Thực trạng pháp luật lao động việt Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
Các quy định tại Chương 19 của CPTPP về
quan hệ lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến chính
sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật
lao động nói riêng của các quốc gia bao gồm 4
nội dung sau: (1) Cam kết chung về quyền lao
động; (2) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp;
(3) Nhận thức cộng đồng và sự đảm bảo về thủ
tục; (4) Sự tham gia của công chúng vào việc xây
dựng, thực thi chính sách pháp luật lao động. Các
nội dung còn lại được quy định tại Chương 19 là
các vấn đề liên quan đến cơ chế đảm bảo thực thi
Hiệp định. Trong 4 nhóm nội dung nêu trên,
“Cam kết chung về quyền lao động” là nhóm nội
dung liên quan và tác động trực tiếp tới pháp luật
lao động nước ta. Sau đây là đánh giá khái quát
tính tương thích của pháp luật lao động Việt Nam
dưới góc độ tham chiếu với CPTPP theo nhóm
nội dung “Cam kết chung về quyền lao động”.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng pháp luật lao động việt Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 31 Review Article Contemporary Vietnam’s Labour Law from the perspectives of Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership Le Thi Hoai Thu* VNU, School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 15 June 2019 Revised 25 July 2019; Accepted 19 September 2019 Abstract: The ratification of the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership (CPTPP) is a chance for the economic development of Vietnam. Also, this Agreement creates demand on legal amendment, including legal regulations on labour. This article shall focus on analyzing commitments of state members on the labour issue in this Agreement, then comparing them with national regulations for estimating the compatibility between them and providing some proposals for improving such compatibility. Keywords: TPP, labour regulations. ________ Corresponding author. E-mail address: le_hoai_thu2002@yahoo.co.uk https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4238 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 32 Thực trạng pháp luật lao động việt Nam hiện nay dưới góc nhìn tham chiếu với hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương Lê Thị Hoài Thu* Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 6 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 25 tháng 7 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 Tóm tắt: Việc tham gia Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương là một cơ hội lớn cho sự phát triển của nền kinh tế của Việt Nam. Bên cạnh đó, Hiệp định này cũng tạo ra những yêu cầu về điều chỉnh pháp lý, trong đó có quy định về pháp luật lao động. Bài viết sẽ tập trung phân tích những cam kết của các quốc gia thành viên trong lĩnh vực lao động thể hiện trong Hiệp định, từ đó đối chiếu so sánh với nội luật để xác định tính tương thích, từ đó đề xuất một số giải pháp tăng cường sự tương thích đó. Từ khóa: Hiệp định CPTPP, pháp luật lao động. 1. Khái quát chung về cam kết lao động trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương * Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) là Hiệp định thương mại tự do được đàm phán từ tháng 3/2010, bao gồm 12 nước thành viên là Hoa Kỳ, Canada, Mexico, Peru, Chile, New Zealand, Australia, Nhật Bản, Singapore, Brunei, Malaysia và Việt Nam. TPP được chính thức ký ngày 04/02/2016 và được dự kiến sẽ có hiệu lực từ 2018. Tuy nhiên, đến tháng 01/2017, ________ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: le_hoai_thu2002@yahoo.co.uk https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4238 Hoa Kỳ tuyên bố rút khỏi TPP, khiến TPP không thể đáp ứng điều kiện có hiệu lực như dự kiến ban đầu. Tháng 11/2017, 11 nước thành viên TPP ra Tuyên bố chung thống nhất đổi tên TPP thành Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương (CPTPP). CPTPP được chính thức ký kết vào tháng 3/2018 bởi 11 nước thành viên còn lại của TPP (không bao gồm Hoa Kỳ) [1]. CPTPP sẽ có hiệu lực nếu ít nhất 6 nước hoặc một nửa số thành viên CPTPP phê chuẩn Hiệp định này. CPTPP giữ nguyên gần như toàn bộ các cam kết của TPP, ngoại trừ: (i) Các cam L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 33 kết của Hoa Kỳ hoặc với Hoa Kỳ; (ii) 22 điểm tạm hoãn; (iii) Một số sửa đổi trong các Thư song phương giữa các Bên của CPTPP [2]. Đối với Việt Nam, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về việc phê chuẩn Hiệp định CPTPP và các văn kiện có liên quan vào ngày 12/11/2018. Theo đó, Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 14/01/2019. Các quy định tại Chương 19 của CPTPP về quan hệ lao động, ảnh hưởng trực tiếp đến chính sách pháp luật nói chung và chính sách pháp luật lao động nói riêng của các quốc gia bao gồm 4 nội dung sau: (1) Cam kết chung về quyền lao động; (2) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp; (3) Nhận thức cộng đồng và sự đảm bảo về thủ tục; (4) Sự tham gia của công chúng vào việc xây dựng, thực thi chính sách pháp luật lao động. Các nội dung còn lại được quy định tại Chương 19 là các vấn đề liên quan đến cơ chế đảm bảo thực thi Hiệp định. Trong 4 nhóm nội dung nêu trên, “Cam kết chung về quyền lao động” là nhóm nội dung liên quan và tác động trực tiếp tới pháp luật lao động nước ta. Sau đây là đánh giá khái quát tính tương thích của pháp luật lao động Việt Nam dưới góc độ tham chiếu với CPTPP theo nhóm nội dung “Cam kết chung về quyền lao động”. Cam kết chung về quyền lao động được coi là nội dung trung tâm và quan trọng nhất của Chương 19 Hiệp định. Tất cả các quy định khác của Chương này suy cho cùng cũng là để đảm bảo thực thi các quyền lao động tại các quốc gia thành viên của Hiệp định một cách hiệu quả nhất. Các quyền lao động mà các Bên của Hiệp định cam kết thực hiện trong quan hệ lao động tại quốc gia mình bao gồm: (i) Tự do hiệp hội và thực hiện có hiệu quả quyền thương lượng tập thể; (ii) Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc; (iii) Xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em và nghiêm cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; (iv) Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc. Đây không phải là những nội dung mới về tiêu chuẩn lao động quốc tế, mà là sự tiếp tục khẳng định các quyền lao động đã được ghi nhận trong Tuyên bố năm 1998 và được quy định trong 08 công ước cơ bản của Tổ chức Lao động quốc tế (Việt Nam đã phê chuẩn 06/08 công ước) [3]. Về cơ bản, những nội dung của 06 công ước cơ bản mà Việt Nam đã phê chuẩn đã được nội luật hóa và tổ chức thực hiện trên thực tế ở những mức độ khác nhau. Các quy định của pháp luật lao động Việt Nam cũng đã tương thích một phần với 02 công ước cơ bản Việt Nam chưa phê chuẩn (Công ước số 87 và Công ước số 105). 2. Tính tương thích của pháp luật lao động Việt Nam dưới góc độ tham chiếu với Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương 2.1. Quyền tự do hiệp hội và thực hiện có hiệu quả quyền thương lượng tập thể Thứ nhất, về quyền tự do hiệp hội. Cùng với quyền thành lập, gia nhập, hoạt động công đoàn của người lao động được ghi nhận tại Bộ luật lao động năm 2012 và được quy định chi tiết tại Luật Công đoàn năm 2012, quyền tự do hiệp hội của người sử dụng lao động cũng được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật về hội [4], được đề cập ngày càng rõ nét hơn trong Bộ luật lao động và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành Bộ luật lao động. Theo đó, đại diện của người lao động Việt Nam hiện nay có một tổ chức duy nhất là tổ chức Công đoàn Việt Nam (thuộc hệ thống của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam), tổ chức đại diện của người sử dụng lao động chủ yếu gồm: Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI); Liên