Thực trạng hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa của sinh viên K52 không chuyên trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên
Tập luyện thể dục thể thao (TDTT) ngoại khóa là
hình thức tập luyện tự nguyện nhằm củng cố và tăng
cường sức khỏe, duy trì và nâng cao khả năng hoạt động
thể lực, rèn luyện cơ thể và phòng chống bệnh tật, giáo
dục các tố chất thể lực và ý chí. Hình thức buổi tập này
đòi hỏi phát huy được tính tự giác tích cực của cá nhân
người tập. Nội dung tập luyện không quy định chặt chẽ
mà phù hợp với sở thích, nhu cầu và hứng thú của mỗi
người. Hoạt động TDTT ngoại khóa bao gồm các giờ tự
học của sinh viên (SV), các buổi tập luyện đội tuyển để
tham gia các giải thi đấu. Hoạt động TDTT ngoại khóa
là phương tiện để hợp lí hóa chế độ hoạt động, nghỉ ngơi
tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập
của học sinh, SV trong suốt thời kì học tập trong nhà
trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và
chuyên môn phù hợp với những điều kiện của nghề
nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, việc tổ chức hướng
dẫn SV tập luyện ngoại khóa để hoàn thiện các nội dung
học tập chính khóa hiện nay ở nhà trường còn nhiều hạn
chế, chưa phát động được phong trào tự giác tập luyện
của SV. Việc tổ chức hoạt động của các câu lạc bộ (CLB)
thể thao chưa được coi trọng, số lượng SV tham gia còn
hạn chế. Theo chương trình đào tạo của Trường Đại học
Sư phạm (ĐHSP) - Đại học Thái Nguyên, SV chỉ học
môn Giáo dục thể chất (GDTC) ở 3 học kì đầu tiên, học
kì còn lại SV ít có điều kiện tham gia tập luyện TDTT và
điều này gián tiếp gây ảnh hưởng đến sự phát triển thể
chất của SV Trường. Do đó, việc tăng cường tổ chức các
hoạt động thể thao ngoại khóa cho SV có ý nghĩa đặc biệt
quan trọng. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và những hạn
chế của công tác GDTC hiện nay ở Trường, bài viết
nghiên cứu vấn đề: Đánh giá thực trạng hoạt động TDTT
ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP -
Đại học Thái Nguyên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa của sinh viên K52 không chuyên trường Đại học sư phạm - Đại học Thái Nguyên
VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 318-322; 335 318 Email: levanhung@dhsptn.edu.vn THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO NGOẠI KHÓA CỦA SINH VIÊN K52 KHÔNG CHUYÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM - ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN Võ Xuân Thủy - Lê Văn Hùng Trường Đại học Sư phạm - Đại học Thái Nguyên Ngày nhận bài: 20/4/2019; ngày chỉnh sửa: 20/5/2019; ngày duyệt bài: 31/5/2019. Abstract: Using routine scientific research methods, research topics on the current status of extracurricular sports activities of male non-specialized students K52 at University of Education - Thai Nguyen University. Since then, it is the basis for selecting suitable contents to develop physical strength for male non-specialized students K52, contributing to improving the quality of physical education for the University. Keywords: Extracurricular, non-specialized, physical education, University of Education - Thai Nguyen University. 