Thực tiễn vận dụng điều XX (hiệp định GATT 1994) vào giải quyết tranh chấp liên quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử và một số đề xuất cho Việt Nam

Dù WTO đề ra nguyên tắc không phân biệt đối xử, nhưng bản thân các hiệp định của WTO cũng

đưa ra ngoại lệ đối với nguyên tắc này, trong đó điển hình là Điều XX của Hiệp định GATT 1994 quy

định về các ngoại lệ chung. Bài viết tập trung làm rõ nội dung của các ngoại lệ chung cũng như thực

tiễn vận dụng chúng vào giải quyết tranh chấp trong WTO (được giới hạn trong các tranh chấp liên

quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử). Sử dụng phương pháp phân tích, bình luận bản án bài

viết đã tổng hợp những án lệ điển hình để từ đó rút ra những điểm quan trọng trong thực tiễn vận

dụng điều XX. Nghiên cứu cho thấy tính phức tạp của việc vận dụng và sự khó khăn trong việc viện

dẫn thành công điều khoản này. Từ đó, bài viết cũng đưa ra những đề xuất đối với Việt Nam trong

quá trình xây dựng chính sách, đàm phán và tranh tụng thương mại quốc tế.

pdf 12 trang kimcuc 22700
Bạn đang xem tài liệu "Thực tiễn vận dụng điều XX (hiệp định GATT 1994) vào giải quyết tranh chấp liên quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử và một số đề xuất cho Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực tiễn vận dụng điều XX (hiệp định GATT 1994) vào giải quyết tranh chấp liên quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử và một số đề xuất cho Việt Nam

Thực tiễn vận dụng điều XX (hiệp định GATT  1994) vào giải quyết tranh chấp liên quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử và một số đề xuất cho Việt Nam
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
22 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
1. Đặt vấn đề
Nhằm tạo ra một môi trường thương mại 
quốc tế không có sự phân biệt đối xử, Tổ chức 
thương mại thế giới (WTO) đề ra hai nguyên 
tắc chính là: tối huệ quốc (“most favoured 
nation” - MFN) và đối xử quốc gia (“national 
treatment” - NT). Điều I và III của Hiệp định 
chung về Thuế quan và Thương mại 1994 
(Hiệp định GATT 1994, sau đây gọi tắt là 
GATT) là hai điều khoản chủ yếu quy định 
về nguyên tắc không phân biệt đối xử trong 
thương mại hàng hóa.
THỰC TIỄN VẬN DỤNG ĐIỀU XX (HIỆP ĐỊNH GATT 1994) 
VÀO GIẢI QUYẾT TRANH CHẤP LIÊN QUAN TỚI NGUYÊN TẮC 
KHÔNG PHÂN BIỆT ĐỐI XỬ VÀ MỘT SỐ ĐỀ XUẤT CHO VIỆT NAM
Đinh Khương Duy* 
Lê Ngọc Khương**
* TS, Trường Đại học Ngoại thương CS2 TP.HCM; Email: hanguyen_ftu@yahoo.com
** CN, Email: phantranthaophuong.ftu@gmail.com
Tóm tắt
Dù WTO đề ra nguyên tắc không phân biệt đối xử, nhưng bản thân các hiệp định của WTO cũng 
đưa ra ngoại lệ đối với nguyên tắc này, trong đó điển hình là Điều XX của Hiệp định GATT 1994 quy 
định về các ngoại lệ chung. Bài viết tập trung làm rõ nội dung của các ngoại lệ chung cũng như thực 
tiễn vận dụng chúng vào giải quyết tranh chấp trong WTO (được giới hạn trong các tranh chấp liên 
quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử). Sử dụng phương pháp phân tích, bình luận bản án bài 
viết đã tổng hợp những án lệ điển hình để từ đó rút ra những điểm quan trọng trong thực tiễn vận 
dụng điều XX. Nghiên cứu cho thấy tính phức tạp của việc vận dụng và sự khó khăn trong việc viện 
dẫn thành công điều khoản này. Từ đó, bài viết cũng đưa ra những đề xuất đối với Việt Nam trong 
quá trình xây dựng chính sách, đàm phán và tranh tụng thương mại quốc tế.
Từ khóa: ngoại lệ chung, giải quyết tranh chấp, phân biệt đối xử, WTO, GATT, chính sách.
Mã số: 163.310715. Ngày nhận bài: 31/07/2015. Ngày hoàn thành biên tập: 12/08/2015. Ngày duyệt đăng: 12/08/2015.
Abstract
Although non-discrimination is a principle raised by the WTO, there exists exceptions to this 
principle in the WTO Agreements, particularly Article XX of GATT 1994 regarding general exceptions. 
This research aims to clarify te content of these general exceptions and the application thereof in 
settling disputes within the WTO (restricted to disputes that relate to the non-discrimination principle). 
Using the method of case law analysis and discussion, the article have synthesized relevant legal 
precedents so as to withdraw the most important features in the application of Article XX. The research 
shows the complexity of the application and the difficulty to justify successfully citing this article. Upon 
such analysis, the research also makes some recommendations for Vietnam in the process of policy 
construction, international trade negotiation and dispute settlement.
Key words: general exception, dispute settlement, discrimination, WTO, GATT, policy.
 Paper No. 163.310715. Date of receipt: 31/07/2015. Date of revision: 12/08/2015. Date of approval: 12/08/2015.
