Thực trạng giám sát ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
Một hệ thống tài chính bền vững không thể thiếu tầm quan trọng của hệ thống giám sát tài
chính vững mạnh nói chung và giám sát ngân hàng nói riêng. Những năm gần đây, tình thị trường
tài chính tiền tệ tại Việt Nam và trên địa bàn TP.HCM nói riêng diễn ra hết sức phức tạp do hội
nhập càng trở nên sâu và rộng cùng với những biến động khôn lường của nền kinh tế thế giới. Do
đó, vai trò của thanh tra giám sát ngân hàng nhà nước (TTGS NHNN) Chi nhánh TP.HCM càng
được chú trọng. Mục tiêu bài viết này nhằm đánh giá được thực trạng của TTGS NHNN Chi nhánh
TP.HCM, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm
nâng cao hiệu lực, hiệu quả.
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng giám sát ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng giám sát ngân hàng đối với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh
3Thực trạng giám sát . . . Kinh tế THỰC TRẠNG GIÁM SÁT NGÂN HÀNG ĐỐI VỚI CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH Đoàn Thanh Hà* TÓM TẮT Một hệ thống tài chính bền vững không thể thiếu tầm quan trọng của hệ thống giám sát tài chính vững mạnh nói chung và giám sát ngân hàng nói riêng. Những năm gần đây, tình thị trường tài chính tiền tệ tại Việt Nam và trên địa bàn TP.HCM nói riêng diễn ra hết sức phức tạp do hội nhập càng trở nên sâu và rộng cùng với những biến động khôn lường của nền kinh tế thế giới. Do đó, vai trò của thanh tra giám sát ngân hàng nhà nước (TTGS NHNN) Chi nhánh TP.HCM càng được chú trọng. Mục tiêu bài viết này nhằm đánh giá được thực trạng của TTGS NHNN Chi nhánh TP.HCM, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả. Từ khóa: giám sát ngân hàng, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ BANKING SUPERVISION REALITY FOR CREDIT ORGANIZATIONS IN HO CHI MINH CITY ABSTRACT A stable financial system is indispensable importance of strongly monitoring financial system in general and banking supervision in particular. In recent years, the financial market in Vietnam and in HCM City in particular have occured complicatedly due to integration becomes deep and wide with unpredictable fluctuations of the economic world. Thus, the role of state bank of HCM City Branch supervision has been focused. The objective of this article is to assess the status of state bank of HCMC branch supervision, indicating the existence, causes and constraints, from there proposes solutions to improve effectiveness and efficiency. Keywords: banking supervision, remote monitoring, on-site inspection * PGS.TS. Trường Đại học Ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh 4Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät 1. Đặt vấn đề Thành phố Hồ Chí Minh -Trung tâm kinh tế, tài chính lớn của cả nước với nhiều định chế tài chính hoạt động và phát triển, đa dạng về hình thức sở hữu, phong phú về loại hình hoạt động, tạo điều kiện cho thành phố đã và đang trở thành trung tâm tài chính lớn của cả nước và khu vực. Trong đó, phải kể đến đóng góp không nhỏ của các tổ chức tín dụng (TCTD) trên địa bàn bởi lẽ đây là kênh cung ứng vốn lớn nhất cho nền kinh tế trong hệ thống tài chính với mạng lưới hoạt động hơn 2.018 đơn vị TCTD tính đến cuối năm 2012 (gồm hội sở, sở giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch, quỹ tiết kiệm và điểm giao dịch). Tuy nhiên, trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường và hội nhập hiện nay, những biến động thị trường, những diễn biến phức tạp của kinh tế thế giới và khủng hoảng có tác động khác nhau, song đều ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến hoạt động của các TCTD trên địa bàn. Đặc biệt những năm gần đây, cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính năm 2008 tại Mỹ, đồng thời sau đó là cuộc khủng hoảng nợ công Châu Âu đã tác động đến nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, với những vấn đề đặt