minh các hợp tác xã Việt Nam (VCA); Hiệp hội các doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam (VINASME). Từ góc nhìn tham chiếu với CPTPP, cụ thể hơn là với Công ước số 87 (năm 1948) của ILO [5], có thể thấy những điểm chưa tương thích của pháp luật Việt Nam như sau: - Về quyền thành lập, gia nhập công đoàn của mọi đối tượng người lao động. Theo quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 5, Khoản 1 Điều 189 Bộ luật lao động 2012, Khoản 1 Điều 5 Luật Công đoàn 2012 chỉ những người L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 34 lao động Việt Nam làm việc trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp mới có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn. Như vậy, so với tiêu chuẩn quốc tế, luật pháp Việt Nam đã loại trừ một số đối tượng người lao động mà đáng ra họ cũng phải có quyền thành lập và gia nhập công đoàn, bao gồm: i) người lao động không phải là người có quốc tịch Việt Nam làm việc tại Việt Nam; ii) người lao động trong khu vực phi chính thức, người lao động tự do, không có quan hệ việc làm; iii) người lao động làm việc cho cá nhân, hộ gia đình (không phải là “cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp” theo quy định tại Khoản 1 Điều 5 Luật Công đoàn) [6]. - Về quyền thành lập công đoàn theo sự lựa chọn của chính người lao động. Theo Khoản 1 Điều 189 Bộ luật lao động 2012 và Khoản 2 Điều 5 Luật Công đoàn 2012, trình tự, thủ tục thành lập, gia nhập và hoạt động Công đoàn theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam. Khoản 3 Điều 188 Bộ luật lao động 2012 quy định ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở thực hiện vai trò đại diện cho tập thể người lao động. Mặc dù không có quy định nào của ILO về việc phải có bao nhiêu công đoàn ở một quốc gia, có một hay nhiều công đoàn trong một doanh nghiệp. Điều đó cho thấy việc trên thực tế chỉ có một tổ chức công đoàn duy nhất ở cấp quốc gia cũng như chỉ có một công đoàn cơ sở trong một doanh nghiệp không bị coi là trái với tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do hiệp hội nếu đó là kết quả mong muốn thực sự của chính những người lao động. Nó sẽ bị coi là trái với tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do hiệp hội nếu luật pháp có những quy định dẫn đến vị trí độc tôn của một tổ chức công đoàn đã tồn tại1. Thực chất, các quy định của Bộ luật lao động và Luật Công đoàn Việt Nam đã xác định vị thế độc tôn của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam. Do vậy, ________ 1 Từ việc xem xét các vụ khiếu kiện trên thực tế, các ủy ban chuyên gia của ILO đã ra các quyết định nêu rõ: Quy định của luật không cho phép thành lập tổ chức công đoàn thứ hai trong một doanh nghiệp là không phù hợp với Điều 2 Công ước số 87, theo đó, NLĐ có quyền thành lập và tham gia các tổ chức theo sự lựa chọn của chính mình mà không đây là nội dung chưa tương thích với Công ước 87 về tự do hiệp hội. Quyền tự do hiệp hội, tự do liên kết của người lao động bao gồm cả quyền muốn có tổ chức đại diện hay không, nếu có thì tổ chức đại diện đó là tổ chức đại diện nào là do người lao động tự quyết định. Do đó, quy định của Bộ luật lao động năm 2012 ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đương nhiên thực hiện vai trò đại diện cho tập thể người lao động cũng được coi là chưa phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về vấn đề này. - Về vấn đề thành lập công đoàn mà không phải xin phép trước. Hiện tại, Việt Nam chỉ có một hệ thống công đoàn là Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam nên luật pháp hiện hành không có các quy định về điều kiện, trình tự, thủ tục thành lập công đoàn (những việc này được thực hiện theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam). Tuy nhiên, nếu để thực hiện theo các yêu cầu của Công ước 87 thì Bộ luật lao động và các bộ luật, luật liên quan