Thư viện trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0

Giới thiệu những đặc trưng chủ yếu liên quan trực tiếp đến hoạt động thông tin-thư

viện của cách mạng công nghiệp 4.0: Cyber-Physical Systems (CPS), Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu

Lớn (Big Data). Đối chứng sự phát triển của thư viện qua các cuộc cách mạng công nghiệp, thông

qua việc phác hoạ mô hình hoạt động của thư viện và các loại sản phẩm và dịch vụ đặc trưng của mỗi

thời kỳ. Phân tích các đặc điểm cơ bản của nguồn tin trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0,

đặc biệt là phân tích mối quan hệ dữ liệu đặc biệt phức tạp của các tài liệu cấu thành Dữ liệu Lớn, làm

cơ sở thiết lập các thuật toán giải quyết các vấn đề liên quan tới trắc lượng thư mục, đánh giá khoa

học Nhận diện hình ảnh sơ bộ và một số đặc trưng của thư viện kỷ nguyên cách mạng công nghiệp

4.0: thư viện số thông minh, khả năng đáp ứng linh hoạt mọi loại nhu cầu tin trên nền tảng nguồn tin

trực tuyến, các loại dịch vụ đa dạng, khả năng cá thể hóa của dịch vụ, hoạt động của thư viện tích

hợp với các hoạt động của người dùng,

pdf 8 trang kimcuc 7580
Bạn đang xem tài liệu "Thư viện trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thư viện trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0