ra về ổn định kinh tế vĩ mô, lạm phát, nhập siêu, chi tiêu công, diễn biến phức tạp của thị trường bất động sản, chứng khoán, thanh khoản, nợ xấu ngân hàng,Trong đó việc ổn định thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng có vai trò đặc biệt quan trọng. Không chỉ hạn chế rủi ro mà còn góp phần thúc đẩy hoạt động ngân hàng tăng trưởng và phát triển bền vững. Trong quá trình đó, nhìn dưới góc độ quản lý, hoạt động TTGS NHNN chi nhánh TP.HCM – một trong công cụ điều hành quản lý thị trường tài chính tiền tệ của ngân hàng nhà nước (NHNN) là hết sức cần thiết. Trong bối cảnh hiện nay, yêu cầu phát triển hệ thống ngân hàng an toàn, hiệu quả và bền vững càng trở nên quan trọng hơn, đặc biệt đối với địa bàn TP.HCM. Do đó, đánh giá được thực trạng của TTGS NHNN Chi nhánh TP.HCM, chỉ ra được những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân; từ đó đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả là mục tiêu của bài viết này. 2. Kết quả đạt được + Về công tác thanh tra, kiểm tra trực tiếp Trong giai đoạn 2008-2012, TTGSNH Chi nhánh đã thực hiện việc giám sát thường xuyên và tiến hành trung bình gần 60 cuộc thanh tra, kiểm tra trực tiếp (Bảng 1). Đặc biệt năm 2011, số cuộc thanh tra, kiểm tra trực tiếp là 103 cao nhất trong các năm nhưng năm 2012 lại giảm rõ rệt, chỉ chiếm gần 1/4 năm trước đó. Tuy nhiên số kiến nghị qua thanh tra lại tăng gần gấp đôi so với năm 2012. Đây là xu hướng tích cực của hoạt động thanh tra, kiểm tra trực tiếp 2 năm trở lại đây. Bảng 1. Tình hình thanh tra tại chỗ của TTGSNH chi nhánh TP. HCM Chỉ tiêu/Năm 2008 2009 2010 2011 2012 1. Số cuộc thanh tra, kiểm tra 72 70 48 103 27 1 2. Số kiến nghị qua thanh tra 224 188 154 175 305 3. Kết quả chấp hành kiến nghị thanh tra - Đã chỉnh sửa 115 138 49 119 153 - Đang chỉnh sửa 109 50 105 56 152 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh Trong năm 2012 TTGSNH tập trung trọng điểm thanh tra một số pháp nhân NHTM cổ phần, bao gồm các chi nhánh trực thuộc trên toàn quốc. 5Các sai phạm đã phát hiện trong công tác cấp tín dụng, công tác huy động vốn, lĩnh vực ngoại hối, kinh doanh vàng, lĩnh vực đầu tư tài chính, góp vốn, mua cổ phần, trong việc chấp hành các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động ngân hàng, trong công tác quản trị, điều hành, kiểm soát; TGSNH chi nhánh xác định rõ nguyên nhân, quy trách nhiệm cụ thể đối với tập thể, cá nhân có liên quan và kiến nghị các biện pháp xử lý kiên quyết theo đúng quy định của pháp luật. TTGSNH chi nhánh đã yêu cầu Chủ tịch Hội đồng Quản trị, Tổng Giám đốc (Giám đốc) các TCTD họp kiểm điểm, có hình thức xử lý kỷ luật phù hợp đối với tập thể, cá nhân có liên quan trong công tác quản trị, điều hành, tác nghiệp để xảy ra sai phạm. Yêu cầu chấm dứt ngay các hành vi vi phạm; kịp thời khắc phục, chỉnh sửa theo đúng quy định hiện hành. + Về công tác giám sát, quản lý, cấp phép - Về quản lý nhà nước đối với bộ máy nhân sự của các Ngân hàng TMCP Nhân sự Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc/Giám đốc của các Ngân hàng TMCP, Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở ngày càng được chuẩn hóa theo những tiêu chuẩn, điều kiện cụ thể, trình độ và năng lực chuyên môn ngày càng được nâng cao nhằm đảm bảo đáp ứng yêu cầu phát triển trong từng thời kỳ. Chất lượng nguồn nhân lực ngày càng cao đã đóng vai trò quan trọng trong việc hoạch định, xây dựng chiến lược phát triển của từng TCTD. Hiện nay, các ngân hàng TMCP, Quỹ tín dụng nhân dân cơ sở đóng trên địa bàn đều đảm bảo số lượng nhân sự Hội đồng Quản trị, Ban Kiểm soát theo quy định. - Về vốn điều lệ, cổ đông, cổ phần, cổ phiếu Yêu cầu nâng cao năng lực tài chính luôn được Chính phủ và NHNN định hướng trong từng thời kỳ. Do vậy các ngân hàng TMCP trên địa bàn đã từng bước nâng vốn điều lệ theo lộ trình, đến nay đã đạt mức 3.000 tỷ đồng theo quy định. Đây là một trong những yếu tố giúp các NHTM từng bước nâng cao