cần quy định cơ chế để người lao động có thể đăng ký thành lập công đoàn với Nhà nước theo các điều kiện, trình tự và thủ tục hợp lý, công khai và minh bạch. - Về quyền của người lao động trong việc bầu đại diện của mình một cách tự do. Tương tự như quyền tự do thành lập công đoàn mà không phải xin phép trước, Bộ luật lao động và Luật công đoàn Việt Nam không quy định việc bầu cử của công đoàn (việc bầu cử công đoàn được thực hiện theo Điều lệ Công đoàn Việt Nam). Tuy nhiên, để thực thi đầy đủ các nội dung của Công ước 87, Nhà nước cần có những quy định mang tính nguyên tắc về bầu cử công đoàn. - Về quyền tự chủ, tự quản về tài chính, tài sản công đoàn. Bộ luật lao động không có quy định về tài sản, tài chính của công đoàn. Vấn đề này được phải xin phép trước. Các quy định về một tổ chức công đoàn đơn nhất trong mỗi doanh nghiệp, trong mỗi ngành, nghề đều không phù hợp với Điều 2 Công ước số 87 (Bộ Tổng tập của Ủy ban ILO về Tự do hiệp hội, năm 2006, đoạn 313-317). L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 35 quy định tại Luật Công đoàn cho tổ chức công đoàn duy nhất là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam. Điều 26 Luật Công đoàn quy định về bốn nguồn thu tài chính công đoàn2, trong đó ngoài đoàn phí còn có kinh phí công đoàn 2% do người sử dụng lao động đóng và tài chính do ngân sách nhà nước hỗ trợ. Việc quản lý và sử dụng tài chính công đoàn cũng được quy định khá cụ thể tại Điều 27 Luật Công đoàn, trong đó đáng chú ý là Luật quy định việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn vừa theo quy định của pháp luật vừa theo quy định của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam mà không có sự phân biệt về cơ chế quản lý tài chính giữa nguồn kinh phí từ đoàn phí và nguồn từ kinh phí công đoàn. Điều luật cũng quy định khá cụ thể về mục đích sử dụng tài chính công đoàn vào các công việc cụ thể, trong đó có khá nhiều việc là thuộc chức năng chính trị - xã hội của công đoàn như tuyên truyền đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tổ chức các phong trào thi đua Về cơ chế kiểm tra, giám sát tài chính công đoàn, Điều 29 Luật Công đoàn cũng có quy định khá cụ thể, theo đó, ngoài cơ chế tự kiểm tra của công đoàn, cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng có quyền giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm toán việc quản lý, sử dụng tài chính công đoàn. Báo cáo rà soát pháp luật Việt Nam với các tiêu chuẩn lao động quốc tế do Văn phòng ILO tại Hà Nội thực hiện tháng 11/2014 đã chỉ ra những điểm chưa tương thích giữa những quy định nêu trên của pháp luật Việt Nam với tiêu chuẩn của Công ước 87, gồm [7]: i) Quy định tất cả các đơn vị sử dụng lao động phải đóng kinh phí công đoàn (2%), trái với các nguyên tắc về tự nguyện và đại diện theo Công ước 87 và trái với nguyên tắc không can thiệp theo Công ước 87. ii) Quy định hỗ trợ tài chính cho công đoàn từ ngân sách nhà nước và quy định cơ quan nhà nước có quyền thanh tra, kiểm tra tài chính công ________ 2 Tài chính công đoàn gồm các nguồn thu: i) Đoàn phí công đoàn do đoàn viên công đoàn đóng theo quy định của Điều lệ Công đoàn Việt Nam; ii) Kinh phí công đoàn do cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng bằng 2% quỹ tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội cho người lao động; iii) Ngân đoàn không phù hợp với quyền tự chủ về tài của công đoàn theo tiêu chuẩn quốc tế. - Quyền tự chủ của công đoàn trong việc xây dựng điều lệ, nguyên tắc tổ chức và hoạt động. Bộ luật lao động và Luật công đoàn không quy định cụ thể, chi tiết về điều lệ và nguyên tắc tổ chức hoạt động của công đoàn. Điều lệ Công đoàn Việt Nam do Đại hội Công đoàn Việt Nam thông qua. Điều này được coi là phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về quyền tự do hiệp hội. Tuy nhiên, Bộ luật lao động và Luật Công đoàn có các quy định cụ thể thẩm quyền