Thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường hiện nay

Bài báo đề cập thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học

đường (TVHĐ) phân tích trên bình diện số lượng. Kết quả nghiên cứu cho

thấy số lượng người làm công tác TVHĐ/trường tăng không đồng đều trong

5 năm gần đây và số lượng còn hạn chế; phần lớn các trường phổ thông hiện

nay đã có phòng dành cho công tác TVHĐ nhưng chủ yếu là phòng không

chuyên, sử dụng các phòng chức năng khác để thay thế; số lượng người làm

công tác TVHĐ/trường phân bố không đồng đều theo bậc học và điểm đáng

lưu ý ở bậc mầm non và tiểu học số lượng đạt dưới mức tỷ lệ 1; và số lượng

người làm công tác TVHĐ chủ yếu là kiêm nhiệm.

pdf 9 trang kimcuc 5020
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường hiện nay

Thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường hiện nay
 Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm, Đại học Huế 
ISSN 1859-1612, Số 01(49)/2019: tr. 145-153 
Ngày nhận bài: 18/12/2018; Hoàn thành phản biện: 26/3/2019; Ngày nhận đăng: 28/3/2019 
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ 
LÀM CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY 
HUỲNH VĂN SƠN, NGUYỄN THỊ TỨ 
NGUYỄN THỊ DIỄM MY, ĐẶNG HOÀNG AN 
Trường Đại học Sư phạm TP Hồ Chí Minh 
Tóm tắt: Bài báo đề cập thực trạng đội ngũ làm công tác tham vấn học 
đường (TVHĐ) phân tích trên bình diện số lượng. Kết quả nghiên cứu cho 
thấy số lượng người làm công tác TVHĐ/trường tăng không đồng đều trong 
5 năm gần đây và số lượng còn hạn chế; phần lớn các trường phổ thông hiện 
nay đã có phòng dành cho công tác TVHĐ nhưng chủ yếu là phòng không 
chuyên, sử dụng các phòng chức năng khác để thay thế; số lượng người làm 
công tác TVHĐ/trường phân bố không đồng đều theo bậc học và điểm đáng 
lưu ý ở bậc mầm non và tiểu học số lượng đạt dưới mức tỷ lệ 1; và số lượng 
người làm công tác TVHĐ chủ yếu là kiêm nhiệm. 
Từ khóa: Đội ngũ, tham vấn học đường, đội ngũ làm công tác tham vấn học 
đường. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Năm 2005, Bộ Giáo dục và Đào tạo ra thông tư số 2564/BGD&ĐT - HSSV ngày 04 
tháng 4 năm 2005 [1] và sau đó thông tư số 9971/BGD&ĐT-HSSV ngày 28 tháng 5 
năm 2005 [2] với nội dung hướng dẫn việc đưa công tác tham vấn tâm lý và hướng 
nghiệp vào trường học. Đến năm 2008, Sở Giáo dục và Đào tạo thành phố Hồ Chí Minh 
trong công văn tuyển dụng giáo viên, lần đầu tiên có mục tuyển dụng giáo viên chuyên 
ngành , Tâm lý Giáo dục với mục đích cung cấp đội ngũ chuyên viên TVHĐ cho các 
trường phổ thông trung học. Đây được coi như một “dấu mốc” đánh dấu đưa TVHĐ trở 
thành một ngành nghề thực sự. 
Đội ngũ làm công tác TVHĐ chính là lực lượng trực tiếp thực hiện hoạt động tham vấn 
tâm lý ở trường học. Đội ngũ làm công tác TVHĐ sẽ giải quyết hiệu quả những khó 
khăn trong đời sống tâm lý của học sinh (HS), phòng ngừa kịp thời những tác động tiêu 
cực có thể gây bất ổn, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống và học tập của trẻ. Có thể 
thấy, đội ngũ này có sự ảnh hưởng nhất định đến chất lượng giáo dục của nhà trường. 
