Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật

Công nhận và cho thi hành phán quyết của

Trọng tài nước ngoài là một nội dung quan

trọng của hoạt động tương trợ tư pháp và là một

trong những nội dung của Tư pháp quốc tế các

nước. Sự điều chỉnh pháp luật về công nhận và

cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của

Trọng tài nước ngoài hiện nay tập trung tại Bộ

luật Tố tụng dân sự 2015 và một số văn bản

pháp luật liên quan. Thực tiễn áp dụng các quy

định này từ thời điểm Bộ luật Tố tụng dân sự

2015 có hiệu lực thi hành (01/7/2016) cho thấy

tính phù hợp của quy định pháp luật với thực

tiễn yêu cầu công nhận và cho thi hành các

phán quyết của Trọng tài nước ngoài, góp phần

quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh doanh,

thương mại có yếu tố nước ngoài.

pdf 11 trang kimcuc 2980
Bạn đang xem tài liệu "Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật

Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
52 
Review Article 
Practice in Vietnam About the Recognition and 
Enforcement of Foreign Arbitral Awards Under the Code of 
Civil Procedure 2015 and Recommendations for 
Improving the Efficiency of Law Application 
Banh Quoc Tuan* 
Falcuty of Law - Ho Chi Minh City University of Technology 
475A, Dien Bien Phu street, Ward 25, Binh Thanh Distrist, Ho Chi Minh City, Vietnam 
Received 13 August 2019 
Revised 25 August 2019; Accepted 19 September 2019 
Abstract: On the basis of studying the process of applying the provisions of the Civil Procedure 
Code on the recognition and enforcement of foreign arbitral awards, the author has made 
comments on regulations of the law as well as analyzed the problems arising from the application 
of the law in practice as the basis for the proposal of some recommendations to improve the law. 
Keywords: International judiciary, foreign arbitral award, recognition and enforcement of foreign 
arbitral awards. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: bq.tuan@hutech.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4235 
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
53 
Thực tiễn công nhận và cho thi hành tại Việt Nam 
phán quyết của trọng tài nước ngoài theo Bộ luật 
Tố tụng dân sự 2015 và kiến nghị góp phần 
nâng cao hiệu quả điều chỉnh của pháp luật 
Bành Quốc Tuấn* 
Khoa Luật, Trường Đại học Công nghệ Thành phố Hồ Chí Minh 
475A, Điện Biên Phủ, Phường 25, Quận Bình Thạnh, Thành phố Hồ Chí Minh 
Nhận ngày 13 tháng 8 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 25 tháng 8 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 
Tóm tắt: Trên cơ sở nghiên cứu quá trình áp dụng quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về 
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài, tác giả đã đưa ra 
những nhận xét về quy định của luật cũng như phân tích những vấn đề phát sinh từ quá trình áp 
dụng pháp luật vào thực tiễn làm cơ sở cho việc đề xuất một số kiến nghị góp phần hoàn thiện 
pháp luật. 
Từ khóa: Tư pháp quốc tế, phán quyết của trọng tài nước ngoài, công nhận và cho thi hành phán 
quyết của trọng tài nước ngoài. 
1. Đặt vấn đề* 
Công nhận và cho thi hành phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài là một nội dung quan 
trọng của hoạt động tương trợ tư pháp và là một 
trong những nội dung của Tư pháp quốc tế các 
nước. Sự điều chỉnh pháp luật về công nhận và 
cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài hiện nay tập trung tại Bộ 
luật Tố tụng dân sự 2015 và một số văn bản 
pháp luật liên quan. Thực tiễn áp dụng các quy 
định này từ thời điểm Bộ luật Tố tụng dân sự 
________ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: bq.tuan@hutech.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4235 
2015 có hiệu lực thi hành (01/7/2016) cho thấy 
tính phù hợp của quy định pháp luật với thực 
tiễn yêu cầu công nhận và cho thi hành các 
phán quyết của Trọng tài nước ngoài, góp phần 
quan trọng thúc đẩy các quan hệ kinh doanh, 
thương mại có yếu tố nước ngoài. 