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
23Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
Nguyên tắc MFN yêu cầu các thành viên 
WTO phải đối xử công bằng với các sản phẩm 
tương tự được nhập khẩu từ các nước thành 
viên khác nhau hay các nhà cung cấp dịch vụ 
tương tự từ các nước khác nhau. Nguyên tắc 
NT quy định các thành viên không được đối 
xử với các sản phẩm nhập khẩu kém ưu đãi 
hơn các sản phẩm nội địa khi các sản phẩm 
nhập khẩu này đã được lưu thông trong thị 
trường nội địa. 
Song song với các nguyên tắc này, GATT 
còn đặt ra cho chúng các ngoại lệ. Mục đích 
của các ngoại lệ là nhằm giúp các quốc gia có 
thể biện minh cho các chính sách mà vô tình 
hay cố ý hạn chế thương mại quốc tế để bảo vệ 
các giá trị cốt lõi. GATT quy định về các ngoại 
lệ trong nhiều lĩnh vực, gồm 06 nhóm chính: 
(1) “Các ngoại lệ chung” trong Điều XX của 
GATT; (2) “Các ngoại lệ về an ninh” trong 
Điều XXI của GATT; (3) “Các ngoại lệ về 
biện pháp kinh tế khẩn cấp” trong điều XIX 
của GATT; (4) “Các ngoại lệ về hội nhập khu 
vực” trong Điều XXIV của GATT; (5) “Các 
ngoại lệ về cán cân thanh toán” trong điều 
XII và XVIII:B của GATT; và (6) “Các ngoại 
lệ về phát triển kinh tế” trong điều XVIII:A 
của GATT và “Điều khoản cho phép”1.
Trong phạm vi bài viết này, nhóm tác giả 
chỉ nghiên cứu các ngoại lệ chung - nhóm 
ngoại lệ quan trọng nhất - quy định về một số 
vấn đề liên quan tới các giá trị xã hội như đạo 
đức, sức khỏe cộng đồng hay môi trường, 
được đề cập trong Điều XX của GATT. Cũng 
cần nói rõ rằng, bài viết chỉ tập trung xem xét 
vai trò của các ngoại lệ chung trong các tranh 
chấp liên quan tới nguyên tắc không phân biệt 
đối xử, dù về lý thuyết và trên thực tiễn chúng 
còn được viện dẫn để biện minh cho các biện 
pháp vi phạm các nguyên tắc khác của GATT.
2. Tổng quan về Điều XX của Hiệp định 
GATT 1994
Điều XX của GATT với tiêu đề “Các ngoại 
lệ chung” cho phép bảo vệ một số giá trị phi 
thương mại cốt lõi, trong đó quan trọng nhất 
có thể kể đến như sức khỏe và đời sống con 
người hay động thực vật (khoản XX(b)), đảm 
bảo sự tuân thủ với các quy định không trái với 
luật pháp WTO (khoản XX(d)), các nguồn tài 
nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt (khoản 
XX(g)), đạo đức công cộng (khoản XX(a)) 
hay các giá trị nghệ thuật, lịch sử, khảo cổ 
quốc gia (khoản XX(f))
Cấu trúc của Điều XX bao gồm 2 phần: 
đoạn mở đầu (“chapeau”) và các khoản từ (a) 
đến (j). Khi một biện pháp bị xem là vi phạm 
nguyên tắc không phân biệt đối xử của GATT, 
để biện minh rằng biện pháp này rơi vào các 
trường hợp ngoại lệ chung, nó phải thỏa mãn 
hai điều kiện: (1) biện pháp đó phải thuộc 
phạm vi điều chỉnh của một trong các khoản 
từ (a) đến (j) của Điều XX; (2) biện pháp đó 
phải thỏa mãn các yêu cầu trong đoạn mở đầu 
của Điều XX. Trình tự này rất hợp lý vì bản 
thân biện pháp sẽ được xem xét trước, sau đó 
mới xét đến cách áp dụng nó trong thực tế.
a) Một số khoản quan trọng trong Điều XX
Khoản XX(b): “cần thiết để bảo vệ cuộc 
sống và sức khoẻ của con người, động vật hay 
thực vật”
Ban Hội thẩm trong vụ Mỹ - Các biện pháp 
ảnh hưởng đến nhập khẩu xăng dầu2 đã tuyên 
1 Nhóm quy định liên quan tới các thỏa thuận tự do hóa thương mại hàng hóa giữa các thành viên quốc gia và 
vùng lãnh thổ kinh tế đang phát triển thuộc Quyết định về đối xử khác biệt và ưu đãi hơn, có đi có lại và sự 
tham gia đầy đủ hơn các nước đang phát triển của Hội đồng GATT vào năm 1979 (gọi tắt là Điều khoản Cho 
phép/“Enabling Clause”)
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
24 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
bố rằng một biện pháp không tuân thủ các điều 
khoản của GATT sẽ thuộc phạm vi điều chỉnh 
của khoản (b) nếu: (1) Mục đích của biện pháp 
đó là nhằm bảo vệ cuộc sống hay sức khỏe của 
con người, động vật hoặc thực vật; (2) Biện 
pháp đó là cần thiết để đạt được mục đích trên. 
Với điều kiện (1), các biện pháp thuộc phạm 
vi của khoản (b) nếu nó quy định về sức khỏe 
công cộng cũng như về môi trường, nhưng 
không phải “môi trường” một cách chung 
chung mà cụ thể là các nguy cơ đối với đời 
sống hay sức khỏe của động thực vật. Điều 
kiện (2) được thỏa mãn khi không còn giải 
pháp thay thế nào khả thi, nói cách khác biện 
pháp đó là giải pháp duy nhất phù hợp.