1. Mở đầu Tập luyện thể dục thể thao (TDTT) ngoại khóa là hình thức tập luyện tự nguyện nhằm củng cố và tăng cường sức khỏe, duy trì và nâng cao khả năng hoạt động thể lực, rèn luyện cơ thể và phòng chống bệnh tật, giáo dục các tố chất thể lực và ý chí. Hình thức buổi tập này đòi hỏi phát huy được tính tự giác tích cực của cá nhân người tập. Nội dung tập luyện không quy định chặt chẽ mà phù hợp với sở thích, nhu cầu và hứng thú của mỗi người. Hoạt động TDTT ngoại khóa bao gồm các giờ tự học của sinh viên (SV), các buổi tập luyện đội tuyển để tham gia các giải thi đấu. Hoạt động TDTT ngoại khóa là phương tiện để hợp lí hóa chế độ hoạt động, nghỉ ngơi tích cực, giữ gìn và nâng cao năng lực hoạt động, học tập của học sinh, SV trong suốt thời kì học tập trong nhà trường, cũng như đảm bảo chuẩn bị thể lực chung và chuyên môn phù hợp với những điều kiện của nghề nghiệp trong tương lai. Tuy nhiên, việc tổ chức hướng dẫn SV tập luyện ngoại khóa để hoàn thiện các nội dung học tập chính khóa hiện nay ở nhà trường còn nhiều hạn chế, chưa phát động được phong trào tự giác tập luyện của SV. Việc tổ chức hoạt động của các câu lạc bộ (CLB) thể thao chưa được coi trọng, số lượng SV tham gia còn hạn chế. Theo chương trình đào tạo của Trường Đại học Sư phạm (ĐHSP) - Đại học Thái Nguyên, SV chỉ học môn Giáo dục thể chất (GDTC) ở 3 học kì đầu tiên, học kì còn lại SV ít có điều kiện tham gia tập luyện TDTT và điều này gián tiếp gây ảnh hưởng đến sự phát triển thể chất của SV Trường. Do đó, việc tăng cường tổ chức các hoạt động thể thao ngoại khóa cho SV có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Xuất phát từ nhu cầu thực tiễn và những hạn chế của công tác GDTC hiện nay ở Trường, bài viết nghiên cứu vấn đề: Đánh giá thực trạng hoạt động TDTT ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên. Để tìm hiểu vấn đề này, năm học 2018-2019 chúng tôi đã khảo sát 500 SV K52 (SV năm thứ 2) không chuyên TDTT Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên. Bài viết đánh giá thực trạng hoạt động TDTT ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Thực trạng hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa của sinh viên K52 không chuyên (xem bảng 1) Bảng 1. Tần suất, thời điểm và thâm niên tham gia tập luyện TDTT ngoại khóa của SV K52 (n = 500) TT Nội dung phỏng vấn Kết quả n % 1 Số buổi tập luyện/01 tuần Tập 1 buổi 82 16,4 Tập từ 2-3 buổi 238 47,6 Tập 4 buổi 95 19 Tập trên 4 buổi 85 17 2 Thâm niên tham gia tập luyện TDTT ngoại khoá VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 318-322; 335 319 Tập dưới 1 năm 85 17 Tập từ 1 đến 2 năm 197 39,4 Tập từ trên 2 năm đến 3 năm 113 22,6 Tập trên 3 năm 105 21 3 Thời điểm tham gia hoạt động TDTT ngoại khóa Tập trước giờ học sáng (buổi sáng sớm) 53 10,6 Tập vào buổi trưa (sau giờ học sáng) 13 2,6 Tập sau giờ học chiều 355 71 Tập vào buổi tối 79 15,8 Bảng 1 cho thấy: Đa số SV K52 không chuyên khi được hỏi đều cho rằng, số buổi tập luyện ngoại khoá các môn thể thao với tần suất từ 2 đến 3 buổi/1 tuần (chiếm 47,6%); tiếp đến là số SV có tần suất tập luyện 4 buổi/1 tuần (chiếm 19%), còn lại số ít SV tham gia tập luyện 1 buổi/1 tuần (16,4%) và trên 4 buổi/1 tuần là 17%. Khi xem xét đến thâm niên tham gia tập luyện ngoại khoá các môn thể thao cho thấy, có sự tương đồng giữa thâm niên tham gia tập luyện và tần suất tập luyện ngoại khoá của SV K52 không chuyên TDTT. Đa số SV được hỏi đều cho rằng có thâm niên tập luyện từ trên 2 đến 3 năm, chiếm tỉ lệ 22,6%; từ 1 đến 2 năm chiếm tỉ lệ 39,4%; trên 3 năm chiếm tỉ lệ 21%; tiếp đến là số SV có thâm niên tập