Tuy nhiên, trong bối cảnh tình hình kinh tế 
xã hội thay đổi nhanh chóng, quá trình hội nhập 
quốc tế diễn ra ngày càng mạnh mẽ, từ thực tiễn 
áp dụng pháp luật đã phát sinh một số vấn đề 
cần tiếp tục được nghiên cứu để nâng cao hiệu 
quả điều chỉnh của pháp luật. Trong bài viết, tác 
giả đã áp dụng phương pháp phân tích để làm 
rõ bốn nội dung: Phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài được công nhận tại Việt Nam; Nguyên 
tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
54 
phán quyết của Trọng tài nước ngoài; Điều kiện 
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài; Cơ quan có 
thẩm quyền nhận đơn yêu cầu công nhận và cho 
thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài. Đồng thời, tác giả sử dụng phương 
pháp tổng hợp để trình bày tình hình thực tiễn 
có liên quan đến các vấn đề trên làm cơ sở cho 
các kiến nghị góp phần nâng cao hiệu quả điều 
chỉnh của pháp luật trong giai đoạn sắp tới. 
2. Nội dung điều chỉnh của Bộ luật Tố tụng 
dân sự 2015 về công nhận và cho thi hành 
tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài 
2.1 Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được 
công nhận tại Việt Nam 
Khoản 2 Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự 
2015 về “Phán quyết của Trọng tài nước ngoài 
được công nhận và cho thi hành tại Việt Nam” 
quy định: Phán quyết của Trọng tài nước ngoài 
được xem xét công nhận và cho thi hành tại 
Việt Nam là phán quyết cuối cùng của Hội 
đồng trọng tài giải quyết toàn bộ nội dung vụ 
tranh chấp, chấm dứt tố tụng trọng tài và có 
hiệu lực thi hành. Theo khoản 10 Điều 3 Luật 
Trọng tài thương mại 2010 thì: “Phán quyết 
trọng tài là quyết định của Hội đồng trọng tài 
giải quyết toàn bộ nội dung vụ tranh chấp và 
chấm dứt tố tụng trọng tài”. Khoản 2 Điều 424 
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 sử dụng thuật ngữ 
“phán quyết cuối cùng” để chỉ phán quyết 
trọng tài này. Quy định của Bộ luật Tố tụng dân 
sự 2015 tương đồng với quy định của Công ước 
New York 1958 về công nhận và thi hành phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài (gọi tắt là Công 
ước New York 1958) mà Việt Nam đã là thành 
viên từ ngày 28/7/1995. Theo khoản 2 Điều 1 
Công ước New York 1958 thì: “Thuật ngữ 
quyết định trọng tài bao gồm không chỉ những 
quyết định được tuyên bởi các Trọng tài viên 
được chỉ định cho từng vụ mà còn bao gồm 
những quyết định được tuyên bởi các tổ chức 
trọng tài thường trực được các bên đưa vụ việc 
ra giải quyết”. Trong quyết định của Toá án 
Việt Nam công nhận và cho thi hành phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài cũng sử dụng 
thuật ngữ “phán quyết cuối cùng” giải quyết vụ 
việc để chỉ loại phán quyết chính thức này. 
Ví dụ: Quyết định số 01/2019/QĐST-
KDTM ngày 15/02/2019 của Toà án nhân dân 
tỉnh Long An về “Xét đơn yêu cầu công nhận 
và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài” của người được thi hành 
là Ngân hàng Trách nhiệm hữu hạn một thành 
viên Standard Chartered - Việt Nam (gọi tắt 
SCB Việt Nam), địa chỉ trụ sở tại P1810-P1815, 
Keangnam Hanoi Landmard, E6, Phạm Hùng, 
phường Mễ Trì, quận Nam Từ Liêm, Hà Nội và 
người phải thi hành là Công ty Cổ phần NIVL 
(gọi tắt là Công ty NIVL), địa chỉ trụ sở tại ấp 
6, xã Lương Hòa, huyện Bến Lức, tỉnh Long 
An và Công ty Cổ phần đường Bình Định (gọi 
tắt là Công ty đường Bình Định), địa chỉ trụ sở 
tại Km52, Quốc lộ 19, xã Tây Giang, huyện 
Tây Sơn, tỉnh Bình Định, Toà án đã sử dụng 
thuật ngữ “Phán quyết cuối cùng” để chỉ Phán 
quyết trọng tài ngày 14/05/2018 (đăng ký trong 
sổ đăng ký phán quyết SIAC là Phán quyết số 
055 năm 2018 ngày 15/05/2018) của Hội đồng 
trọng tài thuộc Trung tâm trọng tài quốc tế 
Singapore. Tương tự, Quyết định số 
127/2018/QĐKDTM - ST ngày 29/01/2018 của 
Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về 
“Công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài” giải quyết yêu 
cầu của người được thi hành là Công ty TNHH 
Pan Ocean, địa chỉ trụ sở chính tại Tower 8,7 
