Thực trạng nhu cầu học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học lao động - xã hội

Biết được thực trạng nhu cầu của mỗi cá nhân người học hay người

dạy sẽ làm người học được học môn mình yêu thích, người học sẽ đam mê,

tự giác tích cực trong học tập và rèn luyện. Sinh viên đến lớp học với thái

độ vui vẻ, nhiệt tình, học mà chơi, chơi mà học. Ngược lại giảng viên dạy

những sinh viên đam mê yêu thích môn học mà mình lựa chọn, giảng viên

sẽ phải tự mình rèn luyện nâng cao năng lực chuyên môn. Giảng viên

giảng dạy đúng (chuyên sâu) chuyên ngành sẽ tâm huyết và nhiệt tình giúp

đỡ người học, khi đó chất lượng giáo dục thể chất (GDTC) sẽ có hiệu quả

thực sự trong việc nâng cao và phát triển thể lực cho sinh viên. Việc thỏa

mãn nhu cầu học tập GDTC của sinh viên không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng

cao thể lực mà còn đáp ứng cả nhu cầu, sở thích của sinh viên, giảm bớt

căng thẳng sau thời gian học tập lý luận ở trên lớp. Qua đó giúp sinh viên

hoàn thành, phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết, đáp ứng yêu

cầu đòi hỏi của xã hội, hoàn thiện nhân cách người cán bộ trong tương lai.

Vì vậy, cần có những biện pháp phù hợp nhằm giúp sinh viên xác định rõ

mục đích, động cơ học tập và kích thích nhu cầu học tập của sinh viên.

pdf 9 trang kimcuc 3800
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng nhu cầu học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học lao động - xã hội", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng nhu cầu học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học lao động - xã hội

