Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type II tại bệnh viện Nội tiết trung ương năm 2020

Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về

dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi

mắc bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh

viện Nội tiết Trung ương. Đối tượng và

phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu

mô tả cắt ngang thực hiện từ tháng 11/2019

– 6/2020 trên 248 người bệnh là người cao

tuổi bị đái tháo đường tại Bệnh viện Nội

tiết Trung ương năm 2020. Kết quả: Tỷ lệ

kiến thức đúng não là cơ quan tổn thương

của đột quỵ não là 89,1 %. Tỷ lệ đối tượng

nghiên cứu có kiến thức đúng về dấu hiệu

bệnh đột quỵ tương đối tốt: đau đầu đột ngột

và dữ dội là 76,2%; đột ngột yếu một bên

người là 99,6%; đột ngột khó nói là 98,8 %;

chỉ có 25,4% câu trả lời đúng về dấu hiệu

đột ngột mất trí nhớ là dấu hiệu của đột quỵ

não. Kiến thức về hành động đúng của đối

tượng nghiên cứu khi gặp một trường hợp

nghi ngờ đột quỵ não là tốt, cụ thể: có 96

% trả lời đúng phải tránh té ngã cho người

bệnh khi đột quỵ não xảy ra; có 96,4 % cho

rằng người đột quỵ não cần được đưa đến

bệnh viện càng sớm càng tốt; chỉ có 0,4%

người bệnh trả lời để người đột quỵ não ở

nhà theo dõi. Kết luận: Kiến thức về dự

phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc

bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh viện

Nội tiết Trung ương tương đối tốt.

pdf 9 trang kimcuc 4180
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type II tại bệnh viện Nội tiết trung ương năm 2020", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type II tại bệnh viện Nội tiết trung ương năm 2020

Thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type II tại bệnh viện Nội tiết trung ương năm 2020
106
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu 122 người bệnh 
COPD cho thấy sau điều trị đợt cấp, người 
bệnh vẫn còn các biểu hiện đáng kể về hô 
hấp với 73% người bệnh khạc đờm nhiều 
và 80,3% người bệnh ho nhiều; 72,5% có 
tăng áp lực động mạch phổi. Do đó, cần có 
chương trình quản lý người bệnh tại nhà, 
khám định kỳ để ngăn ngừa đợt cấp và các 
biến chứng góp phần cải thiện chất lượng 
cuộc sống cho người bệnh. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Burge PS. (2000). Randomised, 
double blind, placebo controlled study. tr 
320.
2. Nguyễn Mạnh Thắng (2017).Nghiên 
cứu đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và 
căn nguyên vi sinh trong đợt cấp bệnh phổi 
tắc nghẽn mạn tính tại trung tâm hô hấp 
bệnh viện Bạch Mai. Luận văn thạc sỹ , 
trường Đại học Y Hà Nội.
3. Nguyễn Thị Thảo (2018). Đánh giá 
mức độ nặng và căn nguyên vi sinh của đợt 
cấp bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính, Luận 
văn thạc sỹ, Trường Đại học Y Hà Nội.
4. Phan Thị Hạnh (2012), Nghiên cứu 
mức độ nặng của đợt cấp bệnh phổi tắc 
nghẽn mạn tính điều trị tại Trung tâm hô 
hấp bệnh viện Bạch Mai, Luận văn bác sỹ 
nội trú, trường Đại học Y Hà Nội.
5. Nguyễn Thị Chính (2015), Nghiên cứu 
đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và căn 
nguyên vi khuẩn trong đợt cấp bệnh phổi 
tắc nghẽn mạn tính tại trung tâm hô hấp 
bệnh viện Bạch Mai, Trường Đại học Y Hà 
Nội, Hà Nội.
6. Sakao S, Voelkel NF, Tatsumi K (2014). 
The vascular bed in COPD: Pulmonary 
hypertension and pulmonary vascular 
alterations. Eur Respir Rev; 23; 350-355
7. Nguyễn Thị Kim Oanh (2013). Nghiên 
cứu một số bệnh lý tim mạch ở người 
bệnhbệnh phổi tắc nghẽn mạn tính điều trị 
tại trung tâm hô hấp Bệnh viện Bạch mai. 
Luận văn Thạc sỹ. Đại học Y Hà Nội.
8. Bùi Văn Tâm (2008). Nghiên cứu rối 
loạn chức năng thất trái ở người bệnhcao 
tuổi bị bệnh phổi tắc nghẽn mạn tính giai 
đoạn ổn định. Luận văn thạc sỹ y học. Đại 
học Y Hà Nội
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC VỀ DỰ PHÒNG ĐỘT QUỴ NÃO 
CỦA NGƯỜI CAO TUỔI MẮC BỆNH ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TYPE II 
TẠI BỆNH VIỆN NỘI TIẾT TRUNG ƯƠNG NĂM 2020
Đỗ Thị Thu Hiền1b, Trương Tuấn Anh1, 
Hoàng Thị Vân Lan1b, Đỗ Thị Tuyết Mai1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Đỗ Thị Thu Hiền
Email: thuhien80@gmail.com
Ngày phản biện: 22/6/2020
Ngày duyệt bài: 24/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về 
dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi 
mắc bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh 
viện Nội tiết Trung ương. Đối tượng và 
phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu 
mô tả cắt ngang thực hiện từ tháng 11/2019 
– 6/2020 trên 248 người bệnh là người cao 
tuổi bị đái tháo đường tại Bệnh viện Nội 
tiết Trung ương năm 2020. Kết quả: Tỷ lệ 
kiến thức đúng não là cơ quan tổn thương 
của đột quỵ não là 89,1 %. Tỷ lệ đối tượng 
nghiên cứu có kiến thức đúng về dấu hiệu 
bệnh đột quỵ tương đối tốt: đau đầu đột ngột 
107
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
và dữ dội là 76,2%; đột ngột yếu một bên 
người là 99,6%; đột ngột khó nói là 98,8 %; 
chỉ có 25,4% câu trả lời đúng về dấu hiệu 
đột ngột mất trí nhớ là dấu hiệu của đột quỵ 
não. Kiến thức về hành động đúng của đối 
tượng nghiên cứu khi gặp một trường hợp 
nghi ngờ đột quỵ não là tốt, cụ thể: có 96 
% trả lời đúng phải tránh té ngã cho người 
bệnh khi đột quỵ não xảy ra; có 96,4 % cho 
rằng người đột quỵ não cần được đưa đến 
bệnh viện càng sớm càng tốt; chỉ có 0,4% 
người bệnh trả lời để người đột quỵ não ở 
nhà theo dõi. Kết luận: Kiến thức về dự 
phòng đột quỵ não của người cao tuổi mắc 
bệnh đái tháo đường type II tại Bệnh viện 
Nội tiết Trung ương tương đối tốt. 
Từ khóa: Đột quỵ não, kiến thức, người 
cao tuổi, đái tháo đường.
AN INVESTIGATION OF PREVENTIVE KNOWLEDGE OF BRAIN STROKE 
AMONG ELDERLY PATIENTS WITH TYPE II DISEASES 
IN NATIONAL HOSPITAL OF ENDOCRINOLOGY IN 2020
ABSTRACT 
Objective: To describe the current 
status of knowledge about the prevention 
of brain stroke of elderly people with 