luyện dưới 1 năm chiếm 17%. Thời điểm SV K52 không chuyên TDTT tham gia hoạt động ngoại khóa ở Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên tập trung chủ yếu vào sau giờ học buổi chiều (chiếm tỉ lệ đến 71%); tiếp đến là số SV tập ngoại khóa vào buổi tối chiếm 15,8%; số SV tập trước giờ học sáng (buổi sáng sớm) chỉ chiếm 10,6% và số SV tập vào buổi trưa (sau giờ học sáng) chiếm tỉ lệ thấp nhất với 2,6%. Như vậy, từ những kết quả phân tích tổng hợp nêu trên có thể thấy rằng, đa số SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên đã ý thức được tác dụng của tập luyện ngoại khoá đến rèn luyện thể lực, sức khoẻ, cũng như ham thích tập luyện ngoại khoá các môn thể thao. 2.2. Thực trạng về nội dung, hình thức tham gia tập luyện ngoại khoá của sinh viên K52 không chuyên Để giải quyết nhiệm vụ trên, đề tài tiến hành khảo sát về thực trạng nội dung, hình thức tập luyện TDTT ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên thường xuyên tham gia tập luyện ngoại khoá. Kết quả như sau (xem bảng 2): Bảng 2. Kết quả phỏng vấn về nội dung, hình thức, nhu cầu tham gia tập luyện TDTT ngoại khoá của SV K52 không chuyên (n = 500) TT Nội dung phỏng vấn SV K52 n % 1 Môn thể thao tập luyện ngoại khoá Bóng chuyền 115 23 Bóng rổ 29 5,8 Cầu lông 31 6,2 Đá cầu 18 3,6 Võ thuật 97 19,4 Bơi lội 16 3,2 Bóng đá 178 35,6 Các môn thể thao khác 16 3,2 2 Hình thức tham gia tập luyện ngoại khoá Tự tập luyện 56 11,2 Tập luyện theo nhóm, lớp 224 44,8 Tập theo lớp năng khiếu 58 11,6 Tập luyện theo đội tuyển 42 8,4 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 318-322; 335 320 Tập luyện theo CLB 120 24 3 Nhu cầu tham gia tập luyện ngoại khoá theo CLB Rất muốn 392 78,4 Bình thường 88 17,6 Không cần thiết 20 4 Bảng 2 cho thấy: - Về nội dung tập luyện TDTT ngoại khóa: Nội dung tập luyện TDTT ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - ĐHTN khá tản mạn. Số môn thể thao mà các em tham gia là tương đối nhiều (07 môn, chưa kể các môn thể thao khác), nhưng lại có sự chênh lệch đáng kể. Tuy nhiên, qua bảng 2 cho thấy, về tổng thể các môn thể thao mà SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên yêu thích và tập luyện nhiều hơn cả là Bóng đá (chiếm tỉ lệ 35,6%); Võ thuật (chiếm tỉ lệ 19,4%); Bóng chuyền (chiếm 23%). Đây cũng là các môn có tính hấp dẫn cao, phổ biến, dễ tập, điều kiện sân bãi thuận lợi, được giảng dạy trong chương trình học chính khóa; còn các môn thể thao khác do những nguyên nhân khác nhau như điều kiện sân bãi, thời gian, tính hấp dẫn hay nhu cầu, sở thích, giới tính mà không được SV lựa chọn nhiều trong buổi tập ngoại khóa. Kết quả trên cũng là cơ sở để đề tài căn cứ lựa chọn hình thức tập luyện TDTT ngoại khoá cho SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - ĐHTN hiện nay. - Về hình thức ngoại khóa TDTT: Bảng 2 cho thấy, SV K52 không chuyên TDTT Trường ĐHSP - ĐHTN hoạt động ngoại khóa TDTT theo nhiều hình thức khác nhau và hình thức tập theo nhóm, lớp được SV tham gia nhiều nhất (chiếm 44,8%). Chủ yếu là tập theo nhóm tự phát, không có giáo viên hướng dẫn. Cụ thể: + Hình thức tự tập luyện chiếm khoảng 11,2%. Hình thức này có ưu và nhược điểm là SV chủ động về mặt thời gian, luyện tập theo sự đam mê, bằng ý thức tự giác tập luyện của cá nhân tại nhưng môn thể thao như chạy, đi bộ, cầu lông,; + Tập theo CLB chiếm 24%, số lượng SV tham gia ít có thể là do hình