Thực trạng nhu cầu học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học lao động - xã hội
THỰC TRẠNG NHU CẦU HỌC TẬP MÔN GIÁO DỤC THỂ CHẤT 
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG - XÃ HỘI 
Nguyễn Ngọc Liên - BM GDTC- QP 
1. Mở đầu 
Biết được thực trạng nhu cầu của mỗi cá nhân người học hay người 
dạy sẽ làm người học được học môn mình yêu thích, người học sẽ đam mê, 
tự giác tích cực trong học tập và rèn luyện. Sinh viên đến lớp học với thái 
độ vui vẻ, nhiệt tình, học mà chơi, chơi mà học. Ngược lại giảng viên dạy 
những sinh viên đam mê yêu thích môn học mà mình lựa chọn, giảng viên 
sẽ phải tự mình rèn luyện nâng cao năng lực chuyên môn. Giảng viên 
giảng dạy đúng (chuyên sâu) chuyên ngành sẽ tâm huyết và nhiệt tình giúp 
đỡ người học, khi đó chất lượng giáo dục thể chất (GDTC) sẽ có hiệu quả 
thực sự trong việc nâng cao và phát triển thể lực cho sinh viên. Việc thỏa 
mãn nhu cầu học tập GDTC của sinh viên không chỉ đáp ứng yêu cầu nâng 
cao thể lực mà còn đáp ứng cả nhu cầu, sở thích của sinh viên, giảm bớt 
căng thẳng sau thời gian học tập lý luận ở trên lớp. Qua đó giúp sinh viên 
hoàn thành, phát triển những phẩm chất và năng lực cần thiết, đáp ứng yêu 
cầu đòi hỏi của xã hội, hoàn thiện nhân cách người cán bộ trong tương lai. 
Vì vậy, cần có những biện pháp phù hợp nhằm giúp sinh viên xác định rõ 
mục đích, động cơ học tập và kích thích nhu cầu học tập của sinh viên. 
2. Nội dung 
2.1. Nội hàm khái niệm về nhu cầu 
Nhu cầu là trạng thái của cá nhân, một trạng thái của con người cần 
một cái gì đó cho cơ thể nói riêng, con người nói chung, sống và hoạt động 
là nhu cầu chung của con người. Nhu cầu luôn luôn có đối tượng. Đối 
tượng của nhu cầu có thể là vật chất hoặc tinh thần, chứa đựng khả năng 
thỏa mãn nhu cầu. Nhu cầu có vai trò định hướng, đồng thời là động lực 
bên trong kích thích hoạt động của con người. 
Nhu cầu là phản ứng của cơ thể với các điều kiện khách quan, biểu 
hiện thành khuynh hướng cá nhân và trạng thái chủ quan của cơ thể. Nhu 
cầu là động lực ban đầu để nảy sinh hành vi, đồng thời cũng chính là 
nguồn gốc tính tích cực của cá nhân. 
Nhu cầu vừa là tiền đề, vừa là kết quả hoạt động. Nhu cầu vừa có 
tính vật thể, vừa có tính chức năng. Thỏa mãn nhu cầu thực chất là quá 
trình con người chiếm lĩnh một hình thức hoạt động nhất định trong xã hội. 
Nhu cầu thể hiện ở động cơ, cái thúc đẩy con người hoạt động và động cơ 
trở thành hình thức thể hiện của nhu cầu. 
Nhu cầu học tập là đòi hỏi của con người đối với sự lĩnh hội nội 
dung kiến thức, phương pháp học tập, nhằm làm giàu vốn kinh nghiệm, 
phát triển và hoàn thiện nhân cách của bản thân; là trạng thái thiếu hụt về 
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo mới được phản ánh trong não của người học. 
Nhu cầu học tập là thành phần cơ bản của động cơ học tập, thúc đẩy tính 
tích cực và có ảnh hưởng quyết định tới kết quả học tập. 
2.2. Thực trạng nội dung chương trình đào tạo theo học chế tín chỉ 
môn GDTC của Trường Đại học Lao động – Xã hội. 
- Nội dung chương trình môn GDTC chính khóa. 
Chương trình môn GDTC đào tạo theo học chế tín chỉ cho sinh viên 
Trường Đại học Lao động – Xã hội (ĐHLĐ-XH) được thực hiện trong 5 tín 
chỉ (tương đương với 5 học phần): GDTC1 Nhảy cao (1 tín chỉ): GDTC 2 
Thể dục phát triển chung (1 tín chỉ); GDTC 3,4,5 (tương đương 3 tín chỉ): 
với các môn tự chọn: Bóng chuyền 1,2,3; Bóng rổ 1,2,3; Cầu lông 1,2,3; Cờ 
vua... 
- Kết quả học tập của sinh viên về môn GDTC 
Kết quả học tập của sinh viên theo niên chế tại trường ĐHLĐ-XH được 
chúng tôi tiến hành tổng hợp điểm thi kết thúc các môn học năm 2011-2012 
đối với sinh viên khóa Đ7; năm 2012-2013 đối với sinh viên khóa Đ8; và 
năm 2013-2014 đối với sinh viên khóa Đ9 học theo học chế tín chỉ; Kết quả 
học tập môn GDTC của sinh viên các khóa, dù là học theo hình thức 
niên chế hay là học theo học chế tín chỉ thì kết quả cũng đạt chưa cao. 