type II diabetes at Central Endocrinology 
Hospital. Method: A cross-sectional study 
conducted from November 2019 - June 
2020 on 248 elderly patients with diabetes 
at the National Hospital of Endocrinology 
in 2020. Results: The ratio of right-brain 
knowledge is the organ lesion of brain 
stroke was 89,1%. The percentage of 
study subjects with good knowledge of 
signs of stroke is relatively good: sudden 
and intense headache is 76,2%; Suddenly 
weak on one side of the person is 99,6%; 
Suddenly difficult to say is 98,8%; only 
25,4% of the correct answers to the sudden 
onset of dementia were signs of a brain 
stroke. Knowledge of the subject’s right 
actions when encountering a suspected 
case of brain stroke is good, namely: 96% 
of the correct answers must avoid falling for 
patients when a brain stroke occurs; 96,4% 
said that stroke patients should be taken to 
hospital as soon as possible; only 0,4% of 
the respondents responded to the stroke 
at home. Conclusion: Knowledge about 
the prevention of brain stroke of elderly 
people with type II diabetes at Central 
Endocrinology Hospital is relatively good.
Keywords: brain stroke, knowledge, 
elderly, diabetes
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Hiện nay, đột quỵ não là một vấn đề lớn 
của Y học các nước trên thế giới cũng như 
ở Việt Nam. Bệnh do nhiều nguyên nhân 
khác nhau gây ra, có thể dẫn đến tử vong 
nhanh chóng hoặc để lại nhiều di chứng 
nặng nề, đặc biệt là các di chứng về vận 
động. Đột quỵ não là gánh nặng không chỉ 
đối với người bệnh, gia đình mà còn ảnh 
hưởng lớn đến cộng đồng. Theo báo cáo 
thống kê năm 2013 của Hiệp hội Tim mạch 
học Hoa Kỳ, mỗi năm ở Mĩ có 795.000 người 
bị đột quỵ não, 610.000 bị đột quỵ não lần 
đầu, 185.000 bị đột quỵ não tái phát, 87% 
là nhồi máu não [17]. Kết quả nghiên cứu 
dịch tễ học đột quỵ não ở khu vực Đông 
Á cho thấy tỷ lệ hiện mắc đột quỵ não là 
1428/100.000 người, tỷ lệ này ở những 
người trên 65 tuổi là 5080/100.000 người. 
Tỷ lệ mới mắc đột quỵ não dao động trong 
khoảng 201-483/100.000 người/năm còn tỷ 
108
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
lệ tử vong khoảng 6% [16].Theo báo cáo 
của Văn phòng về các vấn đề kinh tế và xã 
hội của Liên Hiệp Quốc, tính đến năm 2015 
toàn thế giới có tới 901 triệu người cao tuổi 
(từ 60 tuổi trở lên) chiếm tỷ lệ 12,3% dân số 
và dự đoán đến năm 2050 sẽ đạt đến con 
số 2,1 tỷ người [13].
Nguy cơ đột quỵ não ở người bệnh đái 
tháo đường cao gấp 2 lần so với người 
bình thường [15]. Kết quả nghiên cứu của 
Nayak A.R. (2016) cho thấy đái tháo đường 
làm tăng nguy cơ tàn tật ở người bệnh nhồi 
máu não [14]. Tại Hoa Kỳ tỷ lệ mắc đái tháo 
đường ở độ tuổi 45-64 tuổi là 16,2% trong 
khi ở những người 60-79 tuổi là 25,9% 
[18]. Theo thống kê của Liên đoàn Đái tháo 
đường quốc tế (IDF/InternationalDiabetes 
Federation) năm 2015 thế giới có khoảng 
415 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, 
trong đó 90% là đái tháo đường type II [19]. 
Việt Nam, theo kết quả của tổng điều tra 
dân số và nhà ở năm 2014, số người cao 
tuổi Việt Nam là 9,23 triệu người chiếm tỷ 
lệ 10,2% dân số [8]. Theo Lê Thị Hương 
và cộng sự (2016) tỷ lệ hiện mắc đột quỵ 
não ở 8 tỉnh thuộc 8 vùng sinh thái của Việt 
Nam là 1,63% [7]. Còn theo thống kê của 
Bệnh viện Nội tiết Trung ương, năm 2012 tỷ 
lệ mắc đái tháo đường ở Việt Nam là 5,4% 
[6].
Bệnh viện Nội tiết Trung ương là bệnh 
viện chuyên khoa Hạng I trực thuộc Bộ Y 
tế với nhiệm vụ điều trị các bệnh liên quan 
đến nội tiết, chuyển hóa đặc biệt là bệnh 
đái tháo đường. Hàng năm bệnh viện tiếp 
nhận khám và điều trị cho hàng nghìn lượt 
người bệnh đái tháo đường. Hiện nay tại 
bệnh viện tỷ lệ người bệnh là người cao 
tuổi có xu hướng ngày càng gia tăng. Đây 
là đối tượng dễ xảy ra biến chứng đặc 
biệt là đột quỵ não. Câu hỏi đặt ra ở đây 
là thực trạng kiến thức của người bệnh 
cao tuổi khám và điều trị đái tháo đường 
type II tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương 
về bệnh đột quỵ não là như thế nào? Với 
mong muốn tìm hiểu về vấn đề này cung 
cấp thêm bằng chứng cho công tác giáo 
dục sức khoẻ phòng chống đột quỵ não 
cho người bệnh cao tuổi mắc bệnh đái 
tháo đường type II, nhóm nghiên cứu thực 