thức tập luyện theo CLB TDTT còn rất mới mẻ đối với SV K52 của nhà trường. Hiện nay, chủ yếu là CLB ở tại trường như CLB Bóng đá, võ thuật (Vovinam, Taekwondo, Karatedo, Võ cổ truyền) hoặc CLB tại những trung tâm tư nhân như: Bơi, thể hình, thể dục thẩm mĩ, Yoga. Đối tượng tham gia chỉ gồm một số ít SV có điều kiện về kinh tế; + Tập luyện theo đội tuyển chiếm tỉ lệ 8,4%, chủ yếu là đội tuyển của các khoa tập luyện để tham gia các giải thể thao được tổ chức thường niên trong nhà trường, của các khoa với nhau và trong nội bộ khoa. Hình thức tập luyện này mang tính chất thời vụ; + Tập luyện theo hình thức lớp năng khiếu chỉ chiếm 11,6%. Như vậy, tập luyện theo hình thức nhóm, lớp vẫn chiếm ưu thế và đây là biện pháp tổ chức hoạt động ngoại khóa TDTT mà SV hay tham gia tập luyện. Hình thức CLB là hình thức mang lại hiệu quả cao nhất đối với sự phát triển thể chất của SV, nhưng hiện nay, hình thức này chưa thu hút được nhiều SV tham gia tập luyện. Đây là yếu tố quan trọng để đề tài tiến hành nghiên cứu lựa chọn nội dung tập luyện TDTT ngoại khóa hợp lí cho nam SV. Khi tìm hiểu về nhu cầu tham gia tập luyện dưới các hình thức lớp năng khiếu thể thao có giáo viên hướng dẫn, CLB thể thao thì được số nam SV đánh giá rất cao (chiếm 78,4%). 2.3. Thực trạng về công tác giáo dục thể chất cho sinh viên K52 không chuyên Về công tác GDTC và TDTT của nhà trường trong những năm qua, nhà trường đã xác định: SV là trọng tâm của quá trình đào tạo, nhiệm vụ của toàn bộ hoạt động GD-ĐT trong nhà trường là hướng tới và tạo điều kiện tốt nhất để SV phát huy tính tự chủ, tích cực, tự giác trong học tập và rèn luyện. Chủ trương của nhà trường đã thể hiện: “Tăng cường công tác giáo dục đạo đức, nhân cách cho người học, tổ chức tốt các hoạt động ngoại khoá, văn hoá văn nghệ, TDTT thu hút SV vào các hoạt động lành mạnh”. Nhà trường đã có kế hoạch chỉ đạo các đơn vị, đoàn thể trong nhà trường, lấy Khoa TDTT làm nòng cốt, phối hợp chặt chẽ với các đơn vị, phòng ban chức năng trong nhà trường, để quán xuyến, chỉ đạo, động viên cán bộ giáo viên và SV làm tốt công tác GDTC, rèn luyện thân thể, tập luyện và thi đấu thể thao. Nhằm tìm hiểu thực trạng về công tác GDTC cho SV không chuyên TDTT Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên, chúng tôi tiến hành khảo sát 550 SV khóa 52 (SV năm thứ 2) về công tác GDTC của nhà trường thông qua ý kiến đánh giá về giờ học chính khoá và giờ tập luyện ngoại khoá TDTT (số phiếu thu về 500). Kết quả như sau (xem bảng 3): VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 318-322; 335 321 Bảng 3. Kết quả khảo sát về công tác GDTC của Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên đối với SV không chuyên TDTT (n = 500) TT Nội dung phỏng vấn Kết quả phỏng vấn n % 1. Đánh giá về giờ học nội khoá: - Giờ học sôi động 37 7,4 - Giờ học khô khan 312 62,4 - Không đủ sân bãi dụng cụ 151 30,2 2. Yếu tố ảnh hưởng đến giờ học thể dục chính khoá: - Do điều kiện sân bãi 291 58,2 - Do trình độ giáo viên 13 2,6 - Thiếu dụng cụ tập luyện 116 23,2 - Không có đủ trang bị giầy, quần áo 80 16 3. Yếu tố ảnh hưởng đến việc tập luyện ngoại khoá: - Không có giáo viên hướng dẫn 302 60,4 - Không có thời gian 14 2,8 - Không có đủ điều kiện sân bãi dụng cụ tập luyện 155 31 - Không được sự ủng hộ bạn bè 17 3,4 - Không ham thích môn thể thao nào 13 2,6 Nhằm tìm hiểu thực trạng về công tác GDTC cho SV