Do đó, việc phát triển đội ngũ làm công tác TVHĐ vừa là mục tiêu, vừa là động lực 
phát triển hoạt động tham vấn tâm lý ở trường học thuộc khu vực phía Nam nói riêng và 
cả nước nói chung. 
Sự phát triển với tốc độ nhanh và đầy biến động của nền kinh tế - xã hội, các yêu cầu 
ngày càng cao của nhà trường và cả những điều bất cập trong thực tiễn giáo dục; thêm 
vào đó là sự kỳ vọng quá cao của cha mẹ, thầy cô đang tạo ra những áp lực lớn và gây 
căng thẳng cho HS trong cuộc sống cũng như trong học tập và quá trình phát triển. 
Trong lúc đó, sự hiểu biết của HS về bản thân mình cũng như kỹ năng sống của các em 
146 HUỲNH VĂN SƠN và cs. 
vẫn còn hạn chế. Những hệ luỹ có thể dẫn đến ở HS là những rối loạn về phát triển tâm 
lý, những rối loạn về cảm xúc như lo âu, trầm cảm hay những rối loạn về hành vi (như 
vô kỷ luật, bỏ học, trốn học, trộm cắp, hung bạo). Thực tế cho thấy HS gặp không ít 
khó khăn trong học tập, tu dưỡng đạo đức, xây dựng lý tưởng sống cho mình cũng như 
xác định cách thức ứng xử cho phù hợp trong các mối quan hệ xung quanh. Những HS 
này rất cần được sự trợ giúp của các nhà chuyên môn, của thầy cô giáo và cha mẹ. 
Việc nghiên cứu thực trạng đội ngũ làm công tác TVHĐ là một vấn đề thiết thực, góp 
phần tạo nên cái nhìn thực tế hơn về số lượng người làm công tác TVHĐ/trường hiện 
nay và phòng dành chuyên cho TVHĐ ở các trường phổ thông đã được đảm bảo hay 
không. Đây chính là cơ sở đề ra các biện pháp phát triển đội ngũ làm công tác TVHĐ 
hiện nay 
2. KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
2.1. Khách thể nghiên cứu 
Mẫu khảo sát của đề tài gồm 320 khách thể, bao gồm 102 cán bộ quan lý (CBQL) và 
218 người làm công tác TVHĐ ở các tỉnh thành khu vực phía Nam. Khách thể nghiên 
cứu được lựa chọn theo các tiêu chí về Tỉnh/Thành phố, vị trí đang công tác, thâm niên 
công tác, công tác ở bậc học, giới tính. Thông tin cụ thể về khách thể nghiên cứu được 
thể hiện chi tiết ở bảng 1. 
Bảng 1. Vài nét về khách thể nghiên cứu 
Nhóm khách 
thể 
Đặc điểm Tần số 
Tỷ lệ 
phần trăm (%) 
CBQL 
Tỉnh/Thành phố 
TP.HCM 37 36,3 
Long An 23 22,5 
Cà Mau 12 11,8 
Bình Dương 15 14,7 
Đồng Nai 15 14,7 
Giới tính 
Nam 58 56,9 
Nữ 44 43,1 
Vị trí đảm nhận 
Hiệu trưởng 51 50,0 
Phó hiệu trưởng 51 50,0 
Thâm niên 
công tác 
Dưới 10 năm 76 74,5 
Từ 11 -15 năm 26 25,5 
Trình độ 
Cử nhân 80 78,4 
Thạc sĩ 22 21,6 
Đội ngũ làm 
công tác 
TVHĐ 
Tỉnh/Thành phố 
TP.HCM 72 33,0 
Long An 44 20,2 
Cà Mau 22 10,1 
Bình Dương 39 17,9 
Đồng Nai 41 18,8 
Giới tính 
Nam 51 23,4 
Nữ 167 76,6 
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ LÀM CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY 147 
Trình độ 
Cử nhân 196 89,9 
Thạc sĩ 18 8,30 
Khác 4 1,80 
Công tác bậc học 
Mầm non 17 7,80 
Tiểu học 43 19,7 
THCS 72 33,0 
THPT 86 39,4 
Chuyên ngành 
được đào tạo 
Ngữ văn 30 13,8 
Tâm lý giáo dục 43 19,7 
Vật lý 23 10,6 
GDTH 23 10,6 
QLGD 22 10,1 
Khác 77 35,2 
- Nhóm khách thể CBQL: 
+ Tiêu chí về Tỉnh/Thành phố: nghiên cứu 5 Tỉnh/Thành phố ở khu vực phía Nam, trong 
đó có 37/102 CBQL tại TP.HCM (chiếm 36,3%), Long An có 23 khách thể (chiếm 
22,5%), Cà Mau có 12 khách thể (chiếm 11,8%), Bình Dương và Đồng Nai mỗi nơi có 
15 khách thể (chiếm 14,7%). 