của công đoàn cấp cơ sở và cấp trên trực tiếp của cơ sở. Theo các quy định này, dường như công đoàn cơ sở mới được coi là cấp công đoàn trực tiếp thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền lợi của NLĐ trong quan hệ lao động, Công đoàn cấp trên chỉ hỗ trợ công đoàn cơ sở thực hiện những nhiệm vụ trên và thực hiện thêm những nhiệm vụ với tư cách là tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị [8]. So sánh với các tiêu chuẩn của Công ước 87, những vấn đề về cơ cấu tổ chức nội bộ của công đoàn thuộc về quyền tự chủ, tự quản của công đoàn, nên sẽ do công đoàn quyết định chứ không phải Nhà nước quyết định thông qua các quy định của pháp luật. Vì vậy, quy định ... hại đến sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ em. Những quy định tại Mục 1 Chương XI Bộ luật lao động năm 2012 và các văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành về cơ bản đã đáp ứng yêu cầu của Công ước số 182. Điều 165 Bộ luật lao động năm 2012 quy định cấm sử dụng người chưa thành niên làm công việc gây tổn hại sức khỏe, an toàn hoặc đạo đức người chưa thành niên và cấm sử dụng người chưa thành niên làm việc tại sòng bạc, quán bar; vũ trường, phòng hát karaoke, khách sạn, nhà nghỉ, phòng tắm hơi, phòng xoa bóp; nơi làm việc khác gây tổn hại đến sức khỏe, sự an toàn và đạo đức của trẻ em và giao Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội quy định danh mục chi tiết các công việc nêu trên. Vấn đề còn tồn tại duy nhất trong quy định của Bộ luật lao động là chưa khẳng định rõ việc cấm cụ thể những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như định nghĩa của Công ước số 182. 2.4. Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc được ILO quy định tại Công ước số 111 (năm 1958). Theo đó, các quốc gia thành viên phải áp dụng các biện pháp phù hợp với điều kiện và thực tiễn của nước mình nhằm đảm bảo sự bình đẳng về cơ hội và chế độ đãi ngộ liên quan đến nghề nghiệp và việc làm trên cơ sở xóa bỏ mọi sự phân biệt đối xử có liên quan. Công ước số 111 xác định phạm vi của phân biệt đối xử có thể “dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến, dòng dõi dân tộc hoặc nguồn gốc xã hội”. “Phân biệt đối xử” bao gồm: i) Mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi dựa trên chủng tộc, màu da, giới tính, tôn giáo, chính kiến, dòng dõi dân tộc, hoặc nguồn gốc xã hội, có tác động trong việc làm hoặc nghề nghiệp; ii) Mọi sự phân biệt, loại trừ hoặc ưu đãi khác nhằm triệt bỏ hoặc làm phương hại sự bình đẳng về cơ may hoặc đối xử mà nước thành viên hữu quan sẽ có thể chỉ rõ sau khi tham khảo ý kiến các tổ chức đại diện của người sử dụng lao động và người lao động, nếu có và của các tổ chức thích hợp khác. Các quốc gia thành viên của ILO đã phê chuẩn Công ước sẽ phải áp dụng các biện pháp L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 40 thích hợp để phát triển, thực thi pháp luật, đảm bảo việc tuân thủ Công ước. Bộ luật lao động năm 2012 đã có một số nội dung tương thích với tiêu chuẩn quốc tế về chống phân biệt đối xử trong công việc, như: i) Đã quy định nhà nước có chính sách bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới; quy định chế độ lao động và chính sách xã hội nhằm bảo vệ lao động nữ, lao động là người khuyết tật, người lao động cao tuổi, lao động chưa thành niên (Điều 4); ii) Đã quy định nghiêm cấm phân biệt đối xử về giới tính, dân tộc, màu da, thành phần xã hội, tình trạng hôn nhân, tín ngưỡng, tôn giáo, nhiễm HIV, khuyết tật hoặc vì lý do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn; ngược đãi , quấy rối tình dục tại nơi làm việc (Khoản 1, Khoản 2 Điều 8); iii) Đã quy định người lao động có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp, học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử (Khoản 1 Điều 5); iv) Đã quy định nguyên tắc “Người sử dụng lao động phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau” (Khoản 