năng lực tài chính, năng lực cạnh tranh, đáp ứng nhu cầu vốn cho nền kinh tế và đáp ứng yêu cầu trong quá trình hội nhập nền kinh tế quốc tế. Quản lý, giám sát việc chuyển nhượng cổ phần tại các NHTMCP cũng là những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác của TTGSNH Chi nhánh những năm qua. Chuyển nhượng cổ phần phải đảm bảo tuân thủ các quy định của pháp luật không gây ảnh hưởng làm mất an toàn hệ thống là những đòi hỏi bắt buộc. Các trường hợp chuyển nhượng cổ phần phải xem xét và có ý kiến là những cổ đông chiếm cổ phần trọng yếu trong ngân hàng, chuyển nhượng cổ phần liên quan đến các thành viên Hội đồng Quản trị, thành viên Ban Kiểm soát, Tổng Giám đốc... - Công tác giám sát từ xa ngày càng chú trọng, đối tượng thanh tra cũng đa dạng (Bảng 2), và công tác thanh tra được tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin để hỗ trợ công tác giám sát, xây dựng thống nhất hệ thống các chỉ tiêu, chỉ số trong công tác giám sát từ xa, từng bước chuyển đổi sang mô hình thanh tra, giám sát trên cơ sở rủi ro. Căn cứ kết quả phân tích, giám sát thường xuyên, những đơn vị có tỷ lệ nợ xấu trên 3% hoặc tỷ lệ nợ nhóm 2 trên 7% so với tổng dư nợ TTGSNH chi nhánh đều có văn bản khuyến cáo và yêu cầu đơn vị có biện pháp tích cực thu hồi nợ để lành mạnh hóa chất lượng tín dụng. Thực trạng giám sát . . . 6Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Bảng 2. Đối tượng thanh tra giám sát của NHNN chi nhánh TP. HCM 2 NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 Hội sở SGD, CN Hội sở SGD, CN Hội sở SGD, CN Hội sở SGD, CN Hội sở SGD, CN I NH Chính sách xã hội 1 1 1 1 1 II NHTM nhà nước (kể cả cổ phần hóa) 1 88 1 91 1 93 1 93 1 98 1 NH Nông nghiệp & Phát triển nông thôn 48 48 48 48 40 2 NH Đầu tư & Phát triển Việt Nam 7 8 9 9 12 3 NH TMCP Công Thương 19 20 21 21 21 4 NH TMCP Ngoại Thương 11 12 12 12 12 5 NH Phát triển Nhà Đồng bằng sông Cửu Long 1 3 1 3 1 3 1 3 1 3 III NH TMCP 16 401 16 197 16 206 16 206 14 204 1 NH TMCP có Hội sở trên địa bàn 16 192 16 146 16 150 16 147 14 144 2 NH TMCP có Hội sở ngoài địa bàn 209 51 56 59 60 IV QTDND (kể cả Chi nhánh QTDTW) 17 1 18 1 18 1 18 1 18 1 V Công ty tài chính và cho thuê tài chính 15 12 13 11 14 Tổng số 34 506 35 302 35 314 35 312 33 317 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh 2 Các ngân hàng TMCP còn có các công ty trực thuộc: Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản, Công ty kiều hối, Công ty cho thuê tài chính, Công ty tài chính, Phòng giao dịch, Quỹ tiết kiệm trực thuộc...Bảng số liệu chưa tính đến các đối tượng giám sát khác như: Văn phòng đại diện Ngân hàng nước ngoài, Dịch vụ tiết kiệm bưu điện. 7+ Về công tác xử lý vi phạm hành chính Các hành vi phạm hành chính trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng hành chủ yếu là vi phạm về điều kiện vay vốn, phân loại nợ và trích lập dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng chưa đúng quy định, không chuyển nợ quá hạn, thu phí cho vay không đúng quy định, cho vay vi phạm các quy định về giới hạn tín dụng hoặc vi phạm về những trường hợp không được cho vay quy định tại Luật các TCTD, vi phạm về quản lý ngoại hối... Kết quả xử phạt qua các năm cho thấy trong 2 năm 2011 và 2012, tình hình hoạt động thị trường tài chính tiền tệ trở nên phức tạp hơn nhiều so với các năm trước (Bảng 3). Việc xử phạt vi phạm hành chính được tiến hành thận trọng, công minh, triệt để theo đúng trình tự thủ tục quy định tại Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn có liên quan. Chưa phát sinh trường hợp khiếu nại, khởi kiện liên quan đến quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Kết quả xử lý đều báo cáo đúng quy định. Trong quá trình tiến hành thanh tra, kiểm tra tại chỗ, các thành viên đoàn thanh tra luôn được quán triệt tinh thần khi phát hiện tổ chức có vi phạm phải lập biên bản và xử lý kịp thời, kiên quyết. Tổ chức giám sát, theo dõi chặt chẽ các đơn vị