Thư viện trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
3THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
TS Vũ Duy Hiệp
 Trường Đại học Vinh
Tóm tắt: Giới thiệu những đặc trưng chủ yếu liên quan trực tiếp đến hoạt động thông tin-thư 
viện của cách mạng công nghiệp 4.0: Cyber-Physical Systems (CPS), Internet vạn vật (IoT), Dữ liệu 
Lớn (Big Data). Đối chứng sự phát triển của thư viện qua các cuộc cách mạng công nghiệp, thông 
qua việc phác hoạ mô hình hoạt động của thư viện và các loại sản phẩm và dịch vụ đặc trưng của mỗi 
thời kỳ. Phân tích các đặc điểm cơ bản của nguồn tin trong giai đoạn cách mạng công nghiệp 4.0, 
đặc biệt là phân tích mối quan hệ dữ liệu đặc biệt phức tạp của các tài liệu cấu thành Dữ liệu Lớn, làm 
cơ sở thiết lập các thuật toán giải quyết các vấn đề liên quan tới trắc lượng thư mục, đánh giá khoa 
học Nhận diện hình ảnh sơ bộ và một số đặc trưng của thư viện kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 
4.0: thư viện số thông minh, khả năng đáp ứng linh hoạt mọi loại nhu cầu tin trên nền tảng nguồn tin 
trực tuyến, các loại dịch vụ đa dạng, khả năng cá thể hóa của dịch vụ, hoạt động của thư viện tích 
hợp với các hoạt động của người dùng,
Từ khóa: Cách mạng công nghiệp 4.0; thư viện đại học; thư viện số thông minh; Internet vạn 
vật; hệ thống không gian số-thực thể; dữ liệu Lớn; dịch vụ thư viện; nguồn tin trực tuyến.
Library in the era of Industry 4.0
Abstract: The article introduces key features of Industry 4.0 that directly impact information-
library activities, including: Cyber-Physical Systems (CPS), Internet of Things (IoT), Big Data. 
The article also compares the development of library in different industrial revolutions by outlining 
the activity model of library and its typical products and services in each period. It also analyzes 
fundamental characteristics of the information resources in Industry 4.0, especially the complex data 
relationships of the component documents of Big Data in order to establish the algorithm to solve 
problems related to bibliometric, scientific assessment... Moreover, it identifies the preliminary image 
and features of the Industry 4.0 library, including: digital smart library, capacity to respond to all 
types of information demands based on online resource foundation, diversified services, service 
customization, library activity integrated with user activities, ...
Keywords: Industrial Revolution 4.0; university library; digital smart library; Internet of things; 
entity-digital environment system; Big Data; library services; online resources.
THƯ VIỆN TRONG KỶ NGUYÊN CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0
1. Nhìn nhận khái lược về cách mạng 
công nghiệp 4.0
Từ khóa Cách mạng công nghiệp (CMCN) 4.0 
đã trở nên rất phổ biến hiện nay. Cuộc 
cách mạng này đang thâm nhập sâu rộng 
vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Trong 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
4 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
bối cảnh toàn cầu hóa, sự lan tỏa của nó 
diễn ra lại càng nhanh chóng. Hoạt động 
thông tin-thư viện (TT-TV) cùng với những 
lĩnh vực liên quan mật thiết khác như: 
nghiên cứu, đào tạo, truyền thông, xuất 
bản, cũng đã tác động đến và chịu sự tác 
động bởi cuộc cách mạng này một cách 
sâu sắc. Xét từ khía cạnh tương tác, có thể 
nhận thấy một số đặc trưng mang tính bản 
chất, cốt lõi nhất của CMCN 4.0 là:
Hoạt động của các lĩnh vực kể trên được 
diễn ra thông qua một phức thể mới xuất 
hiện: các hệ thống tương tác cùng vận động 
giữa các thực thể và hình ảnh của chúng 
trong không gian số, mà ngày nay người 
ta gọi là Cyber - Physical Systems (CPS)1.
Môi trường truyền thông tin đóng vai trò hệ 
tuần hoàn của các hoạt động trên là mạng 
Internet kết nối vạn vật (Internet of Things 
-IoT) [7]. Sự xuất hiện khối lượng cực lớn 
các dữ liệu- Dữ liệu Lớn (Big Data) - bảo 
đảm để các hoạt động trên có thể thực hiện 
được, đồng thời hệ quả các hoạt động đó là 
sản sinh ra dữ liệu được tích hợp vào khối 
dữ liệu hiện có - và cứ như thế, nguồn dữ 
liệu đầu vào và đầu ra liên tục tăng trưởng 
với gia tốc lớn, tạo thành một không gian 
thông tin chung.
Theo cách tiếp cận khác, Bortolini M. và 
các cộng sự đã xác định Dữ liệu Lớn, IoT, 