3 Điều 90); v) Đã có những quy định riêng về lao động nữ nhằm thúc đẩy bình đẳng giới; vi) Đã có quy định về quấy rối tình dục (Điểm c Khoản 1 Điều 37, Khoản 4 Điều 182 và Khoản 1 Điều 183). Tuy nhiên, nếu thực hiện đầy đủ các quy chuẩn quốc tế về vấn đề này thì quy định của pháp luật lao động Việt Nam còn một số tồn tại sau: i) Chưa có định nghĩa về phân biệt đối xử; ii) Phạm vi nghiêm cấm phân biệt đối xử của Bộ luật lao động năm 2012 hẹp hơn so với phạm vi nghiêm cấm phân biệt đối xử của Công ước số 111 (thiếu việc nghiêm cấm phân biệt đối xử về nguồn gốc xã hội, phân biệt đối xử về chính kiến); iii) Quy định độ tuổi nghỉ hưu khác nhau giữa nam và nữ; iv) Chưa có định nghĩa về quấy rối tình dục cũng như chưa có quy định để giải quyết và phòng ngừa quấy rối tình dục tại nơi làm việc; v) Quy định về danh mục công việc cấm sử dụng lao động nữ đi ngược lại với cách tiếp cận đối với việc không phân biệt đối xử trên tất cả khía cạnh việc làm và nghề nghiệp 3. Hoàn thiện pháp luật lao động nhằm đảm bảo sự phù hợp với quy định của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ Xuyên Thái Bình Dương 3.1. Quyền tự do hiệp hội và thực hiện có hiệu quả quyền thương lượng tập thể Thứ nhất, về quyền tự do hiệp hội. Một là, cần sửa đổi quy định về đối tượng người lao động được tự do thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo hướng mở rộng đến cả các đối tượng sau: i) Người lao động không phải là người có quốc tịch Việt Nam làm việc tại Việt Nam; ii) Người lao động trong khu vực phi chính thức, lao động tự do, không có quan hệ việc làm; iii) Người lao động làm việc cho cá nhân, hộ gia đình. Hai là, cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật lao động năm 2012 theo hướng chấp nhận có thể tồn tại nhiều tổ chức công đoàn đại diện cho người lao động bên cạnh hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam; bãi bỏ quy định ở những nơi chưa thành lập tổ chức công đoàn cơ sở, công đoàn cấp trên trực tiếp cơ sở đương nhiên thực hiện vai trò đại diện cho tập thể người lao động. Ba là, cần quy định cơ chế để người lao động có thể đăng ký thành lập công đoàn với Nhà nước theo các điều kiện, trình tự và thủ tục hợp lý, công khai và minh bạch. Bốn là, cần bổ sung những quy định mang tính nguyên tắc về bầu cử công đoàn trong văn bản pháp luật của Nhà nước. Năm là, khi thực hiện triệt để quyền tự do công đoàn theo CPTPP, cần bãi bỏ các quy định của Bộ luật lao động năm 2012 và Luật công đoàn năm 2012 về việc bắt buộc người sử dụng lao động phải đóng 2% kinh phí công đoàn; quy định về hỗ trợ tài chính từ ngân sách nhà nước cho công đoàn hoạt động; các quy định về thanh tra, giám sát tài chính công đoàn. Sáu là, cần bãi bỏ các quy định cụ thể về thẩm quyền của công đoàn các cấp trong Bộ luật lao động và Luật công đoàn (việc xác định thẩm quyền của công đoàn các cấp phụ thuộc vào sự phân công công việc trong nội bộ của từng tổ chức công đoàn). L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 41 Bảy là, cần bổ sung các quy định bảo vệ người lao động và công đoàn trước các hành vi phân biệt đối xử chống công đoàn, như: i) Quy định định nghĩa về phân biệt đối xử chống công đoàn; ii) Quy định cụ thể về cấm phân biệt đối xử chống công đoàn của Bộ luật lao động và Luật Công đoàn; iii) Quy định cụ thể, thống nhất về thủ tục giải quyết tranh chấp về phân biệt đối xử chống công đoàn; iv) Quy định chế tài hình sự đối với hành vi vi phạm quy định về cấm phân biệt đối xử chống công đoàn. Tám là, cần sửa đổi, bổ sung các quy định bảo vệ công đoàn không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động, như: i) Quy định về khái niệm can thiệp, thao túng công đoàn; ii) Quy định rõ ràng và cụ thể về bảo vệ công đoàn không bị can thiệp, thao túng bởi người sử dụng lao động; iii) Quy định cụ thể, hợp lý hơn về giải quyết khiếu nại, khiếu kiện về hành vi