Tỷ lệ sinh viên đạt loại Giỏi: chiếm 8-10%, Khá: 16-20%, Trung bình: 
45-55%, còn lại Yếu và Kém. 
 2.2.1. Nhu cầu học tập môn GDTC của sinh viên Trường ĐHLĐ-XH 
 Qua những kết quả điều tra ban đầu thực trạng nhu cầu học tập môn 
GDTC trong nhà trường, chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu trực tiếp nhu cầu 
của sinh viên với việc học tập môn GDTC. Vấn đề được giải quyết bằng 
cách tiến hành khảo sát 300 sinh viên về việc xây dựng chương trình môn 
GDTC tại trường ĐHLĐ-XH và nhu cầu về học tập môn GDTC của sinh 
viên theo hướng tự chọn. Kết quả phỏng vấn được thể hiện ở bảng 2.1, 
bảng 2.2 
 Bảng 2.1. Kết quả phỏng vấn sinh viên về vấn đề xây dựng 
chương trình môn GDTC tại trường ĐHLĐ-XH 
TT Nội dung phỏng vấn 
Ý kiến (%) 
K9 K8 K7 
 - Nhất thiết theo những quy định chung của Bộ 
GD-ĐT. 
- Nên vận dụng cho phù hợp với hoàn cảnh của 
nhà trường. 
- Tuân thủ quy định của Bộ GD&ĐT nhưng vận 
dụng phù hợp với nhà trường. 
17 
28 
55 
 11 
24 
65 
 6 
17 
77 
Bảng 2.2. Kết quả phỏng vấn sinh viên về sự cần thiết xây dựng chương 
trình tự chọn môn GDTC cho sinh viên trường ĐHLĐ-XH. 
TT Nội dung phỏng vấn 
Ý kiến (%) 
K9 K8 K7 
- Rất cần thiết 
- Cần thiết 
- Chưa cần thiết 
- Không cần thiết 
 50 
24 
15 
11 
56 
37 
5 
2 
 68 
31 
1 
0 
Từ kết quả bảng phỏng vấn 2.1 và 2.2 cho thấy rằng phần lớn sinh viên 
(trên 50% ý kiến sinh viên đồng ý) việc thực hiện nội dung chương trình 
môn GDTC cho sinh viên trường ĐHLĐ-XH cần phải tuân thủ quy định của 
Bộ GD&ĐT nhưng vận dụng phù hợp với hoàn cảnh nhà trường. Thấy được 
sự cần thiết phải xây dựng chương trình mới môn GDTC (thể hiện sinh viên 
năm thứ nhất K9; có 74% sinh viên cho rằng việc xây dựng chương trình tự 
chọn môn GDTC là cần thiết, trong đó có 50% là rất cần thiết; sinh viên năm 
thứ hai K8 có 93% sinh viên cho rằng việc xây dựng chương trình tự chọn 
môn GDTC là cần thiết, trong đó có 56% là rất cần thiết; sinh viên năm thứ 
ba đã học kết thúc chương trình môn GDTC K7 có 99% sinh viên cho rằng 
việc xây dựng chương trình tự chọn môn GDTC là cần thiết, trong đó có 
68% là rất cần thiết). Tuy nhiên vẫn còn có sinh viên (11% sinh viên năm 
thứ nhất K9 và 2% sinh viên K8) cho rằng việc xây dựng chương trình tự 
chọn môn GDTC là không cần thiết. Những con số đó phản ánh một phần 
thực trạng những sinh viên chưa nhận thức được rõ vị trí, vai trò và tầm 
quan trọng của môn học GDTC và dạy môn học GDTC tự chọn trong các 
nhà trường ở bậc đại học hiện nay. 
So sánh nhu cầu về việc xây dựng chương trình tự chọn môn GDTC 
của sinh viên trường Đại học ĐHLĐ-XH 
Từ việc khảo sát ý kiến của sinh viên ở các khóa khác nhau thể hiện ở 
bảng 2.2 cho thấy rằng: chương trình môn GDTC học theo hình thức tự chọn 
đáp ứng được đa số nhu cầu học tập của sinh viên. Kết quả này cũng hoàn 
toàn phù hợp với xu hướng dạy và học môn GDTC trong các trường Đại học 
hiện nay. 
Để tìm hiểu rõ thực trạng nhu cầu học tập các môn thể thao của sinh 
viên trường ĐHLĐ-XH theo hướng tự chọn, vấn đề này tiếp tục được thực 
hiện điều tra cụ thể nhu cầu sinh viên về nội dung môn học phù hợp với sinh 
viên của nhà trường trong giai đoạn hiện nay và những năm tiếp theo. 
Kết quả phỏng vấn về nội dung môn học GDTC được trình bày ở bảng 2.3: 
Bảng 2.3. Khảo sát ý kiến của 250 sinh viên về việc lựa chọn môn GDTC 
phù hợp với sinh viên trường ĐHLĐXH trong giai đoạn hiện nay 
TT 
A. Nội dung môn học 
phần bắt buộc 
Rất phù 
hợp 
Phù 
hợp 
Bình 
thường 
Không 
phù hợp 
Không 
có ý kiến 
Tổng 
phiếu 
Điểm 
Sắp xếp 
TT 
1 Chạy cự ly TB 800 – 
1500m 
35 55 82 63 15 250 782 6 
2 TD cơ bản 83 84 40 27 16 250 841 5 
3 Nhảy cao 20 35 110 80 05 250 735 9 
B. Nội dung môn học 
phần tự chọn 
Rất phù 
hợp 
Phù 
hợp 
Bình 
thường 
Không 
phù hợp 
Không có 
ý kiến 
4 Cầu lông 80 100 55 10 05 250 990 1 
5 Bóng chuyền 75 109 40 16 10 250 973 2 
6 Bóng đá 80 69 58 32 11 250 925 3 
7 Bóng rổ 55 90 80 15 10 250 915 4 