Jong - ro 5- Gil, Jongno - gu, Seoul, Hàn Quốc 
và người phải thi hành là Công ty Cổ phần Tập 
đoàn Vạn An, địa chỉ trụ sở chính tại 129 
đường 59, phường 14, quận Gò Vấp, thành phố 
Hồ Chí Minh, Toà án đã sử dụng thuật ngữ 
“Phán quyết trọng tài cuối cùng” để chỉ phán 
quyết của trọng tài Alan Oakley ngày 21/6/2017 
của Hiệp hội trọng tài Hàng hải Luân Đôn 
thuộc Vương quốc Anh. 
Như vậy, theo Bộ luật Tố tụng dân sự 2015, 
phán quyết của Trọng tài nước ngoài được công 
nhận và cho thi hành tại Việt Nam là phán 
quyết bằng văn bản, được tuyên bởi Hội đồng 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 55 
trọng tài, mục đích để giải quyết toàn bộ các nội 
dung liên quan đến yêu cầu của các bên tham 
gia vụ việc giải quyết tại trọng tài. Phán quyết 
này là kết quả của quá trình Hội đồng trọng tài 
xem xét yêu cầu của các bên, cơ sở để bảo vệ 
yêu cầu của các bên và theo một quy tác tố tụng 
trọng tài nhất định. Nói cách khác, phán quyết 
Trọng tài được tuyên trên cơ sở và phụ thuộc 
vào ý chí của Hội đồng trọng tài, trong đó nêu 
rõ quyền và nghĩa vụ của các bên. Có thể tạm 
sử dụng thuật ngữ “phán quyết chính thức” để 
chỉ loại phán quyết trọng tài này. Đây là quy 
định kế thừa Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa 
đổi, bổ sung 2011) và phù hợp với tình hình 
thực tiễn của Việt Nam. 
Tuy nhiên, trên thế giới, bên cạnh phán 
quyết trọng tài chính thức, pháp luật của một số 
nước còn thừa nhận loại “phán quyết trọng tài 
phi chính thức” (lodo irrituale) là phán quyết ra 
đời từ cơ chế cho phép các bên tham gia vụ việc 
tại trọng tài được tự mình quyết định về các nội 
dung của vụ việc giải quyết tại trọng tài. Italia 
là quốc gia điển hình về việc công nhận loại 
phán quyết trọng tài phi chính thức này. Theo 
pháp luật Italia, có hai loại quy trình tố tụng 
trọng tài: Quy trình trọng tài chính thức 
(arbitrato rituale) và quy trình trọng tài phi 
chính thức (arbitrato irrituale). Quy trình trọng 
tài chính thức là quy trình trọng tài thông 
thường được áp dụng rộng rãi, phổ biến trên 
toàn thế giới. Quy trình trọng tài phi chính thức 
là “quy trình hoàn toàn dựa trên sự chủ động 
của các bên, và chính các bên, chứ không phải 
Hội đồng trọng tài, mới là người thiết lập nên 
phán quyết trọng tài nhằm giải quyết tranh 
chấp. Phán quyết được thiết lập dựa hoàn toàn 
vào ý chí của các bên và trọng tài chỉ đóng vai 
trò là người chứng kiến sự thoả thuận” [3,8]. 
Quy trình trọng tài phi chính thức không dẫn 
đến việc ban hành phán quyết trọng tài. Trong 
quá khứ, pháp luật Italia chỉ xem trọng tài phi 
chính thức như một hình thức tập quán trong 
giải quyết tranh chấp thương mại. Quá trình 
pháp điển hoá của pháp luật Italia đã dẫn đến 
việc ban hành các quy định cụ thể điều chỉnh 
loại trọng tài này [3]. Bộ luật Tố tụng dân sự 
2015, Luật Trọng tài thương mại 2010 và các 
văn bản hướng dẫn thi hành đến thời điểm hiện 
tại chưa có bất cứ quy định nào liên quan đến 
loại phán quyết trọng tài phi chính thức này. 
Trong quá trình mở rộng các giao dịch thương 
mại, kinh doanh có yếu tố nước ngoài sẽ phát 
sinh tình huống loại phán quyết này được yêu 
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam thì 
giải pháp của Việt Nam là như thế nào, có cần 
ban hành quy định pháp luật điều chỉnh vấn đề 
công nhận và cho thi hành loại phán quyết trọng 
tài này tại Việt Nam hay không? Đây là vấn đề 
cần tiếp tục nghiên cứu trong giai đoạn sắp tới. 
2.2 Nguyên tắc công nhận và cho thi hành tại 
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài 
Điều 424 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 về 
“Phán quyết của Trọng tài nước ngoài được 
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam” quy 
định hai nguyên tắc công nhận và cho thi 
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài: 
Thứ nhất, nguyên tắc có điều ước quốc tế. 
Nguyên tắc có điều ước quốc tế đã được quy 
định trong Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa 
đổi, bổ sung 2011) tại khoản 2 Điều 343 và tiếp 