việc chấp hành quyết định xử phạt theo đúng thời gian quy định. Bảng 3. Kết quả xử phạt qua các năm NĂM 2008 2009 2010 2011 2012 Số Quyết định xử phạt 15 13 29 49 42 Số tiền xử phạt (triệu đồng) 100 129 402 611 580 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh + Về công tác tiếp công dân, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo; thực hành tiết kiệm chống lãng phí, phòng chống tham nhũng, tội phạm trong ngành ngân hàng Tại Chi nhánh, công tác giải quyết khiếu nại, tố cáo đã được sự quan tâm, chú trọng đúng mức của Đảng ủy cơ quan, Ban Giám đốc chi nhánh và thực hiện theo đúng Luật định. Công tác tiếp công dân được NHNN chi nhánh TP.HCM chú trọng. Phòng tiếp dân được trang bị phương tiện, thiết bị phù hợp, cần thiết cho công việc. Chi nhánh duy trì hoạt động tiếp dân thường xuyên theo lịch, tiến hành tiếp nhận và giải quyết kịp thời, thấu đáo các trường hợp khiếu nại tố cáo phát sinh. Việc theo dõi, báo cáo, ghi chép, lưu trữ hồ sơ tài liệu liên quan đến đơn thư khiếu nại, tố cáo được thực hiện nghiêm túc, khoa học. Công tác phòng, chống tội phạm đã được các cấp ủy Đảng, Ban Chỉ đạo Phòng chống tham nhũng, Ban Giám đốc NHNN chi nhánh TP.HCM xác định là nhiệm vụ trọng tâm, xuyên suốt. Chi nhánh đã quán triệt, phổ biến kịp thời các văn bản liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng và tội phạm trong lĩnh vực ngân hàng, như Luật Phòng chống tham nhũng số 55/QH11 ngày 29/11/2005, Quyết định số 973/QĐ-NHNN ngày 19/5/2006, Quyết định số 17/2007/ QĐ-NHNN ngày 20/4/2007 của Thống đốc NHNN, các quy định về tiêu chuẩn, đạo đức, lối sống của cán bộ, viên chức ngành Ngân hàng; thành lập Ban Chỉ đạo phòng, chống tham nhũng, tập trung chính vào việc chống tham ô, hối lộ, nhũng nhiễu, cố ý làm trái pháp luật, đồng thời đấu tranh phòng chống Thực trạng giám sát . . . 8Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät tội phạm trong hoạt động ngân hàng. Củng cố, kiện toàn lại Ban chỉ đạo Phòng chống tham nhũng NHNN chi nhánh TP.HCM; xây dựng quy chế hoạt động của Ban, triển khai thực hiện chương trình, kế hoạch của Trung ương về công tác phòng chống tham nhũng và phòng chống tội phạm tại chi nhánh; chỉ đạo việc theo dõi tiến độ, tổng hợp tình hình, tổ chức kiểm tra giám sát, đánh giá kết quả công tác và định kỳ báo cáo Ban chỉ đạo Trung ương kết quả thực hiện chương trình, kế hoạch đã đề ra. Bảng 4. Kết quả giải quyết đơn thư qua các năm Năm 2008 2009 2010 2011 2012 1. Tổng số đơn thư nhận được trong năm 47 59 58 81 119 Trong đó: - Đơn thư khiếu nại 24 20 20 20 07 - Đơn tố cáo 12 07 14 19 30 - Đơn thư khác (phản ánh, kiến nghị) 11 32 24 12 82 2. Tổng số đơn thư thuộc thẩm quyền xử lý 0 01 0 02 02 3. Tổng số đơn thư còn tồn đọng 0 0 0 0 0 4. Tổng số lượt tiếp công dân trong năm 16 14 11 08 07 Nguồn: Ngân hàng Nhà nước chi nhánh Tp. Hồ Chí Minh + Về công tác cán bộ, phối kết hợp và công tác khác Trong điều kiện số lượng cán bộ làm công tác thanh tra còn thiếu, TTGSNH chi nhánh TP. HCM chú trọng đến công tác bồi dưỡng, đào tạo, cử cán bộ tham dự đầy đủ các khóa học; bố trí nhân sự tham gia các tổ công tác, phối hợp chặt chẽ với các Phòng, bộ phận khác thuộc Chi nhánh thực hiện tốt công tác chuyên môn. - Tham mưu cho Ban Giám đốc xem xét trình Thống đốc NHNN chấp thuận cho các ngân hàng TMCP sửa đổi Điều lệ, bổ sung nội dung vào giấy phép kinh doanh, mở rộng các nghiệp vụ khác như: thanh toán quốc tế, bao thanh toán - Trên cơ sở đề nghị của các ngân hàng, TTGSNH Chi nhánh đã xem xét thẩm định hồ sơ để tham mưu cho Ban Giám đốc trình Thống đốc NHNN cho phép một số ngân hàng được thực hiện nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ nội địa và quốc tế, dần dần mở rộng loại hình dịch vụ này. - Thường xuyên theo dõi và cập nhật thông tin liên quan đến việc niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán của Sacombank, ACB, Eximbank, Navibank. Ngoài ra Phòng cũng đã tham mưu Ban giám đốc