không chuyên TDTT Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên, đề tài tiến hành phỏng vấn 550 SV khóa 52 về công tác GDTC của nhà trường thông qua ý kiến đánh giá về giờ học chính khoá và giờ tập luyện ngoại khoá TDTT (số phiếu thu về hợp lệ là 500 phiếu). Kết quả thu được như trình bày ở bảng 3 cho thấy: - Khi đánh giá về giờ học nội khoá, có đến 62,4% số SV được hỏi đánh giá giờ học nội khoá còn khô khan, cứng nhắc, thiếu hấp dẫn kích thích SV tập luyện, và có đến 58,2% đánh giá giờ học không đủ điều kiện sân bãi dụng cụ đáp ứng tập luyện, học tập. Một trong những yếu tố chính dẫn đến hiệu quả giờ thể dục nội khoá không cao (còn khô khan, cứng nhắc) là do thiếu dụng cụ tập luyện (chiếm 23,2%); do điều kiện sân bãi tập luyện không đáp ứng (chiếm 30,2%). - Đánh giá về yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động ngoại khoá TDTT, những yếu tố chính được đa số các ý kiến tán thành bao gồm: Không có tổ chức, giảng viên hướng dẫn (chiếm 60,4%); không có điều kiện sân bãi dụng cụ (chiếm 31%); số ít các ý kiến còn lại cho rằng do chương trình học tập văn hoá nặng nề nên không sắp xếp được thời gian để tham gia tập luyện ngoại khoá (chiếm 2,8%); do không được bạn bè ủng hộ (chiếm 3,4%), và do không ham thích tập luyện ngoại khoá các môn thể thao (chiếm 2,6%). Tiếp theo, đề tài tiến hành khảo sát về thực trạng công tác GDTC trong nhà trường thông qua ý kiến đánh giá của các cán bộ quản lí, chuyên môn, các giảng viên của Trường ĐHSP - ĐHTN. Đối tượng phỏng vấn của đề tài là 34 cán bộ giảng viên thuộc các đơn vị có liên quan trong nhà trường, bao gồm: Ban Giám hiệu, Ban Chấp hành Công đoàn Trường, Đoàn Thanh niên, cán bộ quản lí các khoa và giảng viên Khoa TDTT. Kết quả như sau (xem bảng 4): Bảng 4. Kết quả khảo sát thực trạng công tác GDTC của nhà trường (n = 34) TT Nội dung phỏng vấn Kết quả phỏng vấn n % 1 Đánh giá công tác GDTC: - - - Đáp ứng yêu cầu của Bộ GD & ĐT và của nhà trường 12 35,29 - Đáp ứng từng phần yêu cầu 22 64,71 - Chưa đáp ứng 0 0.00 VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 318-322; 335 322 2 Những vấn đề trọng tâm của công tác GDTC: - - Ban giám hiệu luôn quan tâm 32 94,12 - Công tác quản lý môn học thể dục nề nếp 28 82,35 - Chất lượng giáo viên TDTT đảm bảo 34 100 - Phương pháp giảng dạy môn học thể dục chưa phù hợp với điều kiện nhà trường 30 88,24 - Cơ sở vật chất sân bãi dụng cụ hạn chế 34 100 - Kinh phí dành cho hoạt động thể thao hạn hẹp 33 97,06 - Cần tổ chức các hoạt động thể thao 31 91.18 - Tổ chức các giải thể thao, các CLB thể thao và các lớp năng khiếu ngoài giờ học chính khoá rất hạn chế 34 100 3 Công tác kế hoạch tổ chức: - - - Công tác chỉ đạo, kiểm tra chuyên môn đối với giảng viên - - + Thường xuyên 20 58,82 + Chưa thường xuyên 14 41,18 - Công tác hướng dẫn học sinh tập luyện ngoại khoá - - + Thường xuyên 0 0 + Thỉnh thoảng 7 20,59 + Chưa có 27 79,41 4 Kiến nghị về các cải tiến công tác tổ chức: - - - Công tác kế hoạch của môn học 26 76,47 - Tổ chức các hoạt động ngoại khoá TDTT cho SV 34 100 - Xây dựng lại chương trình, nội dung giảng dạy 2 5,88 - Nên đưa nội dung kiểm tra tiêu chuẩn rèn luyện thân thể vào đánh giá điểm học tập của SV 30 88,24 Bảng 4 cho thấy: Công tác GDTC trong những năm qua được đánh giá là đã đáp ứng từng phần những yêu cầu đặt ra của nhà trường và chương trình GDTC của Bộ GD-ĐT (22/34 ý kiến, chiếm 