Điện toán đám mây, CPS, Học máy, cấu 
thành nền tảng công nghệ của nền công 
nghiệp 4.0 [1, p 5703].
K. Santos và các cộng sự đã chỉ ra 2 
trụ cột chính của nền công nghiệp 4.0 bao 
gồm Mô hình hoạt động và Nền tảng công 
nghệ [16, p. 1360]. Trong đó, đáng chú ý 
trong các trụ cột này, có các bộ phận chưa 
1 Giáo sư Hồ Tú Bảo,phụ trách phòng thí nghiệm về Khoa học Dữ liệu tại Viện Khoa học và Công nghệ Tiên tiến Nhật Bản (Japan 
Advanced Institute of Science and Technology), sử dụng thuật ngữ tiếng Việt tương ứng là “ Các hệ kết nối không gian số-thực thể”. Ở 
đây chúng tôi sử dụng thuật ngữ gốc, chưa dịch sang tiếng Việt.
2 Trong báo cáo này chỉ giới hạn trong phạm vi các TVĐH, TV trực thuộc các tổ chức R&D hoặc tương tự.
xuất hiện trước đây như: Sản phẩm thông 
minh (Smart Products), Dịch vụ thông minh 
(Smart Services)- được hiểu để mô tả ứng 
dụng, nền tảng và giải pháp cơ sở hạ tầng 
được cung cấp dưới dạng các dịch vụ qua 
mạng (công cộng hoặc tư nhân) trên cơ 
sở quan hệ thị trường; Community (Cộng 
đồng) được lý giải bao gồm các dịch vụ 
cấp cao nhằm tạo môi trường và kích thích 
sự cộng tác của thành viên (ví dụ, trong 
thư viện), để nâng cao tính năng động, sự 
tương tác lẫn nhau, hoàn thiện sự kết nối 
với bên ngoài (ví dụ, người dùng tin). Ở 
đây, khía cạnh nhân văn của môi trường 
công nghiệp kết nối mạng được tạo điều 
kiện và nâng cao thông qua cộng đồng, 
[16, p. 1360-1361],... Ngoài ra, các tác giả 
[1, 7], 23] cũng đưa ra những hình ảnh đối 
với thực thể đang được tạo nên bởi cuộc 
CMCN 4.0- nền công nghiệp 4.0 theo các 
cách tiếp cận khác nhau.
Trong nghiên cứu này, chúng tôi trình 
bày một số nội dung chính liên quan tới 
hình ảnh và hoạt động của các cơ quan 
TT-TV (gọi chung là TV), trong kỷ nguyên 
CMCN 4.0.
2. Sự phát triển của thư viện qua các 
cuộc cách mạng công nghiệp trước đây
Các tác giả Hồ Tú Bảo [7], R. Neugebaeur 
[10], F. Rennung, etc [14] đã giới thiệu khái 
lược về trình độ phát triển, mức độ phức tạp 
của 4 cuộc CMCN đã và đang diễn ra trong 
lịch sử nhân loại từ cuối thế kỷ 18 đến nay. 
Trên cơ sở các nghiên cứu đối chứng giữa 
lịch sử TV2 và tiến trình các cuộc CMCN từ 
trước đến nay, có thể đưa ra các thông tin 
trong bảng dưới đây. 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
5THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
Bảng 1. Đối chiếu tiến trình CMCN và sự phát triển thư viện
TT
CÁC CUỘC 
CMCN: 
Thời gian
THƯ VIỆN
GHI CHÚMô hình hoạt 
động SP&DV đặc trưng
1 CMCN lần thứ 
1: Sản xuất cơ 
khí sử dụng 
nước và động 
cơ hơi nước: Từ 
cuối TK 18
Xuất hiện các TV có 
bộ sưu tập tài liệu 
dạng in lớn: TVĐH, 
TVQG  Hoạt động 
chủ yếu là thủ công, 
tự trị.
Mục lục, Thư mục, Tạp 
chí tóm tắt.
Mượn, đọc tài liệu tại 
TV. Tìm tài liệu trong 
TV
TV gần giống 
kho lưu trữ tài 
liệu
2 CMCN lần thứ 
2: Sản xuất 
hàng loạt dựa 
trên phân công 
lao động và 
sử dụng điện 
năng: Từ đầu 
TK 20
TVĐH, TVQG có 
tại hầu hết các 
nước. Đã xuất hiện 
phương thức cơ khí 
hóa, tự động hóa 
trong hoạt động TV. 
Mục lục, Mục lục liên 
hợp, Thư mục, Tạp chí 
tóm tắt; Mượn, mượn 
liên TV, Bảng Chỉ dẫn 
trích dẫn. SDI, Sử dụng 
phiếu đục lỗ (E 1247). 
Ở Mỹ xuất hiện CSDL 
thư mục (TM).
Xuất hiện biên 
mục tại nguồn; 
Tiêu chuẩn 
ISBD, AACR; 
Chỉ số tác động 
IF
3 CMCN lần thứ 
3: Điện tử và 
CNTT được 
sử dụng để tự 
động hóa sản 
xuất: Từ đầu 
những năm 
1970
Ra đời và phổ biến 
các loại CSDL: 
CSDL TM, CSDL 
dữ kiện, CSDL toàn 
văn, các website 
TV, TV số sử dụng 
PC, Internet trong 
các TV. Khai thác tài 
liệu qua mạng
CSDL TM, OPAC
Sao chụp, truyền dữ 
liệu, Tim tin online, truy 
cập mạng; CSDL TM 
tích hợp với CSDL toàn 
văn, CSDL trích dẫn 
khoa học
Sự tích hợp 
với xuất bản 
online; Xuất hiện 
MARC, Doublin 
Core
4 CMCN lần thứ 
4: dựa trên 
CPS: HIỆN TẠI
THEO BẠN??? THEO BẠN??? ???
Từ những đối chứng ở Bảng 1, có thể 
nhận thấy hoạt động TV có những thay 
đổi rất rõ nét. Chỉ riêng đối với phương 
pháp tìm tin tự động hóa, kể từ khi ra đời 
(khoảng đầu những năm 1980) cho đến 
nay, đã có những bước cải tiến rõ rệt. 
Trong thời kỳ đầu, tìm tin trên các máy 
tính cá nhân, chỉ giới hạn trong việc tìm tin 
trong CSDL, trong thư mục, trong các tệp, 
được lưu giữ ngay tại máy tính đó. Sang 
giai đoạn đầu tìm tin trên Internet thông 