can thiệp thao túng công đoàn; iv) Quy định về chế tài, biện pháp khắc phục hậu quả của hành vi can thiệp, thao túng công đoàn. Thứ hai, về thương lượng tập thể. - Cần bổ sung quy định cụ thể thế nào là thiện chí trong thương lượng tập thể để có thể thuận lợi, thống nhất trong áp dụng và xác định, xử lý được hành vi vi phạm nguyên tắc này. - Sửa đổi quy định về chủ thể và trình tự, thủ tục đối thương lượng tập thể theo hướng mở rộng phạm vi so với phạm vi cấp doanh nghiệp và cấp ngành như hiện nay. - Sửa đổi các quy định về trọng tài lao động của Bộ luật lao động năm 2012, trong đó cần đặc biệt chú trọng đến các vấn đề sau: quy định về trọng tài lao động theo đúng bản chất của trọng tài (có quyền ra phán quyết trọng tài); quy định cơ chế trọng tài tự nguyện, ngoại trừ những trường hợp thật cần thiết thì áp dụng cơ chế trọng tài bắt buộc; quy định về mối quan hệ giữa cơ chế trọng tài lao động và các cơ chế khác trong việc giải quyết tranh chấp lao động. 2.2. Xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc Để đảm bảo phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức lao động cưỡng bức và lao động bắt buộc, trong thời gian tới Việt Nam cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của pháp luật lao động mà quan trọng nhất là các quy định của Bộ luật lao động năm 2012. Cụ thể như sau: - Sửa đổi quy định khái niệm “cưỡng bức lao động” quy định tại Khoản 3 Điều 10 Bộ luật lao động theo hướng đảm bảo đầy đủ các tiêu chí về lao động cưỡng bức theo tiêu chuẩn quốc tế được quy định tại Công ước số 29 (năm 1930) của ILO. Cụ thể: Khái niệm cần đề cập đầy đủ những dạng ép buộc, cưỡng bức lao động được quy đinh tại Công ước số 29; Khái niệm cần xác định lao động cưỡng bức cả khi một người phải thực hiện những công việc hợp pháp hoặc công việc bất hợp pháp trái với ý muốn của họ. - Sửa đổi quy định tại Điều 107 Bộ luật lao động theo hướng thu hẹp các trường hợp người sử dụng lao động có quyền yêu cầu người lao động làm thêm giờ trong một số trường hợp nhất định vào bất kỳ ngày nào mà người lao động không được từ chối, đảm bảo chỉ cho phép lao động bắt buộc trong các trường hợp khẩn cấp, trong khoảng thời gian đặc biệt trong chiến tranh hoặc thiên tai hoặc nguy cơ thiên tai và trong các trường hợp nguy hiểm tới sự an toàn của một phần hoặc toàn nhân loại. 2.3. Xóa bỏ có hiệu quả lao động trẻ em và nghiêm cấm các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất Thứ nhất, về tuổi tối thiểu được đi làm việc. - Cần sửa đổi quy định về khái niệm “người lao động” tại Khoản 1 Điều 3 Bộ luật lao động năm 2012 theo hướng bao quát đủ các đối tượng người lao động thuộc đối tượng áp dụng của Bộ luật lao động và bảo đảm thống nhất với các quy định về sử dụng lao động là người dưới 15 tuổi tại Điều 163, Điều 164 Bộ luật lao động. - Cần bổ sung vào Bộ luật lao động quy định về thời giờ làm việc đối với người dưới 13 tuổi (tức là cần phân biệt thời giờ làm việc của hai nhóm người lao động: Nhóm người lao động đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi và nhóm người lao động dưới 13 tuổi). L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 42 - Cần bổ sung vào Bộ luật lao động quy định cụ thể về thời giờ làm thêm của người từ đủ 15 tuổi đến dưới 18 tuổi. - Cần có quy định cụ thể thế nào là trẻ em lao động trái pháp luật, trẻ em bị bóc lột sức lao động. Thứ hai, về nghiêm cấm và hành động khẩn cấp xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Cần bổ sung vào Bộ luật lao động định rõ việc cấm cụ thể những hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất như định nghĩa của Công ước số 182, gồm: i) Mọi hình thức nô lệ hay tương tự nô lệ như buôn bán và vận chuyển trẻ em, gán nợ và lao động nô lệ và lao động cưỡng bức trong đó có tuyển mộ cưỡng bức trẻ em tham gia vào các xung đột vũ trang; ii) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào hoạt động mại