8 Cờ vua 30 70 70 50 30 250 770 7 
9 Bóng bàn 25 60 81 60 24 250 752 8 
(*) Rất phù hợp: 5 điểm; Phù hợp: 4 điểm; Bình thường: 3 điểm; Không 
phù hợp: 2 điểm; Không có ý kiến: 1 điểm 
Qua kết quả phỏng vấn ở bảng 2.3 cho thấy: các nội dung học GDTC 
tự chọn theo nhu cầu của sinh viên sắp xếp theo thứ tự từ thấp đến cao đó là: 
cầu lông, bóng chuyền, bóng đá, bóng rổ, TD cơ bản, chạy bền, cờ vua, bóng 
bàn, nhảy cao; 
2.2.2. Thực trạng nhu cầu sử dụng các hình thức tập luyện ngoại 
khóa môn GDTC của sinh viên trường ĐHLĐ-XH. 
Như chúng ta đã biết, chất lượng giảng dạy bất cứ một môn học nào 
trong giờ học cũng như ngoại khóa đều chịu ảnh hưởng rất lớn về phương 
pháp, hình thức tổ chức học tập. Đặc biệt là hoạt động ngoại khóa nói 
chung và ngoại khóa TDTT nói riêng mang tính chất tự do, tự nguyện theo 
nhu cầu của từng cá nhân nên đòi hỏi phải có hình thức tổ chức tập luyện 
thật phù hợp. 
Trong quá trình tổ chức tập luyện ngoại khóa các hình thức được sử 
dụng là: hình thức tự tập, hình thức tập theo nhóm, hình thức tập thể dục 
buổi sáng, hình thức câu lạc bộThông qua, các hình thức tổ chức tập 
luyện ngoại khóa đó chúng ta mới cụ thể hóa hơn về phương pháp trong 
từng hình thức tập luyện nhằm đạt được kết quả cao nhất trong học tập. 
Để khảo sát thực trạng sử dụng các hình thức tổ chức tập luyện 
ngoại khóa môn thể dục của sinh viên, chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn 
300 sinh viên về mức độ sử dụng các hình thức trong tập luyện ngoại khóa 
môn học GDTC. Kết quả thu được như ở bảng 2.4. 
Bảng 2.4: Kết quả thực trạng sử dụng các hình thức tập luyện 
ngoại khóa môn GDTC của nữ sinh viên trường ĐHLĐ-XH 
Nội dung Mức độ sử dụng 
Thường 
xuyên 
Thỉnh thoảng Chưa bao giờ 
SL % SL % SL % 
Tự tập 140 46,7 70 23,3 90 30,0 
Theo nhóm 120 40,0 115 38,3 65 21,7 
Thể dục buổi sáng 40 13,3 60 20,0 200 66,7 
Câu lạc bộ 0 0 55 18,3 245 81,7 
Qua kết quả phỏng vấn nêu ở bảng 2.4 cho thấy sinh viên vận dụng 
các hình thức tập luyện ngoại khóa rất đa dạng. Với hình thức tự tập và hình 
thức theo nhóm thì số sinh viên sử dụng thường xuyên chiếm lần lượt là 
46,7% và 40,0%, thỉnh thoảng là 23,3% và 38,3%, chưa bao giờ sử dụng 
chiếm 30,0% và 21,7%. Hai hình thức đó là những hình thức dễ có thể thực 
hiện được, không bị chi phối bởi yếu tố nào nên các bạn sinh viên sử dụng 
nhiều hơn. Mức độ sử dụng tập thể dục buổi sáng thì tỷ lệ chưa bao giờ sử 
dụng chiếm tới 66,7 %, có thể do các bạn chưa nhận thức được tác dụng của 
việc tập thể dục buổi sáng. Hình thức câu lạc bộ thì tỷ lệ sinh viên thường 
xuyên sử dụng là 0%, kết quả như vậy một phần do trường chưa thành lập 
được câu lạc bộ thể dục thể thao cho sinh viên. Số sinh viên thỉnh thoảng sử 
dụng chỉ chiếm có 18,3% và số sinh viên chưa bao giờ sử dụng chiếm tỷ lệ 
rất cao là 81,7%. Qua đó có thể thấy, sinh viên chưa nhận thức được ưu 
điểm của mỗi hình thức tập luyện ngoại khóa và nhận thức chưa cao về tác 
dụng về tập luyện ngoại khóa TDTT. 
3. Kết luận 
 Qua kết quả điều tra thực trạng về nhu cầu học môn GDTC trong 
trường ĐHLĐXH, chúng ta nhận thấy cần thiết phải xây dựng một chương 
trình đáp ứng nhu cầu học tập của sinh viên, thông qua kết quả điều tra số 
lượng môn học, sinh viên đã lựa chọn, qua đó mới thật sự nâng cao chất 
lượng dạy và học môn GDTC tại nhà trường hiện nay. Đi đôi với việc xây 
dựng chương trình môn học tự chọn, bên cạnh đó nhà trường cũng đồng thời 
đảm bảo được cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở, nhà tập thể chất thì mới có thể 
đáp ứng được nhu cầu học tập và nâng cao được kết quả học tập của sinh 
viên hiện nay. 
 Từ việc nghiên cứu thực trạng nhu cầu học tập môn GDTC làm cơ sở 
cho các nhà quản lý, các giảng viên xây dựng chương trình môn học GDTC 
cho phù hợp với sinh viên nhà trường trong những năm học tiếp theo. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_nhu_cau_hoc_tap_mon_giao_duc_the_chat_cua_sinh_vi.pdf