tục được kế thừa trong Bộ luật Tố tụng dân sự 
2015. Yêu cầu này cũng là một thông lệ quốc tế 
và được quy định chính thức tại Nguyên tắc này 
cũng được ghi nhận tại Điều 1 Công ước New 
York 1958. Theo điểm a khoản 1 Điều 424 Bộ 
luật Tố tụng dân sự 2015 thì phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài được xem xét công nhận 
và cho thi hành tại Việt Nam nếu nước đó và 
Việt Nam cùng là thành viên của điều ước quốc 
tế về công nhận và cho thi hành phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài. Việt Nam đã là thành 
viên của Công ước New York 1958 nên về 
nguyên tắc Việt Nam sẽ công nhận và cho thi 
hành phán quyết của Trọng tài các nước là 
thành viên của Công ước. Tuy nhiên, một phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài là thành viên 
của Công ước New York năm 1958 có được 
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam hay 
không còn phụ thuộc vào các quy định cụ thể 
của pháp luật Việt Nam, mà cơ bản là các quy 
định của Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 và Luật 
Trọng tài thương mại 2010. Theo các công trình 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
56 
nghiên cứu đã công bố thì nguyên tắc này được 
áp dụng chung cho công nhận và cho thi hành 
tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài, bản án, quyết định dân sự của Toà án 
nước ngoài [4,5,6,7,8]. 
Trong giai đoạn áp dụng Bộ luật Tố tụng 
dân sự 2004, nguyên tắc có điều ước quốc tế đã 
được áp dụng nhiều lần trên thực tế để công 
nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán quyết 
của Trọng tài nước ngoài cũng như bản án, 
quyết định dân sự của Toà án nước ngoài. Ví 
dụ, Quyết định số 45/2012/QĐST ngày 
10/9/2012 của Toà án nhân dân thành phố Hà 
Nội “V/v công nhận và cho thi hành tại Việt 
Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án 
nước ngoài” giữa bên được thi hành là bà Lưu 
Thị Tuyết Nh. (Nh. Lukomska), địa chỉ tại 
Hlonda 2 M 66, Warsaw, Poland và bên phải thi 
hành là ông Nguyên Bá Q., địa chỉ tại số 191 
phố Đại La, phường Đồng Tâm, quận Hai Bà 
Trưng, Hà Nội, Hội đồng xét đơn yêu cầu đã áp 
dụng Điều 45 Hiệp định tương trợ tư pháp về 
các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa 
nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và 
nước Cộng hoà Ba Lan ngày 22/3/1993 chấp 
nhận đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành tại 
Việt Nam Bản án số III C 344/05 ngày 
06/8/2007 của Toà án Varsaw, Poland của bà 
Nh. giải quyết ly hôn giữa bà Nh. và ông Q. 
Tương tự, Quyết định số 01/2014/QĐST-
KDTM ngày 06/6/2014 của Toà án nhân dân 
tỉnh Long An về “Xét đơn yêu cầu công nhận 
và cho thi hành tại Việt Nam quyết định của 
Trọng tài nước ngoài” giải quyết yêu cầu của 
người được thi hành là Cargill Cotton, một đơn 
vị kinh doanh của Cargill, Incorporated 
(Cargill), địa chỉ trụ sở chính tại 7101 Goodlett 
Farms Parkway Cordova, Tennessee 38016 
USA, công nhận Quyết định trọng tài nước 
ngoài ngày 06/02/2013 của Hội đồng trọng tài 
thuộc Hiệp hội bông quốc tế tại Liverpool, Anh 
Quốc, Hội đồng đã xác định vì cả nước Anh và 
Việt Nam đều là thành viên của Công ước New 
York 1958 nên áp dụng cơ sở pháp lý tại khoản 
3 Điều 2 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, 
bổ sung 2011) để giải quyết yêu cầu. 
Đến giai đoạn áp dụng Bộ luật Tố tụng dân 
sự 2015, nguyên tắc có điều ước quốc tế tiếp 
tục được áp dụng để công nhận và cho thi hành 
tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài. Ví dụ, Quyết định số 
127/2018/QĐKDTM - ST ngày 29/01/2018 của 
Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí Minh về 
giải quyết yêu cầu của Công ty TNHH Pan 
Ocean (Hàn Quốc) yêu cầu công nhận Phán 
quyết của trọng tài Alan Oakley ngày 21/6/2017 
của Hiệp hội trọng tài Hàng hải Luân Đôn 
thuộc Vương quốc Anh, Hội đồng đã chấp 
thuận yêu cầu của người được thi hành vì “nước 
Anh và Nước CHXHCN Việt Nam đều là thành 
viên của Công ước New York 1958 về công 
nhận và cho thi hành phán quyết của trọng tài 