dâm, sản xuất các sản phẩm phim ảnh khiêu dâm hoặc biểu diễn khiêu dâm; iii) Sử dụng, dụ dỗ hoặc lôi kéo trẻ em vào các hoạt động bất hợp pháp, đặc biệt vào mục đích sản xuất và vận chuyển chất ma tuý như được nêu tại các hiệp định quốc tế; iv) Những công việc mà tính chất hoặc các điều kiện của nó có thể xâm hại đến sức khoẻ, an toàn và đạo đức của trẻ em. 2.4. Xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc Để thực hiện đầy đủ các tiêu chuẩn lao động quốc tế về xóa bỏ phân biệt đối xử trong công việc, cần rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định sau: - Bổ sung định nghĩa về phân biệt đối xử. - Cần sửa đổi quy định về phạm vi nghiêm cấm phân biệt đối xử của Bộ luật lao động năm 2012, bao gồm cả việc nghiêm cấm phân biệt đối xử về nguồn gốc xã hội, phân biệt đối xử về chính kiến. - Sửa đổi quy định về tuổi nghỉ hưu theo hướng xác định lộ trình tăng dần tuổi nghỉ hưu của lao động nữ tiếp cận gần hoặc bằng tuổi của lao động nam. - Bổ sung quy định định nghĩa về quấy rối tình dục cùng với quy định về cơ chế giải quyết và phòng ngừa quấy rối tình dục tại nơi làm việc. - Cần bãi bỏ quy định về danh mục công việc cấm sử dụng lao động nữ. Tài liệu tham khảo [1] Australia, Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. [2] Hiệp định TPP-CPTPP, [3] 08 công ước cơ bản của ILO gồm: Công ước số 87 (năm 1948) về tự ho hiệp hội và bảo vệ quyền tổ chức; Công ước số 98 (năm 1949) về quyền tổ chức và thương lượng tập thể; Công ước số 29 (năm 1930) về xóa bỏ lao động cưỡng bức; Công ước số 105 (năm 1957) về xóa bỏ lao động cưỡng bức; Công ước số 100 (năm 1951) về trả công bình đẳng giữa lao động nam và lao động nữ; Công ước số 111 (năm 1958) về chống phân biệt đối xử trong công việc; Công ước số 138 (năm 1973) về độ tuổi tối thiểu trong lao động; Công ước số 192 (năm 1999) về xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất. Việt Nam đã phê chuẩn Công ước số 100 và Công ước số 111 vào năm 1997, Công ước số 182 vào năm 2000, Công ước số 138 vào năm 2003, Công ước số 29 vào năm 2007, Công ước số 98 năm 2019. [4] Nghị định số 45/2010/NĐ-CP ngày 21/4/2010 quy định về tổ chức, hoạt động và quản lý hội; Nghị định số 33/2012/NĐ-CP ngày 13/4/2012 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 45/2010/NĐ-CP; Thông tư số 13/2013/TT-BNV ngày 16/4/2013 của Bộ Nội vụ quy định chi tiết thi hành Nghị định số 45/2010/NĐ-CP và Nghị định số 33/2012/NĐ-CP. [5] Công ước số 87 (năm 1948) của ILO. [6] Điều lệ Công đoàn Việt Nam năm 2013; Văn bản số 238/HD-TLĐ ngày 04/3/2014 của Tổng liên đoàn lao động Việt nam hướng dẫn thi hành Điều lệ Công đoàn Việt Nam. [7] Natsu Nogami, Báo cáo rà soát pháp luật Việt Nam với các tiểu chuẩn lao động quốc tế, Tài liệu kỹ thuật của Văn phòng ILO Hà Nội, 2014. [8] Bộ luật lao động năm 2012. [9] Luật công đoàn; Nghị định 95/2013/NĐ-CP ngày 22/8/2013 Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng (được sửa đổi bởi Nghị định số 88/2015/NĐ-CP). [10] Nghị định số 88/2015/NĐ-CP ngày 07/10/2015 về sửa đổi, bổ sung một số điều của nghị định số 95/2013/NĐ-CP ngày 22 tháng 8 năm 2013 của chính phủ Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, bảo hiểm xã hội, đưa người L.T.H. Thu / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 31-43 43 lao động việt nam đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. [11] Nhóm phóng viên, Hoạt động Công đoàn đóng góp vào thành tựu chung của đất nước, www:// nld.com.vn/cong-doan/phien-trong-the-dai-hoi- cong-doan-viet-nam-lan-thu-xii- 20180925081249731.htm (đăng tải: 25/09/2018 08:13). [12] Nghị quyết Đại hội Công đoàn Việt Nam lần thứ XII (Nhiệm kỳ 2018 - 2023). [13] Observation (CEACR) - adopted 2013, published 103rd ILC session (2014) C029 - Forced Labour Convention, 1930 (No. 29) - Viet Nam, tại Mục VII.
File đính kèm:
- thuc_trang_phap_luat_lao_dong_viet_nam_hien_nay_duoi_goc_nhi.pdf