hiện nghiên cứu này với mục tiêu “Mô tả 
thực trạng kiến thức về dự phòng đột quỵ 
não của người cao tuổi mắc bệnh đái tháo 
đường type II tại Bệnh viện Nội tiết Trung 
ương năm 2020”.
2. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP 
NGHIÊN CỨU
2.1. Đối tượng nghiên cứu
Một nghiên cứu cắt ngang được thực 
hiện từ tháng 11/2019 – 6/2020 trên người 
cao tuổi mắc bệnh đái tháo đường type 
II đến khám và điều trị tại Bệnh viện Nội 
tiết Trung ương. Tiêu chuẩn lựa chọn đối 
tượng gồm: Người bệnh từ 60 tuổi trở lên; 
người bệnh đến khám và điều trị bệnh đái 
tháo đường type II; người bệnh hoàn toàn 
tỉnh táo; người bệnh có khả năng trả lời câu 
hỏi của phỏng vấn viên; người bệnh đồng ý 
tham gia vào nghiên cứu.
Áp dụng công thức tính cỡ mẫu cho 1 giá 
trị tuyệt đối trong quần thể, với tỷ lệ tham 
chiếu từ nghiên cứu trước là p=0,667 [9] và 
độ chính xác tuyệt đối là 0,06, chúng tôi đã 
tính được cỡ mẫu tối thiểu cho nghiên cứu 
là 248 người. 
Sử dụng phương pháp chọn mẫu thuận 
tiện, liên tục cho đến khi đủ số mẫu cần 
thiết. Tại khoa khám bệnh: Áp dụng khảo 
sát nội dung kiến thức về dự phòng đột 
quỵ não cho người bệnh được chuẩn đoán 
bệnh đái tháo đường type II nhưng không 
phải nhập viện nằm điều trị, trung bình mỗi 
ngày khảo sát được 2– 3 người bệnh/ngày. 
Tại các khoa lâm sàng mỗi ngày khảo sát 
2– 3 người bệnh/ngày/khoa.
2.2. Công cụ và phương pháp thu 
thập số liệu
Sử dụng phương pháp phỏng vấn cá 
nhân trực tiếp bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn. 
Bộ công cụ được xây dựng dựa trên bộ công 
cụ trong nghiên cứu của tác giả arafadeen 
109
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Adeniyi Arisegi1& cs (2018) [21] và bộ công 
cụ trong nghiên cứu thay đổi nhận thức về 
đột quỵ não của người cao tuổi tại xã Giao 
Lạc – Giao Thủy Nam Định của Đinh Thị 
Yến (2017) [9]. Bộ công cụ được đánh giá 
tính chính xác bằng kiểm định đặc hiệu nội 
dung (test CVI), được kiểm tra bộ tin cậy 
bằng phương pháp test và retest trước khi 
đưa vào sử dụng.
2.3. Tiêu chí đánh giá trong nghiên 
cứu
Kiến thức về dự phòng đột quỵ não được 
phân loại bằng cách sử dụng hệ thống tính 
điểm, điểm số của một người cho một câu 
trả lời đúng là “1” và không “0” cho một câu 
trả lời không chính xác hoặc không biết. Hệ 
thống tính điểm này đã được tham khảo từ 
nghiên cứu trước đây [21].
Các phiếu phỏng vấn và quan sát được 
làm sạch và nhập vào máy tính bằng phần 
mềm Epidata 3.1. Sau đó số liệu được phân 
tích và xử lý bằng phần mềm SPSS 20.0. 
Kết quả xử lý và phân tích số liệu thống kê 
mô tả được lập bảng phân bố tần số và tỷ 
lệ phần trăm các biến số. 
3. KẾT QUẢ
3.1. Thông tin chung về đối tượng 
nghiên cứu
Tổng số có 248 người tham gia nghiên 
cứu, trong đó 58,1% là nữ giới. Độ tuổi 
từ 60 - 69 chiếm tỷ lệ nhiều nhất 64,5%, 
chỉ có 5,6% người bệnh trên 80 tuổi. Đối 
tượng tham gia có trình độ trung học phổ 
thông chiếm tỷ lệ cao nhất 33,1%, thấp nhất 
là biết đọc biết viết là 0,8%. Nhóm người 
bệnh bị tiểu đường từ 6-10 năm chiếm tỷ 
lệ cao nhất 30,2%, thấp nhất là nhóm bị 
bệnh trên 20 năm (6,5%). Có 85,9% số 
người bệnh có chỉ số đường huyết cao 
hơn bình thường, tỷ lệ người bệnh có chỉ 
số HbA1c tăng cao hơn chỉ số bình thường 
là 71,8%. Tỷ lệ người bệnh có chỉ số LDL 
- Cholesterol, Creatinine, GOT, GPT tăng 
hơn bình thường chiếm tỷ lệ thấp từ 10,5% 
đến 16,9%.
3.2. Thực trạng kiến thức của đối 
tượng về đột quỵ não
Bảng 3.1. Kiến thức đúng về cơ quan 
tổn thương của đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Cơ quan bị tổn thương 
của đột quỵ não là não bộ 221 89,1
Bệnh đột quỵ não thường 
xảy ra đột ngột 174 29,8
Bệnh đột quỵ não rất 
nguy hiểm, dễ tử vong 246 99,2
Bệnh đột quỵ não có thể 
bị tái phát 246 99,2
Bảng 3.2. Kiến thức đúng về dấu 
hiệu bệnh đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Đau đầu đột ngột và dữ 
dội 189 76,2
Đột nhiên chóng mặt hoặc 
mất thăng bằng hoặc mất 
phối hợp động tác
244 98,4
Đột ngột mất trí nhớ 63 25,4
Đột ngột giảm hoặc mất thị 
lực 179 72,2
Đột ngột khó nói 245 98,8
Khó nuốt 244 98,4
Đột ngột mất hoặc giảm 
cảm giác ở một bên người 247 99,6
Đột ngột mất hoặc giảm 
cảm giác toàn thân 238 96,0
Đột ngột yếu hoặc liệt một 