Khoản XX(d):“cần thiết để bảo đảm sự 
tuân thủ pháp luật và các quy tắc không trái 
với các quy định của Hiệp định”
Một biện pháp không tuân thủ các điều 
khoản khác của GATT sẽ nằm trong phạm vi 
điều chỉnh của Khoản XX(d) nếu: (1) biện pháp 
đó được thiết kế nhằm mục đích “đảm bảo sự 
tuân thủ” các luật pháp quốc gia, ví dụ luật hải 
quan hay sở hữu trí tuệ, mà bản thân nó không 
trái với GATT; (2) biện pháp đó phải “cần 
thiết” để đảm bảo mục đích trên. Luật quốc 
gia ở đây được hiểu là pháp luật nội địa của 
một nước thành viên chứ không phải các điều 
ước, Hiệp định mà thành viên đó ký kết ngoài 
các WTO (chẳng hạn NAFTA). Trong trường 
hợp thỏa mãn điều kiện đầu tiên, một biện pháp 
được cho là “cần thiết” khi không tồn tại giải 
pháp thay thế nào khác tuân thủ GATT hoặc có 
mức độ vi phạm GATT thấp hơn. 
Khoản XX(g): “liên quan tới việc gìn giữ 
tài nguyên có thể cạn kiệt” 
Khoản XX(g) rất quan trọng bởi cùng với 
Khoản XX(b), chúng cho phép các biện pháp 
vượt ra khỏi các quy tắc cốt lõi của GATT để 
theo đuổi các mục đích bảo vệ môi trường. Một 
biện pháp thuộc phạm vi điều chỉnh của Khoản 
XX(g) cần đáp ứng ba điều kiện: (1) có mục 
đích gìn giữ tài nguyên thiên nhiên có thể bị 
cạn kiệt; (2) “liên quan tới” việc bảo tồn các 
nguồn tài nguyên thiên nhiên có thể bị cạn kiệt; 
(3) các biện pháp đó cũng được áp dụng hạn 
chế cả với sản xuất và tiêu dùng trong nước.
b) Đoạn mở đầu Điều XX
Đoạn mở đầu đóng vai trò rất quan trọng, 
đặt ra yêu cầu các nước thành viên muốn bảo 
vệ các giá trị xã hội cốt lõi thì các biện pháp 
nhằm thực hiện điều đó phải được áp dụng 
một cách hợp lý, cân đối giữa nghĩa vụ pháp 
lý của mình với quyền lợi chính đáng của các 
bên liên quan và tuyệt đối không được phép lợi 
dụng để trả đũa hay đi ngược với các quy tắc 
chung của Hiệp định GATT. Hai điểm chính 
của đoạn này là việc áp dụng các biện pháp 
giới hạn thương mại phải đồng thời: (1) không 
“phân biệt đối xử vô lý hay tùy tiện giữa các 
nước có cùng điều kiện như nhau”; (2) không 
“tạo ra một sự hạn chế trá hình với thương 
mại quốc tế”.
Với điều kiện (1), đoạn mở đầu Điều XX 
không ngăn cấm sự phân biệt đối xử, mà cấm 
sự phân biệt đối xử “vô lý” và “tùy tiện”. 
Bên cạnh đó, việc một thành viên WTO sử 
dụng các lệnh cấm vận kinh tế để đòi hỏi các 
thành viên có hoàn cảnh khác nhau phải áp 
dụng cùng một biện pháp là cứng nhắc và có 
thể cấu thành “sự phân biệt đối xử vô lý” nếu 
chiếu theo nội hàm của đoạn mở đầu Điều 
XX. Về yêu cầu không được “phân biệt đối 
xử tùy tiện”, một biện pháp không tạo ra sự 
“phân biệt đối xử tùy tiện” phải là giải pháp 
2 DS2 - DS4: Tên rút gọn: Mỹ - Xăng dầu (US - Gasoline); nguyên đơn: Venezuela (DS2) và Brazil (DS4); bị đơn: 
Mỹ; báo cáo Hội thẩm: ngày 29/01/2996; báo cáo Phúc thẩm: ngày 22/04/1996.
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
25Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
cuối cùng và không thể tránh khỏi, ngoài nó 
ra không còn giải pháp thay thế nào khả thi. 
Với điều kiện (2), một biện pháp sẽ được xem 
là “tạo ra một sự hạn chế trá hình với thương 
mại quốc tế” nếu mục đích và cách thiết kế 
của nó cho thấy biện pháp này không hướng 
tới mục đích hợp pháp được đề cập ở Điều XX 
mà thực tế nhằm giới hạn thương mại.