+ Tiêu chí về giới tính: nghiên cứu CBQL nam và nữ, trong đó CBQL nam có 58/102 
(chiếm 56,9%) và nữ 44/102 (chiếm 43,1%). 
+ Tiêu chí về vị trí đảm nhận: khảo sát các CBQL trường học, trong đó hiệu trưởng có 
51/102 (chiếm 50%) và Phó hiệu trưởng có 51/102 (chiếm 50%). 
+ Tiêu chí về trình độ: khảo sát ở tất cả trình độ, trong đó cử nhân có 80/102 CBQL (chiếm 
78,4%) và Thạc sĩ 22/102 (chiếm 21,6%). 
+ Tiêu chí về thâm niên công tác: khảo sát các mốc thâm niên khác nhau, trong đó thâm 
niên công tác dưới 10 năm có 76/102 CBQL (chiếm 74,5%), từ 11 - 15 năm có 26/102 
(chiếm 25,5%). 
- Nhóm khách thể đội ngũ làm công tác TVHĐ: 
+ Tiêu chí về Tỉnh/Thành phố: cũng nghiên cứu 5 Tỉnh/Thành phố ở khu vực phía Nam, 
trong đó TP.HCM có 72/218 (chiếm 33,0%), Long An có 44/218 (chiếm 20,2%), Cà 
Mau 22/218 (chiếm 10,1%), Bình Dương 39/218 (chiếm 17,9%), Đồng Nai 41/218 
(chiếm 18,9%). 
+ Tiêu chí về giới tính: nghiên cứu người làm công tác TVHĐ là nam và nữ, trong đó 
nam có 51/218 (chiếm 23,4%) và nữ có 167/218 (chiếm 76,6%). 
+ Tiêu chí về chuyên môn chính: khảo sát tất cả các ngành mà đội ngũ làm công TVHĐ 
được đào tạo, trong đó Ngữ văn có 30/218 (chiếm 13,8%), Tâm lý giáo dục có 43/218 
(chiếm 19,7%), Vật lý có 23/218 (chiếm 10,6%), GDTH 23/218 (chiếm 10,6%), QLGD 
có 22/218 (chiếm 10,1%) và chuyên môn khác có 77/218 (chiếm 35,2%). 
148 HUỲNH VĂN SƠN và cs. 
+ Tiêu chí về trình độ: khảo sát ở tất cả trình độ, trong đó cử nhân có 196/218 (chiếm 
89,9%), thạc sĩ có 18/218 (chiếm 8,3%) và trình độ khác có 4/218 (chiếm 1,8%). 
+ Tiêu chí về bậc học đang công tác: nghiên cứu ở tất cả các bậc từ mầm non đến THPT, 
trong đó Mầm non có 17/218 (chiếm 7,8%), Tiểu học có 43/218 (chiếm 19,7%), THCS 
72/218 (chiếm 33,0%), THPT 86/218 (chiếm 39,4%). 