nước ngoài”. 
Thứ hai, nguyên tắc có đi có lại. Theo điểm 
b khoản 1 Điều 424 thì phán quyết của Trọng 
tài nước ngoài được xem xét công nhận và cho 
thi hành tại Việt Nam trên cơ sở nguyên tắc có 
đi có lại. Mặc dù đến thời điểm hiện tại đã có 
khoảng 159 quốc gia là thành viên của Công 
ư ... đầu tư, du lịch, vận tải và 
bảo hiểm quốc tế, chuyển giao công nghệ, tín 
dụng và thanh toán quốc tế ”. Trong bối cảnh 
kinh tế - xã hội giai đoạn đó cũng như bối cảnh 
lập pháp của quốc gia thì khi gia nhập Công 
ước New York 1958 Việt Nam bảo lưu phạm vi 
áp dụng công ước là đều tất yếu. Tuy nhiên, 
trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, để 
phù hợp với các chuẩn mực pháp lý quốc tế 
cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động 
của các Trung tâm trọng tài thương mại Việt 
Nam cũng như mở rộng phạm vi các phán quyết 
của Trọng tài nước ngoài được công nhận và 
cho thi hành tại Việt Nam, phù hợp với Công 
ước New York 1958, cần nghiên cứu rút lại bảo 
lưu khi gia nhập Công ước New York 1958 
theo Quyết định số 453/QĐ-CTN ngày 
28/7/1995 của Chủ tịch nước về việc gia nhập 
Công ước New York. Theo điểm (ii) Điều 2 của 
Quyết định thì Việt Nam sẽ “Chỉ áp dụng Công 
ước đối với các tranh chấp phát sinh từ các 
quan hệ pháp luật thương mại”. 
Đối với vấn đề “phán quyết trọng tài phi 
chính thức”, trên thế giới đến thời điểm hiện tại 
chỉ có Italia quy định chính thức trong luật về 
loại phán quyết này, trong khi các quốc gia 
khác đều, thậm chí còn quy định rõ không công 
nhận phán quyết phi chính thức, điển hình là 
Cộng hoà liên bang Đức [3]. Theo quan điểm 
tác giả, chưa cần thiết xây dựng quy định về 
công nhận phán quyết phi chính thức của Trọng 
tài nước ngoài trong pháp luật Việt Nam bởi lẽ, 
như đã nêu, trên thế giới mới chỉ có pháp luật 
Italia đặt ra vấn đề công nhận và cho thi hành 
loại phán quyết này. Bên cạnh xuất đó, xuất 
phát từ bối cảnh thực tế của Việt Nam đã là 
thành viên của Công ước New York 1958 chỉ 
quy định về phán quyết trọng tài chính chức và 
thực tiễn cũng chưa xuất hiện yêu cầu thi hành 
phán quyết trọng tài phi chính thức tại Việt 
Nam. 
3.2 Nguyên tắc có đi có lại trong công nhận và 
cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài 
Việc Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 tiếp tục 
kế thừa quy định về nguyên tắc có đi có lại của 
Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 xuất phát từ vai trò 
cần thiết của nguyên tắc trong bối cảnh chưa có 
nhiều điều ước quốc tế liên quan đến tương trợ 
tư pháp nói chung, công nhận và cho thi hành 
phán quyết của Trọng tài nói riêng. Nguyên tắc 
có đi có lại về bản chất là những trường hợp cụ 
thể trên thực tế cơ quan có thẩm quyền của các 
quốc gia quyết định việc tương trợ tư pháp lẫn 
nhau khi giữa hai quốc gia chưa có điều ước 
quốc tế ràng buộc nghĩa vụ này. Tuy nhiên, nếu 
việc áp dụng nguyên tắc này không theo 
nguyên tắc chung và khó dự đoán trước sẽ làm 
cho các quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
60 
kém ổn định và các bên chủ thể tham gia quan 
hệ có thể khó bảo vệ được lợi ích hợp pháp của 
mình. Để khắc phục, các quốc gia đã tiến hành 
ký kết các thoả thuận về áp dụng nguyên tắc có 
đi có lại để nâng cao hiệu quả áp dụng pháp 
luật. Việc ký kết các điều ước về áp dụng 
nguyên tắc có đi có lại cần phải hết sức thận 
trọng bởi khi đã là cam kết quốc tế thì quốc 
gia phải tuân thủ. Vì vậy, để đảm bảo việc ký 
kết được thực hiện theo một định hướng 
thống nhất, một mặt có thể áp dụng nguyên 
tắc có đi có lại trên thực tế để bảo vệ lợi ích 
hợp pháp của chủ thể Việt Nam mặt khác 
phải bảo được trật tự công cũng như chính 
sách đối ngoại của Việt Nam thì cần có một 
cơ quan đảm nhận việc theo dõi, tổng kết 
danh sách các quốc gia đã áp dụng hoặc thoả 
thuận áp dụng nguyên tắc có đi có lại với Việt 
Nam để đề xuất ký kết hiệp định về áp dụng 
nguyên tắc có đi có lại với Việt Nam. 
Bên cạnh đó, cơ chế cụ thể để áp dụng 
nguyên tắc có đi có lại trên thực tế là vấn đề cần 