3. Thực tiễn vận dụng các ngoại lệ chung 
của GATT vào giải quyết tranh chấp liên 
quan tới nguyên tắc không phân biệt đối xử 
trong WTO
3.1. Tổng quan tình hình vận dụng các 
ngoại lệ chung của GATT
Theo một báo cáo được công bố vào tháng 
4 năm 2015 trên trang web chính thức của Tổ 
chức Public Citizen tại Mỹ, trong 20 năm kể 
từ khi WTO được thành lập (1995) cho đến 
tháng 4/2015, tổng cộng có 40 vụ tranh chấp 
viện dẫn Điều XX GATT, trong đó 23 vụ liên 
quan đến nguyên tắc MFN hoặc NT. Trong số 
40 vụ việc này, chỉ 1 vụ duy nhất thành công 
(DS 135), còn lại hơn 97% đã thất bại qua các 
bước xét xử. Trong đa số các vụ việc thất bại, 
các biện pháp gây tranh chấp đều không thỏa 
mãn các điều kiện của một trong các khoản từ 
(a) đến (j) của Điều XX. Ở một vài vụ việc, 
biện pháp gây tranh chấp được chấp nhận là 
thuộc phạm vi của một trong các khoản từ (a) 
đến (j) nhưng lại không thỏa mãn đoạn mở 
đầu của Điều XX. Trong 23 vụ việc liên quan 
tới nguyên tắc không phân biệt đối xử, 12 vụ 
liên quan đến việc “đảm bảo tuân thủ” các 
quy định hay luật không trái với WTO3, 4 vụ 
liên quan đến “đạo đức công cộng”4, 3 vụ liên 
2 Các vụ tranh chấp: 
 + DS371: Tên rút gọn: Thái Lan - Thuốc lá (Thailand - Cigarettes (Philippines)); nguyên đơn: Philippines; bị 
đơn: Thái Lan; báo cáo Hội thẩm: ngày 15/11/2010; báo cáo Phúc thẩm: ngày 17/06/2011.
 + DS366: Tên rút gọn: Colombia - Cảng đến (Colombia - Ports of Entry); nguyên đơn: Panama; bị đơn: Colom-
bia; báo cáo Hội thẩm: ngày 27/04/2009.
 + DS345: Tên rút gọn: Mỹ - Hướng dẫn ký quỹ hải quan (US - Customs Bond Directive); nguyên đơn: Ấn Độ; 
bị đơn: Mỹ; báo cáo Hội thẩm: ngày 29/02/2008; báo cáo Phúc thẩm: ngày 16/07/2008.
 + DS343: Tên rút gọn: Mỹ - Tôm (US - Shrimp (Thailand)); nguyên đơn: Thái Lan; bị đơn: Mỹ; báo cáo Hội 
thẩm: ngày 29/02/2008;5 báo cáo Phúc thẩm: ngày 16/07/2008.
 + DS339 - DS340 - DS342: Tên rút gọn: Trung Quốc - Phụ tùng ô tô (China - Auto Parts); nguyên đơn: EC 
(DS339), Mỹ (DS340), Canada (DS342); bị đơn: Trung Quốc; báo cáo Hội thẩm: ngày 18/07/2008; báo cáo 
Phúc thẩm: ngày 15/12/2008.
 + DS302: Tên rút gọn: Cộng hòa Dominican - Nhập khẩu và buôn bán thuốc lá (Dominican Republic - Im-
port and Sale of Cigarettes ); nguyên đơn: Honduras; bị đơn: Cộng hòa Dominican; báo cáo Hội thẩm: ngày 
26/11/2004; báo cáo Phúc thẩm: ngày 25/04/2005.
 + DS276: Tên rút gọn: Canada - Lúa mỳ xuất khẩu và hạt nhập khẩu (Canada - Wheat Exports and Grain 
Imports); nguyên đơn: Mỹ; bị đơn: Canada; báo cáo Hội thẩm: ngày 06/04/2004; báo cáo Phúc thẩm: ngày 
30/08/2004.
 + DS161 - DS169: Tên rút gọn: Hàn Quốc - Các biện pháp áp dụng với thịt bò (Korea - Various Measures on 
Beef); nguyên đơn: Mỹ (DS161), Australia (DS169); bị đơn: Hàn Quốc; báo cáo Hội thẩm: ngày 31/07/2000; 
báo cáo Phúc thẩm: ngày 11/12/2000.
 + DS155: Tên rút gọn: Argentina - Thuộc da bò và da thành phẩm (Argentina - Hides and Leather); nguyên đơn: 
EC; bị đơn: Argentina; báo cáo Hội thẩm: ngày 19/12/2000.
3 Các vụ tranh chấp: 
 + DS400 - DS401: Tên rút gọn: Cộng đồng Châu Âu - Các sản phẩm hải cẩu (EC - Seal Products); nguyên đơn: 
Canada (DS400), Na Uy (DS401) ; bị đơn: EC; báo cáo Hội thẩm: ngày 25/11/2013; báo cáo Phúc thẩm: ngày 
22/05/2014.
 + DS363: Tên rút gọn: Trung Quốc - Các ấn phẩm và các sản phẩm giải trí nghe nhìn (China - Publications and 
Audiovisual Products); nguyên đơn: Mỹ; bị đơn: Trung Quốc; báo cáo Hội thẩm: ngày 12/08/2009; báo cáo Phúc 
thẩm: ngày 21/12/2009.
 + DS285: Tên rút gọn: Mỹ - Đánh bạc (US - Gambling); nguyên đơn: Antigua và Barbuda; bị đơn: Mỹ; báo cáo 
Hội thẩm: ngày 10/11/2004; báo cáo Phúc thẩm: ngày 07/04/2005.
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
26 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
quan đến “sức khỏe hay đời sống con người, 
động vật hay thực vật”5, 4 vụ liên quan đến 
“các nguồn tài nguyên có thể bị cạn kiệt”6.
Có thể thấy, bản thân nội dung của các quy 
định này không thể cung cấp cho Ban Hội thẩm 
cũng như Cơ quan Phúc thẩm cơ sở pháp lý đầy 
đủ để phân tích, đánh giá và đưa ra phán quyết. 
Quy trình cũng như các tiêu chuẩn để xem xét 
đều dần định hình qua lịch sử các vụ tranh chấp. 