Với những thông tin nói trên từ hai nhóm khách thể có thể thấy mẫu nghiên cứu khá đa 
dạng và sự phân tán về Tỉnh/Thành phố, giới tính, vị trí đảm nhận, trình độ, thâm niên 
công tác một cách khá phù hợp. Điều này giúp cho quá trình nghiên cứu thu thập các 
thông tin mang tính đại diện và khách quan. 
2.2. Phương pháp nghiên cứu 
Tiến hành thông qua việc phối hợp đồng bộ các phương pháp: phương pháp nghiên cứu 
lý luận, phương pháp nghiên cứu thực tiễn gồm: phương pháp điều tra bằng bảng hỏi, 
phương pháp phỏng vấn và phương pháp toán thống kê trong đó phương pháp điều tra 
bằng bảng hỏi là phương pháp chính. 
Công cụ nghiên cứu là một phiếu thăm dò được thực hiện qua ba giai đoạn: Điều tra thử 
bằng bảng thăm dò mở, thiết kế bảng hỏi, khảo sát chính thức. Công cụ nghiên cứu này 
dựa trên ba nguyên tắc: đảm bảo giá trị về mặt nội dung; đáng tin cậy về mặt thống kê; 
sử dụng các hình thức câu hỏi sao cho phù hợp với nội dung nghiên cứu và phù hợp với 
đặc điểm của khách thể nghiên cứu. 
Bảng hỏi chính thức được cấu trúc gồm 2 phần: phần 1 - Thông tin cá nhân của người 
trả lời và phần 2 - Phần nội dung câu hỏi. Ở phần tìm hiểu về thực trạng đội ngũ làm 
công tác TVHĐ ở khu vực phía Nam phân tích trên bình diện số lượng, chúng tôi tập 
trung các ý hỏi sau: tìm hiểu số lượng người làm công tác TVHĐ/trường trong 5 năm 
gần đây; tìm hiểu thực trạng phòng TVHĐ ở các trường phổ thông; tìm hiểu về chuyên 
môn của số lượng người làm công tác TVHĐ. 
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
3.1. Thực trạng về số lượng đội ngũ làm công tác tham vấn học đường ở khu vực 
phía Nam trên một trường 
Kết quả khảo sát bảng 2 cho thấy số lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực 
phía Nam tăng qua các năm. Phân tích cụ thể cho thấy năm học 2013 - 2014 chỉ có 0,34 
người/trường. Con số này thật sự rất ít và dường như mô hình phòng TVHĐ chỉ mới 
xuất hiện ở vài trường phổ thông. Một năm sau con số này tăng lên 0,54 người/trường 
đến năm 2015 - 2016 là 0,74 người/trường. Rõ ràng có sự tăng đều về số lượng người 
làm công tác TVHĐ ở các trường phổ thông. Cho đến nay thì số lượng người làm công 
tác TVHĐ/trường đạt 1,09 người/trường. Rõ ràng số lượng người làm công tác TVHĐ 
hiện nay đã tăng. Tuy nhiên, nếu xét về số lượng học sinh tại một trường hiện nay thì 
1,09 người làm công tác tham vấn/trường thật sự là một con số quá ít. 