phải tiếp tục nghiên cứu hoàn thiện. Theo báo 
cáo của Toà án nhân dân thành phố Hồ Chí 
Minh, khi gặp các trường hợp cần áp dụng 
nguyên tắc có đi có lại, thẩm phán giải quyết vụ 
việc thường có văn bản hỏi ý kiến của Bộ Tư 
pháp, Bộ Ngoại giao, Toà án nhân dân tối cao 
và vì vậy thời gian giải quyết vụ việc thường 
kéo dài, không đảm bảo thời hạn tố tụng. Cũng 
có Thẩm phán đã đề nghị người có đơn yêu cầu 
phải chứng minh giữa Việt Nam và nước có 
liên quan đã từng áp dụng nguyên tắc có đi có 
lại [2]. Ví dụ: Trong việc giải quyết yêu cầu của 
Công ty TNHH Hanjin Shipping công nhận và 
cho thi hành tại Việt Nam Quyết định số 2017 
HaHapBnakruptcy ngày 17/02/2017 của Tòa án 
Hàn Quốc về việc phá sản Công ty Hanjin 
Shipping vừa phân tích ở trên Toà án nhân dân 
thành phố Hồ Chí Minh đã có Công văn số 
372/TATP-TKT ngày 17/01/2018 gửi Bộ Tư 
Pháp và Công văn số 1625/TATP-TKT ngày 
02/4/2018 gửi Tòa án nhân dân Tối cao với nội 
dung: “Giữa hai nước Cộng hòa Xã hội Chủ 
nghĩa Việt Nam và Đại hàn Dân Quốc chưa ký 
kết Hiệp định tương trợ tư pháp trong lĩnh vực 
dân sự và thương mại, chưa có thỏa thuận tiền 
lệ về áp dụng nguyên tắc có đi có lại. Vì vậy, 
trong trường hợp này có được áp dụng theo 
nguyên tắc có đi có lại để chấp nhận đơn yêu 
cầu của Hanjin Shipping Co.,Ltd hay không?”. 
Và Bộ Tư pháp đã có Công văn số 1380/BTP-
PLQT ngày 24/4/2018 đề nghị Tòa án nhân dân 
Thành phố Hồ Chí Minh tham khảo thêm Công 
văn số 4609/BTP-PLQT ngày 03/10/2017 của 
Bộ Tư pháp trao đổi với Tòa án nhân dân Tối 
cao về vấn đề này. Theo nội dung công văn 
trên, khi giải quyết, Tòa án cần chú ý đến vấn 
đề đương sự chứng minh nguyên tắc có đi có lại 
được áp dụng giữa hai nước. 
Như vậy, vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp 
dụng nguyên tắc có đi có lại chính là những quy 
định cụ thể để áp dụng nguyên tắc này về cơ 
quan có thẩm quyền quyết định áp dụng, cơ chế 
áp dụng, ... Theo khoản 1 Điều 66 Luật tương 
trợ tư pháp 2007 thì Bộ Ngoại giao là cơ quan 
có thẩm quyền quyết định việc áp dụng hay từ 
chối áp dụng nguyên tắc có đi có lại theo đề 
nghị của cơ quan có thẩm quyền nước ngoài. 
Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy vai trò của Bộ Tư 
pháp trong vấn đề này là rõ ràng hơn xuất phát 
từ chức năng, nhiệm vụ cũng như đội ngũ 
chuyên gia pháp lý đang làm việc tại Bộ Tư 
pháp. Bên cạnh đó, Luật Tương trợ tư pháp 
năm 2007 (khoản 4 Điều 62) cũng đã quy định 
Bộ Tư pháp có trách nhiệm đề xuất việc ký kết, 
gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế về tương 
trợ tư pháp; kiến nghị sửa đổi, bổ sung và hoàn 
thiện pháp luật Việt Nam về tương trợ tư pháp. 
Vì vậy, theo quan điểm tác giả, cần giao thẩm 
quyền quyết định áp dụng nguyên tắc có đi có 
lại trên thực tế cho Bộ Tư pháp. Bộ Ngoại giao 
sẽ là đầu mối để thông báo kết quả giải quyết 
với cơ quan có thẩm quyền nước ngoài sau khi 
nhận được kết quả từ Bộ Tư pháp. Việc giao Bộ 
Tư pháp quyền quyết định áp dụng nguyên tắc 
có đi có lại sẽ góp phần đảm bảo tính pháp lý 
của kết quả áp dụng pháp luật cũng như phù 
hợp với yêu cầu của thực tiễn bởi lẽ Bộ Tư 
pháp là cơ quan trực tiếp tham mưu cho Chính 
phủ thẩm định các vấn đề liên quan đến pháp lý 
trong hoạt động của Chính phủ nói chung. Việc 
tập trung thẩm quyền quản lý, quyết định các 
vấn đề liên quan đến nguyên tắc có đi có lại còn 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 61 
góp phần đảm bảo tính thống nhất của việc áp 
dụng nguyên tắc trên thực tiễn, chấm dứt tình 
trạng không thống nhất giữa các Toà án có 
thẩm quyền của Việt Nam khi giải quyết yêu 
cầu công nhận và cho thi hành tại Việt Nam 
phán quyết của Trọng tài nước ngoài như đã 
từng xảy ra trong giai đoạn áp dụng luật Tố 
tụng dân sự 2004 cũng như thời gian gần đây 
khi áp dụng Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 [9]. 
3.3 Điều kiện công nhận và cho thi hành phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài 
Như đã phân tích, sự khác nhau giữa khoản 
1 Điều 425 khoản 1 Điều 451 Bộ luật Tố tụng 