việc thành lập các công ty trực thuộc của các TCTD như: công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản - Xếp loại các TCTD cổ phần trên địa bàn theo Quyết định số 06/2008/QĐ-NHNN ngày 12/3/2008 của Thống đốc NHNN. - Tham mưu cho UBND TP.HCM đối với các văn bản chỉ đạo, triển khai công tác quản lý có liên quan đến hoạt động Ngân hàng, ... TCTD nên chưa xác định đúng tính chất, mức độ rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động của của TCTD. Thanh tra, giám sát ngân hàng không có quyền thực hiện thanh tra giám sát các công ty con, công ty liên kết của TCTD hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, bảo hiểm nên thời gian qua việc thanh tra theo pháp nhân chưa đánh giá chính xác thực trạng toàn bộ hoạt động kinh doanh của TCTD. Còn có sự khác biệt giữa các tiêu chuẩn an toàn hoạt động của Việt Nam so với tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế. Hiện nay, giữa hệ thống kế toán các TCTD của Việt Nam và các chuẩn mực và thông lệ quốc tế chưa có sự phù hợp. Vì vậy, những đánh giá của thanh tra viên về một TCTD trên các khía cạnh vốn, dự phòng, tỷ lệ an toàn, thu chi tiền mặt còn có sự khác biệt so với những đánh giá dựa trên chuẩn mực quốc tế, gây nên sự khó khăn trong việc áp dụng các chỉ tiêu an toàn hoạt động tài chính đối với TCTD, khi giám sát các tổ chức tài chính nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và khi kiểm tra việc tuân thủ các chỉ tiêu an toàn trong quá trình thanh tra tại chỗ (vì các hoạt động an toàn về tài chính của các tổ chức này phải tuân thủ theo quy định của các ngân hàng mẹ). Các quy định về kế toán hiện hành còn nhiều bất cập tạo điều kiện để các doanh nghiệp và ngân hàng thực hiện che dấu bản chất kinh tế của các giao dịch mang tính cạnh tranh không lành mạnh. Hoạt động giám sát của NHNN đối với các TCTD chưa được hoàn thiện. Hoạt động giám sát vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu trong 25 nguyên tắc giám sát của Basel (các nguyên tắc này hiện nay vẫn đang được coi là tiêu chuẩn đánh giá hoạt động giám sát ngân hàng của các quốc gia). Các quy định về đảm bảo an toàn, về phân loại nợ hiện hành liên quan đến hoạt động giám sát TCTD còn nhiều hạn chế. NHNN chưa chuẩn hóa nội dung hướng dẫn cho các TCTD trong công tác giám sát và quản trị rủi ro trong nội bộ ngân hàng. Phương thức giám sát từ xa chưa thành công cụ hữu hiệu giúp thanh tra, giám sát ngân hàng trong việc cảnh báo sớm, nhận diện, đo lường và xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Nội dung giám sát chưa đầy đủ và toàn diện, chưa đề cập đến hoạt động quản trị rủi ro trong nội bộ các ngân hàng cũng như việc đánh giá chiến lược quản trị rủi ro của các ngân hàng, các nội dung giám sát chưa được tổng hợp và đánh giá tổng thể đối với toàn hệ thống ngân hàng. Phương pháp giám sát chưa rõ ràng là giám sát dựa trên rủi ro hay giám sát theo CAMELS, gây hạn chế đối với việc xác định nội dung giám sát, vì nội dung giám sát cần được xây dựng phù hợp với phương pháp giám sát. Quy trình giám sát chưa thống nhất, chưa tạo được sự phối hợp giữa công tác giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ mà các bước trong quy trình vẫn chỉ chú trọng đến hoạt động thanh tra tại chỗ và cụ thể với các TCTD. Cơ chế phối hợp, sử dụng kết quả thanh tra tại chỗ và giám sát từ xa chưa đồng bộ vừa gây lãng phí nguồn nhân lực vừa giảm tính hiệu quả trong thanh tra, giám sát. Tần suất thanh tra tại chỗ đối với một TCTD còn thấp dẫn đến việc phát hiện vi phạm, cảnh báo rủi ro không được kịp thời. Điều này cũng làm cho các TCTD không chú trọng đến việc duy trì việc chấn chỉnh không để tái phạm những sai phạm sau thanh tra, khi Thực trạng giám sát . . . 