Vì thế, các án lệ đóng vai trò rất quan trọng 
trong giải quyết các tranh chấp liên quan tới 
nguyên tắc không phân biệt đối xử trong WTO. 
3.2. Phân tích một số vụ tranh chấp 
điển hình
Trong vụ tranh chấp Hàn Quốc - Các biện 
pháp ảnh hưởng đến nhập khẩu sản phẩm 
thịt bò tươi sống, sấy khô và đông lạnh7, biện 
pháp gây tranh cãi là hệ thống bán lẻ kép mà 
Hàn Quốc áp dụng đối với thịt bò, theo đó, 
nước này xây dựng những cửa hàng riêng lẻ 
và chuyên biệt bán thịt bò nhập khẩu, tại các 
siêu thị  ... y, nhưng chỉ cần Việt Nam chứng minh 
được rằng sự phân biệt đối xử mà mình tạo 
ra trong thương mại quốc tế là cần thiết để 
bảo vệ các giá trị xã hội cốt lõi theo các điều 
khoản ngoại lệ chung thì biện pháp của Việt 
Nam vẫn sẽ được chấp nhận là một ngoại lệ 
và được phép áp dụng. Đây là một tư duy cần 
thiết trong việc xây dựng chính sách của Việt 
Nam. Trong việc này cần cân bằng giữa lợi 
ích mà thương mại quốc tế mang lại với các 
lợi ích xã hội cốt lõi của quốc gia, không nên 
thúc đẩy thương mại bằng mọi giá bất chấp 
sự hủy hoại các giá trị như môi trường, văn 
hóa, đạo đức và các nguồn tài nguyên có thể 
cạn kiệt. 
Thứ hai, Việt Nam cần hoàn thiện kỹ thuật 
xây dựng chính sách để bảo vệ các giá trị nói 
trên. Trong việc xây dựng chính sách, cần lưu 
ý đến mối quan hệ thực sự giữa chính sách 
và mục tiêu theo đuổi. Bởi lẽ trước hết, một 
biện pháp vi phạm các nghĩa vụ trong luật 
pháp WTO chỉ có thể được biện minh bằng 
các điều khoản ngoại lệ chung nếu chúng thực 
sự là cần thiết để đạt được mục tiêu bảo vệ các 
giá trị xã hội. Chính vì thế, khi xây dựng chính 
sách cần yêu cầu khắt khe về sự phù hợp này, 
tránh những chính sách tạo ra sự phân biệt đối 
xử mà không liên quan đến mục tiêu Chính 
phủ tuyên bố. Chẳng hạn mục đích của Thông 
tư 20/2011/TT-BCT của Bộ Công Thương 
yêu cầu ô tô dưới 09 chỗ ngồi khi nhập khẩu 
cần có Giấy ủy quyền chính hãng sẽ dễ bị coi 
là không có mối liên hệ với mục đích mà Bộ 
tuyên bố bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và 
an toàn giao thông đường bộ18.
Thứ ba, Việt Nam cần thận trọng trong 
quá trình thực thi chính sách, tránh dẫn đến 
sự phân biệt đối xử vô lý, tùy tiện hay hạn 
chế thương mại trá hình theo nghĩa của đoạn 
mở đầu Điều XX GATT. Chẳng hạn, dự 
thảo Thông tư số 20/2015/TT-BKHCN của 
Bộ Khoa học Công Nghệ Việt Nam về việc 
cấm nhập khẩu các loại máy móc cũ có quy 
định như sau: “Các loại máy móc, thiết bị đã 
qua sử dụng được phép nhập khẩu nếu có 
thời gian sử dụng không quá 10 năm và chất 
lượng còn lại so với chất lượng ban đầu từ 
80% trở lên”. Thoạt nhìn quy định này không 
tạo ra sự phân biệt đối xử. Nhưng thực tế, nếu 
được thông qua và thực thi sẽ phát sinh vấn 
đề sau: một số loại máy móc như các máy 
in truyền thống hoặc những máy gia công 
thành phẩm do Đức, Nhật Bản, Mỹ, Ý... sản 
xuất thì 20 năm hoặc hơn nữa dùng vẫn rất 
tốt. Trong khi đó, cùng loại này nhưng máy 
in do Trung Quốc sản xuất dù mới 100% lại 
có chất lượng còn kém xa các sản phẩm do 
các nước Châu Âu sản xuất trước đó vài chục 
năm19. Có thể thấy tiêu chí 10 năm đối với 
máy móc thiết bị đã qua sử dụng trong ngành 
in là quá cứng nhắc, thiếu cơ sở khoa học và 
thực tiễn, đồng thời tạo ra sự phân biệt đối 
xử tùy tiện giữa máy móc nhập khẩu vào Việt 
Nam từ các nước khác nhau. Giả sử chính 
sách này khiến Việt Nam bị kiện vì vi phạm 
nguyên tắc đối xử MFN, sẽ rất khó vận dụng 
điều XX của GATT để biện minh cho nó.
18 Từ 06/2014 Bộ Công Thương đã đưa ra công văn số 4582/BCT-XNK chính thức cho phép các doanh nghiệp tiếp 
tục nhập khẩu xe trở lại. 