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ LÀM CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY 149 
Bảng 2. Số lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực phía Nam trong 5 năm gần đây 
Năm học Số lượng người làm công tác TVHĐ/trường 
2017 - 2018 1,09 
2016 - 2017 0,95 
2015 - 2016 0,74 
2014 - 2015 0,54 
2013 - 2014 0,34 
Bên cạnh đó, theo khảo sát thì có không ít trường không có người phụ trách công tác 
tham vấn tâm lý cho học sinh. Kết quả này phản ánh thực tế không đồng đều về số 
lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực phía Nam. Cô T.T.T.N cho biết: 
“Ngay từ khi Sở Giáo dục và Đào tạo có hướng dẫn về việc đưa công tác tham vấn tâm 
lý và hướng nghiệp vào trường học, ban giám hiệu đồng nhận thấy công tác tham vấn 
tâm lý cho học sinh đóng vai trò hết sức quan trọng góp phần vào hiệu quả giáo dục 
của nhà trường nên đã triển khai quy hoạch người phụ trách công tác này. Và cho đến 
hiện nay trường tôi có 2 giáo viên phụ trách việc tham vấn tâm lý cho học sinh”. Thầy 
M.T.T cho biết thêm: “Mô hình phòng tham vấn học đường đơn vị tôi mới được triển 
cách đây ba năm và hiện có 1 giáo viên phụ trách công tác này”. Kết quả phỏng vấn 
một lần nữa cho thấy số lượng người làm công tác TVHĐ/trường giữa các trường hiện 
nay chưa có sự đồng nhất về số lượng và có sự chênh lệch đáng kể. Nói khác đi, mỗi 
trường vẫn đang trang bị số lượng người làm công tác TVHĐ theo khả năng và điều 
kiện cho phép chứ chưa dựa trên một quy định cụ thể. 
3.2. Thực trạng về phòng tham vấn tâm lý ở trường học tại khu vực phía Nam 
Bảng 3. Thực trạng về phòng tham vấn tâm lý ở trường học tại khu vực phía Nam 
Ý kiến 
CBQL 
Đội ngũ làm 
công tác TVHĐ 
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % 
1. Không có phòng dành cho hoạt động TVHĐ 24 23,5 61 28,0 
2. Có phòng chuyên, dành riêng cho người làm 
TVHĐ và chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất 
là TVHĐ 
31 30,4 78 35,8 
3. Có phòng nhưng không chuyên, sử dụng các 
phòng chức năng khác để thay thế 
47 46,1 79 36,2 
Tổng cộng 102 100 218 100 
Kết quả thống kê từ bảng 3 về thực trạng phòng tham vấn tâm lý ở trường học tại khu 
vực phía Nam cho thấy ở nhóm khách thể CBQL, ý kiến được đánh giá chiếm tỷ lệ cao 
nhất là “có phòng nhưng không chuyên, sử dụng các phòng chức năng khác để thay thế” 
với có 47/102 CBQL chiếm 46,1% (gần ½ mẫu), kế đến là “có phòng chuyên, dành 
riêng cho người làm TVHĐ và chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là TVHĐ” với 
31/102 CBQL lựa chọn chiếm 30,4%. Kết quả này cho phép kết luận các trường phổ 
thông ở khu vực phía Nam hiện nay về cơ bản có phòng để thực hiện công tác tham vấn 
150 HUỲNH VĂN SƠN và cs. 
tâm lý cho học sinh. Tỷ lệ này chiếm 76,5%, chiếm khoảng hơn ¾ các trường phổ thông 
ở khu vực phía Nam. 
Kết quả từ nhóm khách thể đội ngũ làm công tác TVHĐ cũng cho thấy có sự đánh giá 
tương tự, cụ thể là có phòng để thực hiện công tác TVHĐ với tỷ lệ 72,0% (“có phòng 
nhưng không chuyên, sử dụng các phòng chức năng khác để thay thế” chiếm 36,2%, 
“Có phòng chuyên, dành riêng cho người làm TVHĐ và chỉ thực hiện một nhiệm vụ 
duy nhất là TVHĐ” chiếm 35,8%). Tỷ lệ đánh giá “không có phòng dành cho hoạt động 
TVHĐ” ở CBQL và người làm công tác TVHĐ lần lượt là 23,5% và 28,0%. Rõ ràng sự 
chênh lệch này là không lớn giữa hai nhóm khách thể khi cùng đánh giá về thực trạng 
phòng tham vấn tâm lý ở trường học. 