12 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät đã hoàn tất việc chỉnh sửa theo yêu cầu của kiến nghị đã nêu tại kết luận thanh tra. Nội dung thanh tra còn dàn trải, chưa chú trọng vào những nội dung cần chuyên sâu dẫn đến chất lượng thanh tra bị hạn chế do phải chia sẻ về nhân lực và thời gian cho từng nội dung thanh tra. 3.2. Nguyên nhân Những hạn chế trong công tác thanh tra, giám sát hiện nay tại NHNN chi nhánh TP.HCM xuất phát từ những nhóm nguyên nhân chủ yếu sau: Thứ nhất, lực lượng cán bộ, công chức chi nhánh vừa chưa đủ về số lượng, chưa tương xứng so với quy mô, số lượng các chi nhánh ngân hàng thương mại dẫn đến khó khăn trong công tác giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, vừa chưa đồng đều về trình độ nghiệp vụ chuyên môn. Thứ hai, việc đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ thanh tra của chi nhánh chưa được tiến hành bài bản, có kế hoạch, chưa chú trọng vào đào tạo chuyên sâu về tin học, ngoại ngữ, kiến thức về pháp luật và nhận biết, đánh giá rủi ro đối với những sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại. Thứ ba, hạ tầng hỗ trợ cho hộ thống thanh tra, giám sát chưa theo kịp với tốc độ phát triển công nghệ thông tin; hệ thống công nghệ thông tin dù đã được nâng cấp, cải tiến nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu công việc. Hơn nữa, một số TCTD trên địa bàn còn chậm trong việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động ngân hàng, triển khai chưa đồng bộ trong hệ thống. Ngoài ra, khi thanh tra tại chỗ, cán bộ thanh tra chưa được tiếp cận truy cập hệ thống mạng nội bộ của đối tượng thanh tra nên khi thanh tra tại chỗ vẫn phải chấp nhận theo số liệu báo cáo của đơn vị. Thứ tư, hệ thống văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng chưa đồng bộ và đầy đủ làm ảnh hưởng đến quá trình xử lý những vấn đề phát sinh trong quá trình thanh tra. Thứ năm, đối với các cuộc thanh tra chuyên đề theo kế hoạch của cơ quan TTGSNH, đối tượng thanh tra báo cáo các mẫu biểu yêu cầu (kèm theo kế hoạch thanh tra) thường chậm so với yêu cầu của đoàn thanh tra, do các chỉ tiêu quy định không phù hợp với các chỉ tiêu sẵn có tại đơn vị, nên các đoàn thanh tra không khai thác được nhiều các thông tin tại các biểu báo cáo. Việc khống chế chỉ tiêu xem hồ sơ tín dụng so với tổng dư nợ quá cao trong khi thời gian thanh tra, báo cáo kết quả thanh tra ngắn cũng tạo áp lực rất lớn đối với các thành viên đoàn thanh tra, ảnh hưởng đến chất lượng thanh tra tại chỗ. Thứ sáu, bản thân các ngân hàng chưa thực hiện hoặc thực hiện chưa nghiêm túc các quy định về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, về chế độ thông tin báo cáo gửi Thanh tra, giám sát chi nhánh; chất lượng kiểm soát nội bộ yếu, chưa đảm đương được nhiệm vụ và có nơi còn bị phụ thuộc vào người điều hành, chưa thực sự phát huy tác dụng. Từ đó, việc cảnh báo, phát hiện, xử lý, khắc phục vi phạm chậm và thiếu kiên quyết. Việc điều tra, xử lý các vụ tham nhũng, phạm tội trong ngành Ngân hàng còn chậm trễ, hình phạt còn nhẹ chưa tương xứng với thiệt hại mà hành vi phạm tội gây ra, nên còn chưa mang tính giáo dục, răn đe cao. Điều này cũng góp phần làm hạn chế chất lượng thanh tra, giám sát. Ngoài ra, quá trình toàn cầu hóa, tự do hóa và hội nhập quốc tế trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng trong thời gian qua đã tạo ra nhiều cơ hội cho hệ thống ngân hàng. Mở cửa thị trường tài chính làm tăng số lượng các ngân hàng hoạt động tại Việt Nam, bên cạnh 13 việc có cơ hội để được áp dụng những công nghệ, trình độ quản lý hiện đại, dịch vụ ngân hàng đa dạng, các TCTD cũng dễ chịu tác động từ những tác động bên ngoài như khủng hoảng kinh tế, tài chính, chiến tranh... Điều này có thể gây ra các xáo trộn khó kiểm soát được của NHNN về tỉ giá hối đoái, lãi suất, gây ra những rủi ro cho hệ thống ngân hàng. TP. HCM là một trong những trung tâm kinh tế năng động và hiện đại nhất của cả nước, hoạt động ngân hàng cũng vì vậy mà luôn đi tiên phong trong việc mở rộng về số lượng, đa dạng hóa về dịch vụ và mức độ phức tạp, tạo ra một áp lực lớn đối với yêu cầu công tác quản lý, giám sát của NHNN nói chung và thanh tra, giám sát NHNN chi nhánh TP.HCM nói riêng. 