dân sự 2015 sẽ gây ra khó khăn trên thực tế bởi 
người được thi hành và người có quyền, lợi ích 
hợp pháp liên quan là hai chủ thể khác nhau và 
điều này đã được quy định rất cụ thể trong các 
văn bản pháp luật hiện hành có liên quan. Theo 
đoạn 2 khoản 1 Điều 68 Bộ luật Tố tụng dân sự 
2015 thì “Đương sự trong việc dân sự là cơ 
quan, tổ chức, cá nhân bao gồm người yêu cầu 
giải quyết việc dân sự và người có quyền lợi, 
nghĩa vụ liên quan”. Còn theo khoản 2 Điều 3 
Luật Thi hành án dân sự 2008 (sửa đổi, bổ sung 
2014) thì “Người được thi hành án là cá 
nhân, cơ quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi 
ích trong bản án, quyết định được thi hành”. 
Theo khoản 4 Điều 3 Luật Thi hành án dân sự 
2008 (sửa đổi, bổ sung 2014) thì “Người có 
quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là cá nhân, 
cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên 
quan trực tiếp đến việc thực hiện quyền, nghĩa 
vụ thi hành án của đương sự”. Như vậy, đây là 
hai chủ thể có tư cách khác nhau trong quan hệ 
pháp luật thi hành án dân sự, bao gồm cả quan 
hệ thi hành phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài được công nhận và cho thi hành tại Việt 
Nam. Sự khác biệt này sẽ làm cho cơ quan có 
thẩm quyền lúng túng khi nhận đơn yêu cầu từ 
các chủ thể có yêu cầu bởi lẽ một trong những 
căn cứ để Toà án trả lại đơn yêu cầu giải quyết 
việc dân sự quy định tại điểm a khoản 1 Điều 364 
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 là “Người yêu cầu 
không có quyền yêu cầu”. Đối với trường hợp 
“người có quyền, lợi ích hợp pháp liên quan” nộp 
đơn yêu cầu công nhận và cho thi hành phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài nếu áp dụng 
khoản 1 Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 thì 
Toà án phải trả lại đơn yêu cầu, nhưng nếu áp 
dụng khoản 1 Điều 451 Bộ luật Tố tụng dân sự 
2015 thì Toà án phải nhận đơn yêu cầu. 
Từ bối cảnh như trên, xuất phát từ quan 
điểm tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện 
quyền yêu cầu của chủ thể có liên quan cũng 
như mở rộng phạm vi các phán quyết của Trọng 
tài nước ngoài được công nhận và cho thi hành 
tại Việt Nam, phù hợp với Công ước New York 
1958, tác giả đề xuất sửa đổi quy định tại khoản 
1 Điều 425 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 tương 
đồng với quy định tại khoản 1 Điều 451 Bộ luật 
Tố tụng dân sự 2015, theo đó, chủ thể có quyền 
nộp đơn quyền nộp đơn yêu cầu công nhận và 
cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài bao gồm “người được thi hành, người có 
quyền, lợi ích hợp pháp liên quan hoặc người 
đại diện hợp pháp của họ”. 
3.4 Cơ quan có thẩm quyền nhận đơn yêu cầu 
công nhận và cho thi hành phán quyết của 
Trọng tài nước ngoài 
Theo quy định của khoản 1 Điều 451 Bộ 
luật Tố tụng dân sự 2015 thì có hai cơ quan có 
thẩm quyền nhận đơn yêu cầu công nhận và cho 
thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài là Bộ Tư pháp và Toà án nhân dân 
có thẩm quyền theo quy định của Chương III 
Phần thứ nhất Bộ luật Tố tụng dân sự 2015. 
Đây là một trong những điểm sửa đổi của Bộ 
luật Tố tụng dân sự 2015 so với Bộ luật Tố tụng 
dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011). Tuy 
nhiên, xuất phát từ thực tiễn giai đoạn áp dụng 
Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cho thấy Toà án 
nhân dân cấp tỉnh không biết khi nào nhận đơn 
yêu cầu của đương sự, khi nào nhận đơn yêu 
cầu từ Bộ Tư pháp [1]. Từ thực tiễn này cũng 
như mong muốn tạo điều kiện thuận lợi cho 
hoạt động công nhận và cho thi hành tại Việt 
Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài, 
thống nhất với cơ chế cụ thể áp dụng nguyên 
B.Q. Tuan / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 52-62 
62 
tắc có đi có lại như để xuất ở trên Mục 2.2, tác 
giả đề xuất cần khôi phục quy định tại khoản 1 
Điều 364 Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa đổi, 
bổ sung 2011). Theo đó, chỉ có Bộ Tư pháp 
nhận đơn và hồ sơ yêu cầu công nhận và cho thi 