Kết quả khảo sát trên cũng khá tương đồng với một số ý kiến thu được từ kết quả phỏng 
vấn, Thầy N.H.V cho biết: “Kỳ thực mà nói trường chúng tôi hiện nay vẫn chưa có 
phòng chuyên dành cho tham vấn học đường mà chỉ sử dụng một phần của phòng họp 
hội đồng làm phòng tham vấn. Vì tính chất đặc thù của công tác tham vấn tâm lý cho 
học sinh, chúng tôi đang cố gắng xây dựng phòng chuyên dành riêng cho người làm 
TVHĐ và chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là TVHĐ”. 
Tóm lại, phần lớn các trường phổ thông ở khu vực phía Nam hiện nay cơ bản có phòng 
dành cho công tác TVHĐ. Tuy nhiên, với tỷ lệ phòng TVHĐ không chuyên và thậm chí 
là không có phòng để làm TVHĐ thì đây là một trở ngại rất lớn trong công tác quản lý 
đội ngũ người làm công tác TVHĐ. Với các nhu cầu đặc biệt của học sinh, các nhà tham 
vấn cần có một không gian hợp lý để có thể hỗ trợ tốt nhất. Trước thực trạng này, mỗi 
trường phổ thông ở khu vực phía Nam cần thiết phải có một phòng TVHĐ. Thêm vào 
đó, phòng TVHĐ phải được đầu tư cũng như phát huy được hết vai trò và thế mạnh của 
mình để đội ngũ làm công tác TVHĐ thực hiện tốt nhiệm vụ tham vấn tâm lý cho học 
sinh. 
3.3. Thực trạng về số lượng người làm công tác tham vấn học đường/trường ở khu 
vực phía Nam phân tích trên bậc học 
Kết quả thống kê bảng 4 cho thấy số lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực 
phía Nam phân bố không đồng đều theo bậc học. Chiếm tỷ lệ cao nhất thuộc về bậc 
“THCS” với 1,26 người/trường, với tỷ lệ chênh lệch không đáng kể là bậc “THPT” với 
1,17 người/trường. Đây là tín hiệu tương đối tốt, cho thấy các trường THCS, THPT ở 
khu vực phía Nam về cơ bản đã có người phụ trách công tác này. Tuy nhiên, ở hai bậc 
học còn lại thì số lượng người làm công tác TVHĐ/trường dưới mức tỷ lệ 1,0 (bậc “tiểu 
học” với tỷ lệ 0,88, bậc “mầm non” với tỷ lệ 0,64). 
Bảng 4. Số lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực phía Nam phân tích trên bậc học 
Bậc học Số lượng người làm công tác TVHĐ/trường 
Mầm non 0,64 
Tiểu học 0,88 
THCS 1,26 
THPT 1,17 
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ LÀM CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY 151 
Như vậy các trường mầm non và tiểu học ở khu vực phía Nam hiện nay vẫn còn một số 
lượng tương đối các trường vẫn chưa có người làm công tác TVHĐ. Một vấn đề được 
đặt ra: Khi trẻ mầm non và học sinh tiểu học có vấn đề tâm lý mà không được hỗ trợ, 
giúp đỡ thì những hệ lụy của việc gánh chịu những thương tổn về tâm sinh lý sẽ như 
thế nào? Việc đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ làm công tác TVHĐ ở khu vực phía 
Nam cần phải lưu tâm đến thực trạng này. 
3.4. Thực trạng về chuyên môn chính của đội ngũ làm công tác tham vấn học 
đường ở khu vực phía Nam 
Kết quả khảo sát bảng 5 về chuyên môn của đội ngũ làm công tác TVHĐ ở khu vực 
phía Nam cho thấy, theo đánh giá của CBQL và đội ngũ làm công tác TVHĐ, đội ngũ 
làm công tác TVHĐ ở khu vực phía Nam phần lớn không chuyên về TVHĐ mà chỉ là 
“kiêm nhiệm” với tỷ lệ xác nhận lần lượt là 70,6% và 60,1% ở nhóm CBQL và đội ngũ 
làm công tác TVHĐ. Bên cạnh đó, có gần 1/3 đến hơn 1/3 giáo viên TVHĐ được đào 
tạo về Tâm lý học, Giáo dục học, Tâm lý giáo dục, Tâm lý học trường học... là đội ngũ 
được xem là có chuyên về TVHĐ. 