4. Khuyến nghị 4.1. Đối với chính phủ Thứ nhất là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế, chính sách về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ và vững chắc cho hệ thống thanh tra, giám sát ngân hàng. - Trong thời gian tới, Chính phủ cần sửa đổi, bổ sung nhằm hoàn thiện văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức, hoạt động của Thanh tra, giám sát ngân hàng. - Xây dựng các luật và các văn bản hướng dẫn có liên quan để tạo tính đồng bộ, nhất quán và hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về tiền tệ và hoạt động ngân hàng, trong đó ưu tiên xây dựng hệ thống văn bản hướng dẫn triển khai Luật NHNN và Luật Các TCTD. - Tiến hành rà soát, bổ sung, chỉnh sửa cơ chế, chính sách và các văn bản phù hợp với lộ trình thực hiện các cam kết quốc tế về lĩnh vực tiền tệ, ngân hàng. Hoàn thiện khuôn khổ pháp luật về giám sát ngân hàng và hạ tầng kỹ thuật phục vụ hoạt động giám sát ngân hàng. Rà soát để sửa đổi, bổ sung với mục đích cuối cùng là đảm bảo tính thống nhất giữa các bộ luật và văn bản pháp luật khác đang có sự chồng chéo, mâu thuẫn và xung đột hiên nay như Bộ Luật Dân sự, pháp luật về giao dịch bảo đảm, Luật Thương mại, Luật Đất đai, Luật Công chứng, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Nhà ở, Luật Hợp tác xã, Luật Doanh nghiệp, tạo khuôn khổ pháp lý đồng bộ cho hoạt động của thị trường tiền tệ - ngân hàng và công tác quản lý, giám sát, xử lý của TTGSNH. - Xây dựng Luật Giám sát ngân hàng để giảm bớt xung đột về mặt pháp lý cho Cơ quan TTGSNH có đủ quyền lực cần thiết trong quá trình phục vụ giám sát an toàn hệ thống ngân hàng và việc chấp hành các quy định của pháp luật trong hoạt động của các TCTD. Thứ hai, xây dựng cơ chế phối hợp giữa TTGSNH với các cơ quan, tổ chức có liên quan trong trao đổi, cung cấp thông tin liên quan trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. - Chính phủ cần sớm thiết lập một cơ chế trao đổi thông tin và phối hợp hoạt động hiệu quả giữa các bộ, cơ quan có liên quan như Thanh tra Chính phủ, Thanh tra Tài chính, Ủy ban Giám sát tài chính Quốc gia, cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát nhân dân, quy định về trách nhiệm của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam. Cơ chế phối hợp một mặt giúp tránh sự chồng chéo về công việc giữa các cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng, mặt khác đảm bảo tốt hơn trong việc cung cấp kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. 4.2. Đối với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Thứ nhất, ban hành và hoàn thiện các quy Thực trạng giám sát . . . 14 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät chế an toàn và quy định trong hoạt động ngân hàng. Thứ hai, thực hiện đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành hoạt động của TTGSNH. Việc đổi mới mô hình tổ chức bộ máy và cơ chế điều hành hoạt động của TTGSNH cần hướng đến việc thực hiện được cơ chế chỉ đạo, điều hành hoạt động quản lý, thanh tra, giám sát ngân hàng nhất quán, thống nhất từ Trung ương đến địa phương, đảm bảo tính độc lập về tổ chức và hoạt động, phù hợp với việc thực hiện thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro và hợp nhất, phù hợp với thông lệ và chuẩn mực quốc tế về thanh tra, giám sát ngân hàng. Thứ ba, hoàn thiện hệ thống hạ tầng cơ sở hỗ trợ cho công tác thanh tra, giám sát ngân hàng. - NHNN cần tiếp tục đẩy mạnh nâng cao hơn nữa vai trò và năng lực hoạt động của Trung tâm Thông tin Tín dụng . - Chú trọng hiện đại hóa hệ thống công nghệ thông tin, chế độ báo cáo, thống kê tại các TCTD. - Hệ thống kế toán ngân hàng hiện hành cần được cải cách theo các chuẩn mực kế toán quốc tế. - Hoàn thiện mô hình, tổ chức và nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm tra, kiểm toán nội bộ của TCTD. - Nâng cao năng lực quản trị, giám sát rủi ro tại các TCTD