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài. Việc áp dụng quy định này sẽ đảm 
bảo một đầu mối nhận đơn thống nhất cũng như 
công tác hướng dẫn nghiệp vụ chuyên môn 
trong trường hợp cần thiết, công tác thống kê, 
tổng hợp tình hình thực tế công nhận và cho thi 
hành phán quyết của Trọng tài nước ngoài được 
thuận lợi, tạo điều kiện cho công tác tổng kết áp 
dụng pháp luật, phát hiện các hạn chế của pháp 
luật, đề xuất cơ chế áp dụng pháp luật hiệu quả 
sẽ nhanh chóng, đạt được kết quả cao. 
4. Kết luận 
Việc ban hành Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 
thay thế cho Bộ luật Tố tụng dân sự 2004 (sửa 
đổi, bổ sung 2011) là bước tiến bộ của pháp luật 
tố tụng dân sự Việt Nam nói chung, pháp luật 
điều chỉnh vấn đề công nhận và cho thi hành tại 
Việt Nam phán quyết của Trọng tài nước ngoài 
nói riêng. Đối với vấn đề công nhận và cho thi 
hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng tài 
nước ngoài, bên cạnh việc kế thừa các nội dung 
phù hợp, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 cũng đã 
sửa đổi các quy định không phù hợp, bổ sung 
các quy định còn thiếu của của Bộ luật Tố tụng 
dân sự 2004 (sửa đổi, bổ sung 2011). Tuy 
nhiên, quá trình áp dụng các quy định này vào 
thực tiễn trong thời gian qua đã đặt ra những 
vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện 
liên quan đến Phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài được công nhận tại Việt Nam; Nguyên 
tắc công nhận và cho thi hành tại Việt Nam 
phán quyết của Trọng tài nước ngoài; Điều kiện 
công nhận và cho thi hành tại Việt Nam phán 
quyết của Trọng tài nước ngoài; Cơ quan có 
thẩm quyền nhận đơn yêu cầu công nhận và cho 
thi hành tại Việt Nam phán quyết của Trọng 
tài nước ngoài nhằm nâng cao hiệu quả điều 
chỉnh của pháp luật trong giai đoạn sắp tới. 
Điều này sẽ góp phần hoàn thiện hệ thống quy 
phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ dân sự 
có yếu tố nước ngoài của Việt Nam nói chung, 
tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho quá trình 
hội nhập quốc tế của Việt Nam. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Bộ Tư pháp - Đại sứ quán Anh tại Hà Nội, Sổ tay 
hướng dẫn thực hiện Công ước New York 1958 về 
công nhận và cho thi hành phán quyết trọng tài nước 
ngoài, Nhà xuất bản Dân Trí, Hà Nội, 2017, tr. 45. 
[2] Nguyễn Thị Thuỳ Dung, Thực tiễn giải quyết yêu 
cầu công nhận và cho thi hành bản án, quyết định 
của Toà án nước ngoài, quyết định của cơ quan có 
thẩm quyền nước ngoài tại Toà án Nhân dân 
Thành phố Hồ Chí Minh, Tài liệu hội nghị “Tập 
huấn Công nước New York 1958 về Công nhận 
và cho thi hành phán quyết của Trọng tài nước 
ngoài, Thành phố Hồ Chí Minh, tháng 01/2019 
[3] Lê Nguyễn Gia Thiện - Lê Nguyễn Gia Thuận, 
“Phán quyết trọng tài phi chính thức: Quy định 
của pháp luật Italia, thực tiễn thi hành tại Đức và 
một số đề xuất cho Việt Nam”, Tạp chí Nghiên 
cứu lập pháp, (05), 2019 tr. 59, 64. 
[4] Trường đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Tư pháp 
quốc tế, NXB Công an nhân dân, 1999, tr. 317, 348. 
[5] Trường đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, 
Giáo trình Tư pháp quốc tế (Phần chung), Nhà 
xuất bản Hồng Đức - Hội luật gia Việt Nam, 
2014, tr. 208. 
[6] Khoa Luật - Đại học quốc gia Hà Nội, Giáo trình 
Tư pháp quốc tế, Nhà xuất bản Đại học quốc gia 
Hà Nội,2013, tr. 468, 516. 
[7] Bành Quốc Tuấn, Công nhận và cho thi hành tại 
Việt Nam bản án, quyết định dân sự của Toà án 
nước ngoài (Sách chuyên khảo), Nhà xuất bản 
Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr. 123. 
[8] Bành Quốc Tuấn, Giáo trình Tư pháp quốc tế, 
NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2017, 
tr. 334 - 335. 
[9] Bành Quốc Tuấn, “Áp dụng nguyên tắc có đi có 
lại trong công nhận và cho thi hành tại Việt Nam 
bản án, quyết định dân sự của nước ngoài”, Tạp 
chí Nghiên cứu lập pháp, 2017, 18, tr. 09 - 13. 

File đính kèm:

  • pdfthuc_tien_cong_nhan_va_cho_thi_hanh_tai_viet_nam_phan_quyet.pdf