19 Nguyên Nga, 2015, Bất hợp lý quy định nhập máy móc cũ, Báo Thanh niên Online, ngày 18/3/2015
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
30 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
4.2. Đề xuất về tham gia tranh tụng 
thương mại quốc tế
Trước hết, trong các trường hợp tranh tụng 
liên quan đến các ngoại lệ chung, Việt Nam 
đều cần phải tìm hiểu kỹ càng điểm yếu và 
điểm mạnh của cả hai bên tranh chấp. Việc tìm 
hiểu này đòi hỏi hiểu biết rộng và sâu về các 
hiệp ước quốc tế liên quan, các quy định, luật 
pháp thương mại và phi thương mại áp dụng 
trong nước hay với nước ngoài, nắm rõ các án 
lệ liên quan trong lịch sử giải quyết tranh chấp 
của WTO. Khi tranh tụng, Việt Nam cần chọn 
những điều khoản, những ý có lợi trong các 
phán quyết trước đó để hỗ trợ cho lập luận của 
mình. Bên cạnh đó cũng nên lường trước các 
lập luận của đối phương về các ngoại lệ chung 
để chuẩn bị trước các luận cứ, luận chứng đáp 
trả trước Ban Hội thẩm hoặc Cơ quan Phúc 
thẩm.
Với vai trò là bên nguyên đơn, Việt Nam 
cần chuẩn bị kỹ các lập luận và chứng cứ để 
chứng minh bên bị đơn vi phạm nguyên tắc 
không phân biệt đối xử, đồng thời ngăn chặn 
khả năng bị đơn sử dụng các ngoại lệ chung 
để biện minh. Qua các vụ tranh chấp, có thể 
thấy các bên bị đơn thường thất bại ở bước 
chứng minh không có biện pháp thay thế nào 
hợp lý và sẵn có và bước xem xét biện pháp 
có thỏa mãn các điều kiện của đoạn mở đầu 
Điều XX GATT hay không. Do vậy, với tư 
cách nguyên đơn, Việt Nam nên chú ý tìm 
kiếm và đề xuất các biện pháp thay thế có thể 
áp dụng hợp lý sẵn có và các bằng chứng cho 
thấy biện pháp của phía bị đơn tạo ra sự phân 
biệt đối xử tùy tiện hoặc vô lý, hay hạn chế 
thương mại trá hình.
Với vai trò là bị đơn, trước tiên Việt Nam 
cần rà soát lại các chính sách của mình, đặc 
biệt các biện pháp không trực tiếp liên quan 
tới thương mại nhằm bảo vệ các giá trị xã hội 
cốt lõi. Ngay từ bây giờ, Việt Nam cũng nên 
duy trì điều tra, hoàn thiện các thống kê còn 
thiếu sót để khi xảy ra tranh chấp sẽ có các 
số liệu cần thiết dùng làm bằng chứng. Tiếp 
đó, trong quá trình giải quyết tranh chấp, Việt 
Nam cần tập trung chứng minh tính cần thiết 
hoặc liên quan của biện pháp, bao gồm các 
yếu tố: mục đích mà biện pháp hướng tới đạt 
được, mức độ đóng góp của biện pháp và tác 
động hạn chế thương mại quốc tế. Bên cạnh 
đó, cần chú ý lường trước và chuẩn bị các 
chứng cứ chứng tỏ Việt Nam không có khả 
năng áp dụng các biện pháp thay thế nào khác 
ít hạn chế thương mại hơn. Cần lưu ý rằng 
Cơ quan Phúc thẩm cho phép Ban Hội thẩm 
nhận đệ trình từ các chủ thể có quan tâm, vì 
vậy trong các vụ tranh chấp, Việt Nam cần chủ 
động thu thập các số liệu, bằng chứng có lợi từ 
các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức xuyên 
quốc gia, có uy tín trên thế giới để bổ sung 
vào đệ trình của mình hoặc vận động các tổ 
chức đó đệ trình trực tiếp lên cơ quan xét xử 
của WTO.
4.3. Đề xuất về việc đàm phán thương mại 
quốc tế
Hiệp định TPP cũng dự thảo về các điều 
khoản ngoại lệ chung tương tự GATT. Do đó, 
trong đàm phán ký kết hiệp định này nói riêng 
và các hiệp định thương mại song phương và 
đa phương nói chung, Việt Nam cần lưu ý đề 
xuất cơ chế ngoại lệ hiệu quả hơn cơ chế của 
WTO để có thể bảo vệ các giá trị xã hội cốt lõi 
một cách hiệu quả hơn. 
Thứ nhất, trong khuôn khổ WTO, quy trình 
xét xử và các điều kiện cần thiết để một biện 
pháp được coi là ngoại lệ chung theo Điều XX 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
31Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
của GATT quá phức tạp và nghiêm ngặt khiến 
các thành viên gặp nhiều khó khăn trong việc 
áp dụng. Tỷ lệ thành công 1/41 vụ tranh chấp 
có viện dẫn ngoại lệ chung đã cho thấy điều 
đó. Mặc dù không thể phủ nhận rằng các 
điều kiện về các ngoại lệ này ở các hiệp định 
thương mại song phương/đa phương vẫn cần 
đảm bảo độ chặt chẽ nhất định để tránh việc 
các nước ký kết lợi dụng chúng để gây hạn 
chế thương mại, nhưng Việt Nam và các nước 
ký kết cũng nên đàm phán để thống nhất quy 
trình và các tiêu chuẩn xem xét hợp lý hơn. 
