinh tế – xã hội. 
7. KẾT LUẬN
Qua phân tích thực trạng về hoạt động 
của các doanh nghiệp FDI trong 13 năm qua 
cho thấy, khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 
đã có những đóng góp quan trọng trong tiến 
trình phát triển của nền kinh tế nước ta và 
khu vực này vẫn tiếp tục có vai trò quan 
trọng trong giải quyết việc làm, tạo thu nhập 
cho người lao động; nâng cao khả năng cạnh 
tranh và hội nhập kinh tế quốc tế của Việt 
Nam. Trong thời gian tới, Chính phủ cần 
tiếp tục rà soát môi trường đầu tư, tạo yếu 
tố minh bạch và ổn định cho các nhà đầu tư 
nước ngoài để Việt Nam tiếp tục là điểm đến 
của các nhà đầu tư./
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Tổng cục Thống kê (2014). Báo cáo kết quả điều tra tình hình sản xuất kinh doanh của doanh 
nghiệp có vốn đầu tư nước ngaoif giai đoạn 2000-2013;
[2]. Thủ tướng Chính phủ (2011). Quyết định số 1483/QĐ – TTg, ngày 26/8/2011 về ban hành Danh mục 
sản phẩm CNHH ưu tiên phát triển.

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_san_xuat_kinh_doanh_cua_doanh_nghiep_co_von_dau_t.pdf