Bảng 5. Chuyên môn chính của đội ngũ làm công tác TVHĐ ở khu vực phía Nam 
Chuyên môn chính 
CBQL Đội ngũ làm công tác TVHĐ 
Tần số Tỷ lệ % Tần số Tỷ lệ % 
Chuyên về TVHĐ 30 29,4 87,0 39,9 
Kiêm nhiệm 72 70,6 131,0 60,1 
Tổng cộng 102 100 218 100 
Phân tích chi tiết về số lượng đội ngũ kiêm nhiệm làm công tác TVHĐ ở khu vực phía 
Nam hiện nay cho thấy có 30/131 GV Ngữ văn phụ trách công tác tham vấn tâm lý cho 
học sinh chiếm 22,9%, đội ngũ kiêm nhiệm kế đến là GV Giáo dục công dân với 25/131 
chiếm 19,1%, GV Giáo dục tiểu học và GV Vật lý cùng chiếm 17,6% với 23/131, có 
22/131 GV có chuyên ngành QLGD chiếm 16,8% và 6,1% còn lại là những chuyên 
ngành khác. Như vậy, số lượng giáo viên kiêm nhiệm làm công tác TVHĐ chiếm gần 
2/3 mẫu, con số này không hề nhỏ. Đội ngũ làm công tác TVHĐ đa phần chưa chuyên 
sâu vì họ được đào tạo từ những chuyên môn khác, nên khi chuyển sang làm TVHĐ sẽ 
gặp phải không ít những khó khăn. Các chương trình bồi dưỡng, đào tạo về TVHĐ cần 
quan tâm đến vấn đề này. 
Không dừng lại ở đó, thực trạng trên còn phản ánh sự thiếu nhân lực trong công tác 
TVHĐ. Chính vì thiếu nhân lực nên giáo viên không chuyên phải kiêm nhiệm vai trò 
của một người làm công tác TVHĐ. Thực tế này tất yếu cần đảm bảo phát triển đội 
ngũ làm công tác TVHĐ cho khu vực phía Nam và phát triển đội ngũ TVHĐ cho cả 
nước trong tình hình hiện nay. 
Một GV kiêm nhiệm công tác TVHĐ tại trường tiểu học V.T.T cho biết: “Công tác TVHĐ 
đóng vai trò rất quan trọng. Chính vì lẽ đó, Ban giám hiệu nhà trường đã sớm triển khai và 
đưa vào hoạt động. Theo sự tín nhiệm và quy hoạch từ ban giám hiệu nhà trường, tôi đã 
kiêm nhiệm và phụ trách công tác tham vấn tâm lý cho học sinh cũng đã gần 5 năm”. 
152 HUỲNH VĂN SƠN và cs. 
4. KẾT LUẬN 
Số lượng người làm công tác TVHĐ/trường ở khu vực phía Nam hiện nay cơ bản đã có 
đội ngũ phụ trách nhưng vẫn còn khá hạn chế. Đội ngũ này có sự phân bố không đều theo 
bậc học. Kết quả nghiên cứu cho thấy phần lớn các trường phổ thông hiện nay đã có 
phòng dành cho công tác TVHĐ nhưng chủ yếu là phòng không chuyên, sử dụng các 
phòng chức năng khác để thay thế. Ngoài ra, đội ngũ làm công tác TVHĐ đa phần là giáo 
viên kiêm nhiệm từ các ngành như: Ngữ văn, Giáo dục công dân, Giáo dục tiểu học, Vật 
lý, Quản lý giáo dục và các chuyên ngành khác. Trong khi đội ngũ được đào tạo về Tâm 
lý học, Tâm lý giáo dục chiếm tỷ lệ rất ít, chỉ xấp xỉ 1/4. Vấn đề này đặt ra yêu cầu cần có 
biện pháp phát triển số lượng đội ngũ làm công tác TVHĐ hiện nay và chú trọng đến việc 
đào tạo - bồi dưỡng số lượng giáo viên kiêm nhiệm. Có như vậy thì công tác phát triển 
ngũ làm công tác TVHĐ mới đảm bảo cả về số lượng lẫn chất lượng. 