64,71%). Trong những năm tới, để nâng cao chất lượng công tác GDTC trong nhà trường, thì hầu hết các ý kiến cho rằng cần quan tâm đến những vấn đề sau (các ý kiến lựa chọn chiếm tỉ lệ trên 80%): - Cần sự quan tâm hơn của lãnh đạo nhà trường. - Cần nâng cao chất lượng, trình độ của giảng viên; - Cần phải tăng cường cơ sở vật chất, sân bãi, kinh phí dành cho công tác giảng dạy và huấn luyện TDTT; - Cần củng cố công tác quản lí Khoa, Bộ môn, cải tiến phương pháp tổ chức giảng dạy nội khoá và tổ chức các hoạt động ngoại khoá đáp ứng nhu cầu tập luyện và rèn luyện thân thể của SV; - Cần tăng cường tổ chức các giải thể thao nhiều hơn, tổ chức và thành lập những lớp năng khiếu thể thao thu hút SV có năng khiếu và ham thích các môn thể thao tập luyện. Ngoài ra, khi tọa đàm trực tiếp với các đối tượng phỏng vấn còn cho thấy, những ý kiến đưa ra đều mong muốn rằng: Cần tăng cường công tác xã hội hoá trong các hoạt động thể thao và tập luyện TDTT trong nhà trường. Đây là một trong những mục tiêu cần đạt được để góp phần nâng cao chất lượng GDTC. Về công tác chỉ đạo, tổ chức quản lí và công tác kế hoạch của tổ môn học thể dục được thực hiện thường xuyên (các ý kiến đánh giá chiếm: 58,82%) đã đóng góp rất lớn vào việc tổ chức phong trào TDTT cũng như đóng góp vào chất lượng GDTC của nhà trường. Để nâng cao thể lực chung, góp phần nâng cao chất lượng công tác GDTC của học sinh, cần phải thực hiện các nội dung, yêu cầu như: - Cải tiến công tác tổ chức, quản lí của Khoa, Bộ môn (chiếm 76,47%); - Đưa nội dung kiểm tra, đánh giá tiêu chuẩn đánh giá thể lực học sinh, SV vào nội dung đánh giá học tập môn học thể dục (chiếm 88,24%); - Tổ chức nhiều hơn các hoạt động ngoại khoá cho SV (34/34 ý kiến, chiếm 100%) theo các hình thức lớp năng khiếu, CLB với các hình thức tập luyện có người hướng dẫn và tổ chức các hình thức tập luyện ngoại khoá có giáo viên tham gia hướng dẫn. (Xem tiếp trang 335) VJE Tạp chí Giáo dục, Số đặc biệt Kì 2 tháng 5/2019, tr 330-335 335 được thực hiện ở tất cả mọi lực lượng tham gia đào tạo và QL đào tạo nghề cả ở trường và ở cơ sở sử dụng lao động; d) Sự gắn kết được thể hiện cả ở việc sử dụng cơ sở vật chất phục vụ đào tạo, ở đây không chỉ có cơ sở vật chất ở trường nghề mà bản thân cơ sở vật chất của các cơ sở nghề nghiệp cũng là phương tiện và công cụ đào tạo nghề; e) Sự gắn kết thể hiện trong toàn bộ các thành tố của quá trình đào tạo nghề (mục đích, nội dung chương trình...) dưới sự chỉ đạo thống nhất và chặt chẽ của cơ sở đào tạo là các trường trung cấp nghề. 3. Kết luận Khảo sát 95 cán bộ QL và giáo viên, học viên đã ra trường và các cơ sở giáo dục nghề nghiệp về vấn đề QL đào tạo nghề may và thiết kế thời trang ở Trường Trung cấp nghề An Dương theo tiếp cận CIPO, có thể kết luận: - Mức độ thực hiện các nội dung QL đào tạo nghề may thiết kế thời trang được đánh giá ở mức độ khá tốt và xếp theo thứ bậc: 1) Xác định tác động của các yếu tố bối cảnh đến đào tạo; 2) QL yếu tố đầu vào đào tạo; 3) QL các yếu tố đầu ra của đào tạo; 4) QL quá trình đào tạo; - Các đề xuất về biện pháp QL đào tạo nghề may và thiết kế thời trang ở Trường Trung cấp nghề An Dương theo tiếp cận CIPO phù hợp với nghiên cứu về thực trạng QL đào tạo và được khảo nghiệm có mức độ cần thiết và khả thi cao. Tài liệu tham khảo [1] Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2014). Thông tư số 21/2014/TT-BLĐTBXH ngày 