bên người 247 99,6
Đột ngột yếu hoặc liệt toàn 
thân 218 87,9
110
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
Bảng 3.3. Kiến thức đúng của đối 
tượng về xử trí đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Tránh té ngã 238 96,0
Cần được đưa đến bệnh 
viện càng sớm càng tốt 239 96,4
Tự mua thuốc uống 188 75,8
Nên để nằm tại nhà để 
theo dõi 1 0,4
Cần được cạo gió/ đánh 
cảm/xoa bóp 85 34,3
Bảng 3.4. Kiến thức đúng về yếu tố 
nguy cơ đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Không tập thể dục thường 
xuyên 245 98,8
Thừa cân hoặc béo phì 212 85,5
Thút thuốc 241 97,2
Tăng huyết áp 246 99,2
Đái tháo đường 173 69,8
Ăn thực phẩm chứa nhiều 
dầu, mỡ 248 100
Uống nhiều rượu 245 98,8
Bệnh tim mạch 82 33,1
Tiền sử bị đột quỵ não 248 100
Bảng 3.5. Kiến thức đúng về hành động 
khi có dấu hiệu đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Đưa đến BV càng sớm 
càng tốt 239 96,4
Tự mua thuốc dùng 188 75,8
Nằm tại nhà theo dõi 1 0,4
Cạo gió, đánh cảm, xoa 
bóp 85 34,3
Điều trị tâm linh 4 1,6
Đến chùa trước khi đến 
viện 238 96,0
Bảng 3.6. Kiến thức đúng về dự phòng 
tái phát đột quỵ não (n = 248)
Nội dung SL TL %
Tập thể dục thường 
xuyên 247 99,6
Theo dõi trọng lượng cơ 
thể thường xuyên 111 44,8
Tránh, bỏ thuốc lá, lào 240 96,8
Hạn chế thức ăn chứa 
nhiều muối 160 64,5
Hạn chế thức ăn chứa 
nhiều dầu, mỡ 195 78,6
Ăn trái cây, rau thường 
xuyên 244 98,4
Điều trị bệnh ĐTĐ theo y 
lệnh 242 97,6
Tái khám đúng theo lịch 
hẹn 248 100
4. BÀN LUẬN
Trong nghiên cứu này tỷ lệ đối tượng 
tham gia nghiên cứu có kiến thức đúng 
về cơ quan tổn thương của đột quỵ chiếm 
89,1%. Tỷ lệ người bệnh trả lời về cách 
khởi phát đột ngột là 29,8. Chỉ có 44,8% số 
người bệnh cho rằng theo dõi trọng lượng 
thường xuyên là một biện pháp để dự 
phòng bệnh, đây là kiến thức rất cần quan 
tâm trong việc giáo dục sức khỏe, tuyên 
truyền cho người bệnh được biết để chủ 
động có biện pháp phòng ngừa. Kết quả 
này thấp hơn so với kết quả của Vũ Anh Nhị 
và cộng sự (72%) [1]. Có kiến thức đúng về 
cơ quan tổn thương, cách khởi phát và hiểu 
được tính chất nguy hiểm của đột quỵ não 
là rất quan trọng, nó ảnh hưởng tích cực 
hoặc tiêu cực đến hành vi tự chăm sóc, thái 
độ xử trí của chính bản thân người cao tuổi 
mắc đái tháo đường, một căn bệnh có thể 
nói là nguy cơ hàng đầu gây xơ vữa mạch 
và biến chứng đột quỵ não.
Một trong những yếu tố nguy cơ có thể 
điều chỉnh được và là nguy cơ hàng đầu 
trong cơ chế bệnh sinh của đột quỵ não 
111
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
là tăng huyết áp. Mối quan hệ giữa tăng 
huyết áp và đột quỵ não là mối quan hệ 
trực tiếp, vậy theo nghiên cứu của chúng 
tôi có 99,2% người bệnh trả lời đúng về lựa 
chọn tăng huyết áp là yếu tố nguy cơ của 
đột quỵ não. Kết quả này cao hơn so với 
kết quả của Ana Sofia Duque 62,3% [10] 
và một số nghiên cứu khác như Ana Hickey 
2009 là 75% [11]. Một nghiên nghiên cứu 
cộng đồng ở Hải Dương cũng cho thấy tỷ 
lệ trả lời đúng tăng huyết áp là yếu tố nguy 
cơ của đột quỵ là (85,1%) [5]; nghiên cứu 
của Đặng Thị Kim Nhung 2015 (84,2%) [2]. 
Trong nghiên cứu này, tỷ lệ đối tượng có 
kiến thức đúng về câu hỏi đái tháo đường 
là yếu tố nguy cơ của đột quỵ não là 69,8%, 
điều này cho thấy người bệnh cũng đã phần 
nào có nhận thức đúng về bệnh đái tháo 
đường và các nguy cơ của nó. Kết quả này 
tương đồng so với kết quả một số nước trên 
thế giới như của Ana Sofia Duque với tỷ lệ 
người cao tuổi lựa chọn đái tháo đường là 
nguy cơ chiếm 69% [10]; cao hơn nghiên 
cứu của Monaliza và cộng sự 43,68% 
[20] trong khi một số nghiên cứu khác cho 
thấy tỷ lệ trả lời đúng thấp hơn nhiều như 
kết quả nghiên cứu của A Hickey 2012 là 
4% [12]; năm 2009 là 11%; Đặng Thị Kim 
Nhung (18,42%) [2]. Qua đây cho thấy kiến 
thức của người cao tuổi đái tháo đường về 
mối nguy cơ của các bệnh tim mạch với đột 
quỵ não còn thấp trong khi tỷ lệ bệnh này 
ngày càng tăng vì vậy cần tiếp tục tập trung 
tuyên truyền giáo dục hơn nữa cho người 
cao tuổi về các yếu tố nguy cơ đột quỵ não 
nói chung đặc biệt là yếu tố nguy cơ còn ít 
người biết đến như bệnh tim mạch.
Yếu tố nguy cơ hàng đầu của đột quỵ não 
khác nữa là thừa cân, béo phì trong nghiên 
cứu này tỷ lệ trả lời đúng là 85,5% cho rằng 