Bài viết được tài trợ bởi Chương trình Khoa học và Công nghệ cấp quốc gia giai đoạn 2016-
2020 “Nghiên cứu phát triển khoa học giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện nền 
giáo dục Việt Nam”, mã số KHGD/16-20. Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005). Thông tư số 2564/BGD&ĐT-HSSV ngày 04/4/2005 về 
việc tăng cường công tác học sinh sinh viên vào trường học. Hà Nội. 
[2] Bộ Giáo dục và Đào tạo (2005). Công văn số 9971/BGD& ĐT-HSSV ngày 28/10/2005 
về việc triển khai công tác tư vấn cho học sinh, sinh viên. Hà Nội. 
[3] Trần Thị Minh Đức (2009). Giáo trình tham vấn tâm lý, NXB ĐHQG Hà Nội. 
[4] Lê Thị Thu Hà (2013). Thực trạng quản lý hoạt động TVHĐ ở các trường THPT tại 
Quận Bình Tân, TP Hồ Chí Minh, Luận văn Thạc sĩ Tâm lý học, Trường ĐHSP TP Hồ 
Chí Minh. 
[5] Phan Thị Tuyết Hương (2014). Thực trạng quản lý hoạt động TVHĐ trường trung học 
tại TP.HCM, Luận văn Thạc sĩ Giáo dục học, Trường ĐHSP TP.HCM. 
[6] Huỳnh Văn Sơn và Hoàng Văn Cẩn (2013). Phát triển đội ngũ giáo viên đáp ứng nhu 
cầu giáo dục mầm non ở TP.HCM, Đề tài KH&CN cấp Bộ năm 2013, mã số 
B2012.19.08. 
[7] Huỳnh Mai Trang (2007). Thực trạng hoạt động TVHĐ tại các trường trung học ở nội 
thành Thành phố Hồ Chí Minh, Luận văn thạc sĩ Tâm lý học, Trường ĐHSP TP.HCM. 
[8] N. C. Gysbers, P. Henderson (2000). Developing and managing your school guidance 
program (3rd ed.). Alexandria, VA: American Counseling Association. 
[9] S. L. Howell (2007). Professional Development and School Counselors: A Study of 
Utah School Counselor Preferences and Practices, Journal of school counseling, ISSN: 
1554-2998. 
[10] K. S. Kassay (2011). Development of a training program in school psychology in 
Vietnam, St. John's University (New York), ProQuest Dissertations Publishing. 
[11] R. D. Parsons (2005). The School Counselor as Consultant - An Intergrated Model fro 
School-Based Consultation, Thomson. 
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ LÀM CÔNG TÁC THAM VẤN HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY 153 
Title: THE CURRENT SITUATION OF THE SCHOOL COUNSELING STAFF 
Abstract: The article discusses the situation of the staff working in school counseling in the 
South. The results show that the number of school/school counselors in the South has increased 
unevenly in the last five years and the number is limited; Most of the schools now have rooms 
for school counseling but mostly for non-specialized rooms, using other functional rooms 
instead; The number of school/school counselors in the South is unequally distributed by grade 
level and notable for pre-primary and elementary school enrollments below 1; And the number 
of people working in school counseling is mostly part-time. 
Keywords: Staff, school counseling, school counseling staff. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_doi_ngu_lam_cong_tac_tham_van_hoc_duong_hien_nay.pdf