26/8/2014 quy định danh mục nghề đào tạo trình độ trung cấp nghề, cao đẳng nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân. [2] Trần Khánh Đức (2004). Quản lí kiểm định chất lượng đào tạo. NXB Giáo dục. [3] Harold Koontz Cyrinodonnell - HeinzWeihrich (2002). Những vấn đề cốt yếu của quản lí (Bản tiếng Việt). NXB Khoa học và Kĩ thuật. [4] Nguyễn Viết Sự (1990). Dự báo phát triển nội dung phương pháp đào tạo nghề. Viện Nghiên cứu đại học và Giáo dục chuyên nghiệp. [5] Thủ tướng Chính phủ (2012). Quyết định số 630/QĐ-TTg ngày 29/5/2012 phê duyệt chiến lược dạy nghề thời kì 2011-2020, Hà Nội. [6] Tổng cục dạy nghề (2015). Quyết định số 248/QĐ-TCDN ngày 25/9/2015 phê duyệt hệ thống tiêu chí, tiêu chuẩn kiểm định chất lượng chương trình đào tạo. [7] Trường Trung cấp nghề An Dương (2015). Chương trình dạy nghề trình độ trung cấp. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội Hải Phòng. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THỂ DỤC THỂ THAO... (Tiếp theo trang 322) 3. Kết luận Qua nghiên cứu về thực trạng về công tác GDTC và hoạt động TDTT ngoại khóa của SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên, có thể thấy, đa số SV đều nhận thức được vai trò, tác dụng của tập luyện ngoại khoá các môn thể thao đến sức khoẻ, nâng cao năng lực vận động, phục vụ học tập, đồng thời ham thích tập luyện các môn thể thao. Tuy nhiên hiện nay, việc tổ chức các hoạt động TDTT ngoại khóa cho SV trong nhà trường chưa được chú trọng, thiếu sự tổ chức hướng dẫn SV tập luyện, dẫn đến các hoạt động TDTT ngoại khóa của các em chủ yếu mang tính tự phát, đơn điệu và khá tản mạn (số môn thể thao mà các em tham gia là khá nhiều, 7 môn, chưa kể các môn thể thao khác, nhưng lại có sự chênh lệch đáng kể về số lượng, thời gian, thâm niên tập luyện). Đây là cơ sở quan trọng để đề tài tiếp tục đi sâu tiến hành nghiên cứu, lựa chọn nội dung hoạt động TDTT ngoại khóa nhằm nâng cao thể lực cho SV K52 không chuyên Trường ĐHSP - Đại học Thái Nguyên. Tài liệu tham khảo [1] Bộ GD-ĐT (2001). Quy chế giáo dục thể chất và thể thao trường học. [2] Bộ GD-ĐT (2008). Quy định tổ chức hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho học sinh, sinh viên. (Ban hành kèm theo Quyết định số 72/2008/QĐ-BGDĐT ngày 23/12/2008 của Bộ trưởng Bộ GD-ĐT). [3] Lê Trường Sơn Chấn Hải (2003). Tổ chức hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa các môn thể thao như một biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục thể chất cho sinh viên Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Luận án tiến sĩ Giáo dục học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. [4] Evanof.A and W.P.Newton (1999). An altenative treatment for low back pain. Joumal of Family Practice, pp. 416-417. [5] Lieber, RL, and J.Friden (2000). Mechanisms of muscle injury after eccentric contraction. Joumal of Science and Medicine in Sport2 (3): pp. 253-256. [6] Nguyễn Toán - Phạm Danh Tốn (2000). Lí luận và Phương pháp thể dục thể thao. NXB Thể dục thể thao. [7] Dương Nghiệp Chí (1983). Đo lường thể thao. NXB Thể dục thể thao. [8] Nguyễn Kỳ Anh - Vũ Đức Thu (1994). Những giải pháp thực thi nhằm cải tiến nâng cao chất lượng giáo dục thể chất trong các trường đại học (Tuyển tập Nghiên cứu khoa học thể dục thể thao). NXB Thể dục thể thao.
File đính kèm:
- thuc_trang_hoat_dong_the_duc_the_thao_ngoai_khoa_cua_sinh_vi.pdf