đó là yếu tố nguy cơ gây đột quỵ não. Kết 
quả này cao hơn so với kết quả của Đặng 
Thị Kim Nhung và cộng sự (21,05%) [2]. 
Sự kết hợp giữa thừa cân, béo phì, rối loạn 
lipid máu, xơ vữa động mạch và tăng huyết 
áp sẽ làm cho tất cả các bệnh này nặng 
thêm và những biến chứng về tim mạch 
cũng nhiều hơn và nặng nề hơn, trong đó 
nguy hiểm nhất là nhồi máu cơ tim và đột 
quỵ não. 
Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy 
một số yếu tố nguy cơ khác được người 
cao tuổi trả lời đúng như như hút thuốc 
lá(97,2%); tiền sử đột quỵ cũ (100%); uống 
nhiều rượu (98,8%). Kết quả này cao hơn 
so với kết quả của Monaliza với kết quả 
lần lượt là 48,39%; 42,61%; 48,82% [20] 
; tương tự một số kết quả khác như của 
Ana Sofia Duque với các kết quả lần lượt 
là 95,6%; 97,4%; 70,2% [10] nhưng cao 
hơn một số kết quả khác như Anne Hickey 
2009 với người tham gia lựa chọn các yếu 
tố nguy cơ là hút thuốc lá chỉ có (30%); sử 
dụng rượu chỉ có (10%) [11].
Qua kết quả nghiên cứu về kiến thức 
nhận biết những dấu hiệu cảnh báo đột 
quỵ não của người cao tuổi đái tháo đường 
trong nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 
đa số các dấu hiệu cảnh báo được đối 
tượng biết với tỷ lệ trên 50%. Tuy nhiên so 
sánh với kết quả nghiên cứu của Ana Sofia 
Duque khi sử dụng câu hỏi mở thì kết quả 
lại thấp hơn rất nhiều so với kết quả đề tài 
của chúng tôi [10]. Điều này có thể lý giải 
rằng khi sử dụng bộ câu hỏi mở để phỏng 
vấn đối tượng nghiên cứu phải tự nghĩ ra 
câu trả lời hoặc tự nhớ lại để trả lời, còn khi 
sử dụng bộ câu hỏi đóng đối tượng nghiên 
cứu đã được gợi ý bằng cách người phỏng 
vấn đọc một loạt các dấu hiệu cảnh báo và 
người tham gia chỉ cần xác định các dấu 
hiệu mà mình cho rằng đúng, vì thế kết quả 
kiến thức khi sử dụng bộ câu hỏi đóng cao 
hơn rất nhiều so với nghiên cứu sử dụng bộ 
câu hỏi mở. Tương tự kết quả của chúng 
tôi cũng cao hơn so với kết quả kiến thức 
về dấu hiệu cảnh báo đột quỵ qua nghiên 
cứu của A Hickey năm 2015 khi sử dụng bộ 
câu hỏi mở thì kết quả là: Nói lắp 21,4%; 
chóng mặt 18%; tê yếu trên một mặt của 
cơ thể 13,6%; đau đầu nặng 14,9% [12]. 
Năm 2009 cũng theo Anna Hickey khi sử 
112
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
dụng bộ câu hỏi đóng phỏng vấn về dấu 
hiệu cảnh báo đột quỵ thì kết quả là: Nói 
lắp 54%; chóng mặt 44%; tê yếu 44%; đau 
đầu 29% [11]. So sánh với kết quả nghiên 
cứu của Trần Hồng Nhung năm 2014 các 
dấu hiệu cảnh báo đột quỵ được đối tượng 
xác định với tỷ lệ dưới 40% [3], thì kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi là cao hơn. Một 
nghiên cứu khác của Nguyễn Văn Thắng 
và cộng sự cho kết quả kiến thức về dấu 
hiệu cảnh báo đột quỵ cũng thấp hơn rất 
nhiều so với kết quả nghiên cứu của chúng 
tôi cụ thể là: Tê yếu 9,7%; nói khó 1,9%; 
giảm thị lực đột ngột 7,5%; chóng mặt mất 
thăng bằng 23,4%; đột ngột đau đầu 14,2%; 
không biết 9,7% [4].
Bệnh đột quỵ não có thể dự phòng 
được khi người bệnh chủ động thay đổi lối 
sống ít vận động bằng cách tập thể dục, 
vận động thường xuyên làm giảm các yếu 
tố nguy cơ gây vữa xơ động mạch, giảm 
tỷ lệ tăng huyết áp, giảm cân nặng chống 
béo phì, người bệnh bị tăng huyết áp hoặc 
có nhiều các yếu tố nguy cơ của đột quỵ 
như đã nói ở trên phải được khám, theo 
dõi điều trị thường xuyên tại các cơ sở y 
tế và khi có các dấu hiệu nghi ngờ đột quỵ 
não cần đưa đến ngay cơ sở y tế gần nhất 
tránh việc làm không đúng cho rằng bệnh 
này là cảm mạo, dùng các biện pháp không 
đúng không những gây nguy hiểm cho bản 
thân người bệnh, dễ dẫn đến tử vong hoặc 
để lại nhiều di chứng, làm kéo dài thời gian 
vàng có thể can thiệp điều trị, hạn chế để 
lại di chứng nặng nề tổn hại kinh tế, sức 
khoẻ của người bệnh.Tuy nhiên khi đột quỵ 
xảy ra, việc vận chuyển người bệnh cũng 
cần lưu ý đảm bảo an toàn. Tuy nhiên qua 
khảo sát cho thấy kiến thức của đối tượng 
nghiên cứu về dự phòng đột quỵ não còn 
nhiều hạn chế chẳng hạn như kiểm soát 
đường máu nếu có đái tháo đường có 97,6 
% trả lời đúng, chỉ có 44,8% người bệnh 
trả lời đúng theo dõi trọng lượng cơ thể 
thường xuyên. Có 100% người bệnh hiểu 
biết rất tốt về tái khám định kỳ theo lịch hẹn, 
điều này rất quan trọng để phòng ngừa các 