Chẳng hạn có thể sử dụng thuật ngữ khác từ 
“cần thiết”, hoặc áp dụng hệ tiêu chuẩn khác 
để xem xét sự “cần thiết” này
Thứ hai, các hiệp định song phương, đa 
phương cần giải thích cụ thể hoặc hướng 
dẫn chi tiết về các thuật ngữ cũng như cách 
thức áp dụng các ngoại lệ chung. Điều XX 
GATT không quy định rõ ràng về các khái 
niệm và việc áp dụng, vì thế trong khi xét xử, 
Cơ quan Phúc thẩm, Ban Hội thẩm và các 
bên tranh chấp đã viện dẫn các án lệ và các 
điều ước quốc tế. Tuy nhiên các hiệp định 
song phương, đa phương lại không có lịch sử 
các vụ việc trước đó, đặc biệt các hiệp định 
thường quy định khi có vi phạm sẽ giải quyết 
thông qua đàm phán chứ không có cơ quan 
giải quyết tranh chấp như trong WTO, hoặc 
nếu có thống nhất thành lập Ban Hội thẩm 
để xét xử thì cũng là xét xử một cấp, không 
có cấp thứ hai để điều chỉnh, xem xét lại vụ 
việc như Cơ quan Phúc thẩm của WTO. Do 
đó, việc quy định càng cụ thể và rõ ràng về 
các ngoại lệ chung trong các hiệp định song 
phương, đa phương sẽ giúp các nước ký kết 
áp dụng chúng để bảo vệ các giá trị cốt lõi 
một cách hiệu quả hơn.
4.4. Một số đề xuất khác
4.4.1. Đề xuất tăng cường vai trò của các 
hiệp hội và các tổ chức, cá nhân có chuyên môn
Trước tiên trong việc thiết kế chính sách, 
các cơ quan chức năng Việt Nam cần chủ động 
hơn trong việc tham khảo ý kiến các chuyên 
gia về chuyên môn khoa học để có thể thiết 
kế được những chính sách bảo vệ hiệu quả 
các giá trị này. Việc này có thể được thực hiện 
bằng cách triển khai các hội thảo, hội nghị lấy 
ý kiến tham vấn hoặc trực tiếp mời tham vấn 
từ các tổ chức, cá nhân có chuyên môn và uy 
tín trong lĩnh vực xem xét. Về phía các hiệp 
hội, chuyên gia trong ngành, họ cũng cần chủ 
động nghiên cứu, nâng cao năng lực chuyên 
môn để có thể đưa ra các tư vấn chính xác, 
khoa học thông qua việc tăng cường sinh hoạt 
chuyên môn, tích cực học hỏi ở trong và ngoài 
nước... 
Thứ hai, trong việc giải quyết các tranh 
chấp liên quan đến ngoại lệ chung, các chuyên 
gia và hiệp hội cần tư vấn, cung cấp cho các 
cơ quan chức năng số liệu, kết quả khảo sát, 
nghiên cứu đảm bảo tính khoa học, tin cậy và 
khách quan để giúp Việt Nam trong việc đưa 
ra các bằng chứng biện minh cho biện pháp 
gây tranh chấp, hoặc đưa ra các luận điểm, 
chứng cứ để phản bác xác đáng lập luận của 
phía bên kia.
4.4.2. Đề xuất nâng cao vai trò của các 
doanh nghiệp và các tổ chức xã hội
Bên cạnh các hiệp hội và chuyên gia, các 
doanh nghiệp, tổ chức xã hội cũng đóng vai 
trò rất lớn trong việc giúp Việt Nam bảo vệ 
các giá trị xã hội cốt lõi của mình. Nhà nước 
Việt Nam có thể tạo điều kiện cho các doanh 
nghiệp, tổ chức xã hội chủ động đứng ra thực 
hiện các chiến dịch bảo vệ các giá trị đó. 
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
32 Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïi Soá 75 (09/2015)
Chẳng hạn trong trường hợp triển khai chiến 
dịch “Người Việt Nam dùng hàng Việt Nam” 
nói trên, các doanh nghiệp hay tổ chức xã hội 
có thể tự tập hợp, tổ chức các dự án truyền 
thông trong khuôn khổ pháp luật nhằm nâng 
cao ý thức tiêu dùng hàng hóa nội địa của 
người dân Việt Nam. Việc này sẽ tránh tạo ra 
sự phân biệt đối xử hiển nhiên từ phía Việt 
Nam, đồng thời đảm bảo tính khách quan và 
thể hiện ý thức tự nguyện của người tiêu dùng, 
của các tổ chức, doanh nghiệp chứ không phải 
là sự bắt buộc mang tính pháp lý. 
Các doanh nghiệp cũng là những đối tượng 
nhạy cảm nhất với các thay đổi về chính sách 
thương mại, do đó có thể phát hiện sớm những 
sự phân biệt đối xử mà doanh nghiệp Việt 
Nam phải chịu khi xuất khẩu ra nước ngoài, 
hay hiểu rõ ràng hơn về thực tế áp dụng của 
các chính sách. Đối với việc xuất khẩu ra 
nước ngoài, các doanh nghiệp Việt Nam cần 
chủ động linh hoạt hơn trong việc báo cáo với 
các cơ quan chức năng về các hiện tượng hàng 
hóa, dịch vụ từ Việt Nam bị đối xử phân biệt 
hay hạn chế nhập khẩu mà không vì lý do xác 
đáng nào. Bên cạnh đó, họ cũng cần là người 
cung cấp các thông tin về thực tế áp dụng của 
các biện pháp, giúp các cơ quan chức năng 
Việt Nam nhận định có hay không các sự phân 
biệt đối xử trá hình. 