như xây dựng và hoàn thiện chiến lược chính sách quản trị rủi ro đúng đắn; tái cơ cấu bộ máy tổ chức quản trị rủi ro; xây dựng chuẩn hóa và văn bản hóa toàn bộ quy trình tác nghiệp thực hiện các dịch vụ ngân hàng chủ yếu của NHTM; nâng cao chất lượng các công cụ đo lường rủi ro và tiếp tục áp dụng các công cụ đo lường rủi ro mới và phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ quốc tế; thực hiện minh bạch và công khai hóa thông tin. Thứ tư, tăng cường hợp tác quốc tế trong hoạt động giám sát ngân hàng và trao đổi, hợp tác giữa thanh tra ngân hàng với các cơ quan giám sát tài chính trong nước và quốc tế. 4.3. Đối với Cơ quan TTGSNH chi nhánh TP.HCM Thứ nhất, nhanh chóng kiện toàn và phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra Để nâng cao chất lượng và hiệu quả của TTGSNH, việc phát triển đội ngũ cán bộ thanh tra, giám sát đủ về số lượng và có trình độ nghiệp vụ cao, có phẩm chất đạo đức tốt, được trang bị đầy đủ kiến thức về pháp luật, quản lý và các công cụ thực thi nhiệm vụ là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu. Đây chính là nhân tố quyết định tạo ra sự chuyển biến có tính đột phá trong ngắn hạn và đảm bảo phát triển bền vững trong dài hạn của hệ thống TTGSNH. Thứ hai, cải tiến và nâng cao hiệu quả công tác giám sát từ xa - Những báo cáo và phân tích của giám sát từ xa giúp cho thanh tra tại chỗ tập trung vào các lĩnh vực đang có vấn đề cần được quan tâm xem xét, tránh bị dàn trải, góp phần cảnh báo sớm những rủi ro có thể xảy ra đối với từng TCTD và từ đó ảnh hưởng đến toàn hệ thống ngân hàng. - Hoạt động của thanh tra, giám sát ngân hàng theo xu hướng hội nhập sẽ đổi mới theo hướng lấy thanh tra theo phương thức giám sát từ xa làm trọng tâm, chuyển dần từ thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro. - Để từng bước nâng cao hiệu quả hoạt động thanh tra giám sát từ xa thì thanh tra ngân hàng cần chủ động phối hợp với cơ quan chuyên môn về tin học ngân hàng (Cục Công nghệ - tin học ngân hàng). 15 - Cơ quan TTGSNH từng bước xây dựng và phát triển kho thông tin dữ liệu, cập nhật tình hình hoạt động thanh tra, giám sát tại chỗ, giám sát từ xa, kết quả kiểm toán độc lập, thông tin báo cáo từ hoạt động kiểm tra, kiểm soát nội bộ của TCTD. Ngoài ra, cần có sự phối hợp giữa bộ phận giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ trong việc xây dựng các sản phẩm giám sát Thứ ba, hoàn thiện quy trình tiến hành một cuộc thanh tra - Hoàn thiện việc xây dựng, triển khai thực hiện kế hoạch, đề cương thanh tra trong giai đoạn chuẩn bị thanh tra. - Hoàn thiện khâu nhận định, đánh giá tồn tại sai phạm phát hiện trong giai đoạn tiến hành thanh tra trực tiếp. - Đảm bảo kết luận thanh tra có chất lượng, hiệu quả trong giai đoạn kết thúc thanh tra. - Chú trọng công tác theo dõi việc chỉnh sửa theo kết luận, quyết định xử lý sau thanh tra, giám sát. Thứ tư, hoàn thiện phương pháp thanh tra theo hướng chuyển dần từ phương pháp thanh tra tuân thủ sang thanh tra trên cơ sở rủi ro đối với từng TCTD và toàn bộ hệ thống ngân hàng Thứ năm, nâng cao hiệu quả thu thập thông tin liên quan đến hoạt động ngân hàng phục vụ thanh tra. Tăng cường phối hợp với các đơn vị, cơ quan chức năng có liên quan trong việc trao đổi, cung cấp thông tin có liên quan trong quá trình thanh tra, giám sát ngân hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Học viện ngân hàng (2010), Lựa chọn mô hình và giải pháp đảm bảo hiệu quả giám sát của hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, NXB Giao thông vận tải, năm 2010. [2]. Học viện ngân hàng (2009), Hội nhập tài chính quốc tế và những vấn đề đặt ra cho hệ thống giám sát tài chính Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, NXB Thống kê, năm 2009. [3]. Ngân hàng Nhà nước, Báo cáo hoạt động thanh tra giám sát các tổ chức tín dụng. Thực trạng giám sát . . .
File đính kèm:
- thuc_trang_giam_sat_ngan_hang_doi_voi_cac_to_chuc_tin_dung_t.pdf