biến chứng của đái tháo đường nói chung 
và biến chứng đột quỵ não nói riêng để có 
thể dự phòng đột quỵ não.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, kiến 
thức của đối tượng nghiên cứu trả lời câu 
hỏi trong trường hợp nghi ngờ đột quỵ não 
có 96,4 % lựa chọn cần được đưa đến bệnh 
viện càng sớm càng tốt; kết quả này cao hơn 
so với nghiên cứu của Jan Nakibuuka và 
cộng sự (86,1%). Chỉ có 0,4 % người bệnh 
cho rằng người có dấu hiệu đột quỵ não cần 
nằm tại nhà theo dõi, điều này rất có giá trị 
vì đại đa số người cao tuổi bị đái tháo đường 
có kiến thức đúng về cấp cứu khi đột quỵ 
xảy ra. Tuy nhiên, tỷ lệ người bệnh có những 
kiến thức đúng về câu hỏi chọn phương án 
tự mua thuốc chỉ có 75,8%, tuy tỷ lệ này là 
đạt yêu cầu nhưng như vậy vẫn còn khoảng 
¼ số người bệnh còn nhận thức chưa tốt 
về cách xử trí khi có đột quỵ não xảy ra. Có 
65,7 % cho rằng người đó cần được cạo gió; 
Đặc biệt, đối tượng nghiên cứu của chúng 
tôi là người cao tuổi bị đái tháo đường có 
xu hướng theo phật là rất nhiều gần 50%, 
theo đạo thiên chúa là 20,2% trước câu hỏi 
về điều trị theo hướng tâm linh có 98,4 % trả 
lời đúng về kiến thức này, điều này cho thấy 
mặc dù người cao tuổi rất chăm đi chùa, nhà 
thờ nhưng khi có bệnh xảy ra đại đa số có 
sự lựa chọn cần đưa đến cơ sở y tế cấp 
cứu và điều trị; tuy vậy điều đáng lưu tâm là 
có tới 96,0% mong muốn cần đưa đến nhà 
thờ hoặc nhà chùa trước khi đưa đến bệnh 
viện. Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu 
của Đặng Thị Kim Nhung có 14,5% chọn 
phương án cạo gió và chờ người bệnh tỉnh 
lại [2] Có thể lý giải điều này do đối tượng 
nghiên cứu đa phần có trình độ dân trí thấp, 
ít được tiếp cận với thông tin y tế; chưa hiểu 
được sự nguy hiểm của đột quỵ não và tầm 
quan trọng của việc xử lý đúng là nếu người 
có dấu hiệu được đưa đến bệnh viện sớm 
sẽ làm giảm tỷ lệ tử vong và tàn tật do đột 
quỵ não và có thể những kiến thức chưa 
thực sự đầy đủ này có thể vô tình sẽ cản trở 
việc đưa người bệnh tiếp cận sớm với dịch 
vụ y tế để điều trị sớm.
113
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
5. KẾT LUẬN
Kết quả nghiên cứu cho thấy kiến thức 
chung của đối tượng nghiên cứu về đột quỵ 
não tại Bệnh viện Nội tiết Trung ương là tốt. 
Tỷ lệ kiến thức đúng não là cơ quan tổn 
thương của đột quỵ não là 89,1 %. Tỷ lệ đối 
tượng nghiên cứu có kiến thức đúng về dấu 
hiệu bệnh đột quỵ não tương đối tốt: đau 
đầu đột ngột và dữ dội là 76,2%; đột ngột 
yếu một bên người là 99,6%; đột ngột khó 
nói là 98,8 %; chỉ có 25,4% câu trả lời đúng 
về dấu hiệu đột ngột mất trí nhớ là dấu hiệu 
của đột quỵ não. Kiến thức về hành động 
đúng của đối tượng nghiên cứu khi gặp 
một trường hợp nghi ngờ đột quỵ não là 
tốt, cụ thể: có 96% trả lời đúng phải tránh té 
ngã cho người bệnh khi đột quỵ não xảy ra; 
có 96,4% cho rằng người đột quỵ não cần 
được đưa đến bệnh viện càng sớm càng 
tốt; chỉ có 0,4% người bệnh trả lời để người 
đột quỵ não ở nhà theo dõi.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Vũ Anh Nhị và các cộng sự. (2003), 
“Nghiên cứu sự hiểu biết về tai biến mạch 
máu não trên thân nhân và bệnh nhân tai 
biến mạch máu não”, Tạp chí Y học TP 
HCM. 7(1), tr 8-13.
2. Đặng Thị Kim Nhung (2015), Hiểu biết 
về tai biến mạch máu não và nhu cầu tìm 
kiếm thông tin của người nhà bệnh nhân tâm 
thần kinh bệnh viện lão khoa 2015, Đề tài 
cấp trường - Trường Đại học Thăng Long.
3. Trần Hồng Nhung (2014), Kiến thức 
thực hành phòng tai biến mạch máu não và 
một số yếu tố liên quan của người cao tuổi 
phường Đức Giang quận Long Biên Hà Nội, 
Đại học y tế công cộng.
4. Nguyễn Văn Thắng và các cộng sự. 
(2011), “Thay đổi hiểu biết và thực hành về 
dự phòng đột quỵ não của người cao tuổi 
tại hai xã Trường yên và Lam Điền huyện 
Chương Mỹ, Hà Nội”, Y học thực hành. 
767(6), tr 73-78.
5. Nguyễn Văn Triệu và các cộng sự. 
(2009), “Đánh giá tình trạng của người 
dân về đột quỵ”, Tạp chí Y học Thực hành. 
679(10), tr 9-12.
6. Y tế Bộ (2015), “Chiến lược quốc gia 
phòng chống bệnh không lây nhiễm giai 
đoạn 2015-2025”.
7. Lê Thị Hương Hương và cộng sự 
(2016), “Tỷ lệ mắc đột quỵ tại 8 tỉnh thuộc 
8 vùng sinh thái việt nam năm 2013-2014 
và một số yếu tố liên quan”, Tạp chí nghiên 