Đối với việc sản xuất trong nước hay nhập 
khẩu vào Việt Nam, các doanh nghiệp nước ta 
cần tăng cường phản hồi về hiệu quả của các 
quy định của Việt Nam trong việc bảo vệ các 
giá trị xã hội cốt lõi, hay các chính sách đó có 
bị áp dụng theo cách tạo ra sự phân biệt đối 
xử vô lý hay tùy tiện, trá hình hay không, 
Chính phủ cũng cần tiếp thu ý kiến đóng góp 
của doanh nghiệp và điều chỉnh các chính 
sách sao cho phù hợp và thúc đẩy sự phát triển 
của các doanh nghiệp trong nước. Cơ chế hai 
chiều này có thể được thực hiện qua việc lập 
các cổng thông tin trao đổi giữa chính phủ và 
các doanh nghiệp, hoặc chính phủ tiến hành 
các cuộc điều tra khảo sát lấy ý kiến doanh 
nghiệp về hiệu quả chính sách hay các vấn 
đề liên quan khác. Các biện pháp cung cấp 
thông tin hai chiều này cần được triển khai 
nhanh chóng, thiết kế tiện lợi tối đa cho doanh 
nghiệp để khuyến khích doanh nghiệp phản 
hồi tích cực hơn với cơ quan chức năng, chẳng 
hạn qua trang một trang web chính thức của 
Bộ Công Thương.
4.4.3. Đề xuất đối với hoạt động giáo dục 
và đào tạo
Đào tạo là một trong những vấn đề quan 
trọng cần được thực hiện càng sớm càng 
tốt bởi kết quả của đào tạo chỉ có thể thấy 
được sau một thời gian nhất định. Hiện tại 
Việt Nam vẫn còn rất thiếu thốn nhân lực có 
chuyên môn cao về luật thương mại quốc tế, 
những vụ kiện mà Việt Nam tham gia, nước 
ta vẫn phải thuê các luật sư nước ngoài. Do 
đó trong ngắn hạn, Việt Nam cần chú trọng 
đào tạo đội ngũ luật sư thương mại quốc tế 
thông qua một số biện pháp như gửi đi học 
ở nước ngoài, cho tham gia vào nhiều hơn 
các vụ tranh chấp thực tế với vai trò bên thứ 
ba, tăng cường đãi ngộ bằng lương, thưởng, 
môi trường làm việc và các chính sách ưu 
đãi khác. Các nhân sự cấp cao ở các doanh 
nghiệp, hiệp hội thương mại cũng cần được 
tổ chức các lớp huấn luyện, nâng cao nhận 
thức về các vấn đề thương mại quốc tế trong 
khuôn khổ WTO chẳng hạn về giải quyết 
tranh chấp, các hình thức phân biệt đối xử, 
các rào cản hạn chế thương mại,
Kinh Teá vaø hoäi nhaäp
33Taïp chí Kinh teá ñoái ngoaïiSoá 75 (09/2015)
Trong dài hạn, Việt Nam cần đầu tư vào 
giáo dục. Các môn học về thương mại quốc 
tế, đặc biệt thương mại trong khuôn khổ WTO 
hiện tại ở một số trường đại học, cao đẳng Việt 
Nam vẫn chưa thật sự đi sát với nhu cầu thực 
tế. Các môn học này nên đưa các án lệ vào 
chương trình học một cách sâu hơn, chẳng hạn 
tổ chức chuyên đề về các án lệ, phân bổ tiết 
học cho việc giảng dạy cách tiếp cận các án 
lệ, đọc báo cáo của Ban Hội thẩm và Cơ quan 
Phúc thẩm, các bài học rút ra từ các vụ tranh 
chấp.q
Tài liệu tham khảo
Tài liệu tham khảo tiếng Anh
1. Lester, S., Leitner, K., 2011, WTO Dispute Settlement 1995-2010 - A Statistical Analysis, 
United Kingdom: Oxford University Press.
2. Ochoa, J., 2012, General Exceptions of Article XX of the GATT 1994 and Article XIV of 
the GATS, Faculty of Law, University of Oslo. 
3. Surya, P. Subedi, Dphil, Barrister, 2013, International Trade and Business Law, Hanoi: 
The People”s Public Security Publishing House. 
4. Van Den Bossche, P., 2013, The Law and Policy of the World Trade Organization - Text, 
Cases and Materials, 3rd edn, United Kingdom: Cambridge University Press.
5. WTO, 1994, The General Agreement on Tariffs and Trade.
6. WTO Secretariat, 2013, Report of Trade Policy Review: Viet Nam.
7. WTO Dispute Settlement Reports (1995-2015)
Tài liệu tham khảo tiếng Việt
1. Dự thảo Thông tư số 20/2015/TT-BKHCN ngày 01/12/2015
2. Thông báo số 264-TB/TW ngày 31/07/2009
3. Thông tư số 111/2012/TT-BTC ngày 04/07/2012
4. Nguyễn Thị Mơ, 2011, Pháp luật thương mại quốc tế, NXB Lao động.
Tài liệu tham khảo từ Internet
1. 
nghiep-viet.aspx, truy cập 1/7/2015
2. 
html, truy cập ngày 1/7/2015
3. https://www.wto.org/english/tratop_e/dispu_e/dispu_e.htm, truy cập ngày 1/7/2015
4. https://www.citizen.org/documents/general-exception.pdf, truy cập ngày 1/7/2015

File đính kèm:

  • pdfthuc_tien_van_dung_dieu_xx_hiep_dinh_gatt_1994_vao_giai_quye.pdf