cứu Y học. 104(6), tr. 1-6.
8. Tổng Tổng cục thống kê Bộ kế hoạch 
và đầu tư (2015), Điều tra dân số và nhà 
ở giữa kỳ thời điểm 1/4/2014: Các kết quả 
chủ yếu, Nhà xuất bản thống kê
9. Đinh Thị Yến Yến (2017), Thay đổi 
nhận thức về đột quỵ não của người cao 
tuổi tại xã Giao Lạc – Giao Thủy Nam Định 
sau can thiệp giáo dục sức khỏe. Luận văn 
thạc sĩ điều dưỡng – Trường Đại học Điều 
dưỡng Nam Định.
10. Ana Sofia Duque et al. (2015), 
“Awareness Of Stroke Risk Factors And 
Warning Signs And Attitude To Acute 
Stroke”, International Archives of Medicine. 
8(195), page 1-15.
11. Anne HickeyEmail author et al. 
(2009), “Stroke awareness in the general 
population: knowledge of stroke risk factors 
and warning signs in older adults”, BMC 
Geriatric, page 1-8.
12. D.Holly A.Hickey (2012), “Knowledge 
of stroke risk factors and warning signs in 
Ireland: Development and application of the 
stroke Awareness Questionare(SAQ)”, Int J 
Stroke. 7(4), page 298-306.
13. Department of Economic and Social 
Affairs (2015), World Population Ageing 
2015, United Nations, .
14. Badar S.R. et al. (2016), Prediction of 
Outcome in Diabetic Acute Ischemic Stroke 
Patients: A Hospital-Based Pilot Study 
Report, Ann Neurosci. 23(4): 199–208.
15. Béjot Y. and Giroud M. (2010), Stroke 
in diabetic patients. Diabetes & Metabolism. 
36 Suppl 3:S84-7
114
NGHIÊN CỨU KHOA HỌC
Khoa học Điều dưỡng - Tập 03 - Số 02
16. Cooper M.E., Jandeleit-Dahm K.A. 
and Candido R. (2010), The Pathogenesis 
of Macrovascular Complications Including 
Atherosclerosis in Diabetes, Text book of 
Diabetes, Fourth Edition. Wiley Blackwell.
17. Mozaffarian D. et al. (2014), Heart 
disease and stroke statistics, a report from 
the American Heart Association.
18. Diabetes Translation and National 
Center for Chronic Disease Prevention and 
Health Promotion ( Division (2015), National 
Diabetes Statistics Report, Centers for 
Disease Control and Prevention.
19. International Diabetes Federation 
(2015), “Diabetes Atlas, Seventh edition, 
International Diabetes Federation”.
20. Monaliza (2012), “Awareness of risk 
factors and warning symptoms of stroke in 
general population”, Nursing and Midwifery 
Research Journal. 8(2). 149-161.
21. Sarafadeen Adeniyi Arisegi and et al 
(2018), “Knowledge and practices related 
to stroke prevention among hypertensive 
and diabetic patients attending Specialist 
Hospital, Sokoto, Nigeria”, PanFrican 
Medical Journalist. 29. 63-80.
NHU CẦU TÌM KIẾM THÔNG TIN VỀ ĐỘT QUỴ NÃO CỦA NGƯỜI NHÀ NGƯỜI BỆNH 
TẠI KHOA THẦN KINH BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NAM ĐỊNH NĂM 2017
Trần Thị Thanh Mai1, Mai Thị Yến1, Vũ Thị Minh Phượng1, 
Nguyễn Thị Khánh1, Nguyễn Thị Thanh Huyền1
1Trường Đại học Điều dưỡng Nam Định
Người chịu trách nhiệm: Trần Thị Thanh Mai
Email: greengagetran@gmail.com
Ngày phản biện: 09/6/2020
Ngày duyệt bài: 15/6/2020
Ngày xuất bản: 29/6/2020
TÓM TẮT
Mục tiêu: Tìm hiểu nhu cầu tìm kiếm 
thông tin về bệnh Đột quỵ não của người 
nhà người bệnh tại Khoa Thần kinh - Bệnh 
viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2017. Đối 
tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô 
tả cắt ngang thực hiện từ tháng 02/2017 - 
07/2017 trên 96 người nhà chăm sóc chính 
người bệnh Đột quỵ não đang được điều trị 
tại khoa Thần Kinh Bệnh viện Đa Khoa tỉnh 
Nam Định. Kết quả: Tỷ lệ đối tượng chủ 
động tìm hiểu kiến thức bệnh đột quỵ não 
chiếm 87,5%. Nguồn cung cấp thông tin 
qua phương tiện thông tin đại chúng chiếm 
tỷ lệ cao nhất với 55,2%, thấp nhất là nguồn 
thông tin từ internet chiếm 21,8%. Nội dung 
kiến thức mong muốn được truyền đạt là 
vận động phục hồi chức năng cho người 
bệnh chiếm 63,5%, các nội dung kiến thức 
về dinh dưỡng và nguyên nhân, cách phòng 
tránh đột quỵ não chiếm tỷ lệ cao lần lượt 
là 45,8% và 60,4%. Có 12,5% đối tượng 
nghiên cứu chưa từng chủ động tìm hiểu 
thông tin về bệnh đột quỵ não. Kết luận: 
Có 97,9% đối tượng nghiên cứu rất muốn 
được cung cấp thông tin và chỉ có 2,1% 
muốn được cung cấp thông tin. 
Từ khóa: Đột quỵ não, kiến thức, nhu 
cầu tìm kiếm thông tin, người nhà,...

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_kien_thuc_ve_du_phong_dot_quy_nao_cua_nguoi_cao_t.pdf