qua các trang web, thì ở thế hệ Web 1.0 
(the WorldWideWeb), người dùng tìm tin 
theo danh mục, sử dụng từ khóa để thực 
hiện việc tìm kiếm thông tin. Bước sang 
giai đoạn Web 2.0 (the Social Web), việc 
tìm tin được thực hiện qua các thẻ - nguồn 
tin được gắn thẻ để chuẩn bị cho việc tìm 
tin. Trong thế hệ Web 3.0, tức là loại web 
ngữ nghĩa (the Sematic Web) thì việc tìm 
tin được thực hiện thông qua ngôn ngữ tự 
nhiên, tìm tin theo ngữ nghĩa. Bước vào thế 
hệ Web 4.0 (đang bắt đầu diễn ra) - the 
Smart Web, thì việc tìm tin dựa trên cơ sở 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
6 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
các phép suy đoán (Reasioning) [23, p. 
789]. Ví dụ trên cho thấy, hoạt động của 
TV nói chung luôn chịu sự chi phối của các 
điều kiện bên ngoài và cần phải đổi mới 
để đáp ứng.
3. Nguồn tin - thành phần cốt lõi của 
thư viện trong kỷ nguyên cách mạng 
công nghiệp 4.0
Chúng tôi cho rằng, về bản chất, hoạt 
động của TV luôn gắn liền tới thông tin và 
có tác động vô cùng to lớn với việc tổ chức 
cung cấp thông tin đáp ứng được mọi loại 
nhu cầu của Người dùng tin một cách có 
hiệu quả và lâu dài. Như vậy, một trong 
số các thành phần cốt lõi của TV chính là 
nguồn tin - nền tảng thiết yếu để triển khai 
hoạt động của TV [2]. Trong kỷ nguyên 
CMCN 4.0 thì nguồn tin có những điểm 
tương đồng cũng như khác biệt đáng kể so 
với các kỷ nguyên đã qua.
Điểm tương đồng có thể nhận thấy rõ 
nét đó là, nguồn tin của TV chính là sản 
phẩm, kết quả của các hoạt động nghiên 
cứu, đào tạo. Đặc tính này là xuyên suốt 
đối với TV ngay từ cuộc CMCN lần thứ 
nhất (cuối thế kỷ 18) cho đến các TV hiện 
nay - các TV trong kỷ nguyên CMCN 4.0.
Điểm khác biệt căn bản của nguồn tin 
hiện nay là chúng tạo thành một khối Dữ 
liệu Lớn - BIG DATA - chúng tạo thành một 
không gian thông tin thống nhất, bao trùm 
đối với mọi tài liệu khoa học [11]. Trong 
khối Dữ liệu Lớn, tất cả các tài liệu được 
hình thành không hoàn toàn biệt lập với 
các tài liệu khác: giữa chúng đều có mối 
liên kết dữ liệu, phản ánh các quan hệ trích 
dẫn qua lại với nhau. Với một tài liệu khoa 
học (luận án, báo cáo khoa học, sách, bài 
tạp chí,) cùng thông tin về tác giả, ngôn 
ngữ, nơi xuất bản, năm xuất bản,.. trong 
khối Dữ liệu Lớn đó, có thể xây dựng được 
thuật toán để thực hiện việc tìm tin thông 
thường. Ngoài ra, còn cung cấp các thông 
tin liên quan đến nguồn tài liệu trích dẫn: 
nó đã trích dẫn những tài liệu nào? các tài 
liệu có cùng chủ đề với từng tài liệu mà nó 
đã trích dẫn? có những tài liệu nào đã trích 
dẫn đến nó? .
Khi phân tích về Dữ liệu Lớn, có thể đề 
cập tới cách thức liên kết các dữ liệu để sao 
cho các CSDL, như: Thomson Reuters, 
Scopus  luôn có thể cung cấp cho người 
dùng chỉ số tác động (Impact Factor- IF), 
chỉ số trích dẫn cũng như nhiều loại chỉ số 
khác (H-Index..) về các tạp chí khoa học, tài 
liệu khoa học cũng như các chủ thể khoa 
học khác (cá nhân, cộng đồng). Như đã 
biết, IF là chỉ số phản ánh tỷ lệ giữa các tài 
liệu đã trích dẫn tới các công bố trên một tạp 
chí và tổng số các tài liệu đã được công bố 
trên tạp chí đó trong một khoảng thời gian 
xác định (1, 2, 3, năm). Chỉ số này được E. 
Garfield - Viện trưởng Viện Thông tin khoa 
học Hoa Kỳ xây dựng năm 1962 với mục 
đích làm công cụ giúp Viện có cơ sở để lựa 
chọn, bổ sung tạp chí khoa học cho mình. 
Sau này, vượt xa mục đích ban đầu, IF trở 
thành đại lượng đo lường giá trị, uy tín khoa 
học của các tạp chí trên thế giới được các tổ 
chức đánh giá, xếp hạng khoa học trên thế 
giới sử dụng. Một tạp chí khoa học hội nhập 
với nguồn tin khoa học chung trên thế giới 
khi và chỉ khi nó đã được xác định chỉ số IF 
và điều đó có nghĩa là dữ liệu của tạp chí đó 
đã gia nhập vào Dữ liệu Lớn của cộng đồng 
khoa học trên thế giới [3], [17].
Mối quan hệ phức tạp giữa các tài liệu 
được thể hiện qua quan hệ trích dẫn giữa 
các tài liệu và một số loại quan hệ khác. 
Quan hệ trích dẫn bao gồm liên kết thư mục 
(bibliographic coupling)- là sự cùng xuất 
hiện các tài liệu giống nhau trong thư mục 
tham khảo của những tài liệu khác nhau - và 
liên kết cùng trích dẫn (co-citation) - là sự 
xuất hiện của tài liệu này trong danh sách 
tài liệu tham khảo của những tài liệu khác 
nhau [3]. Quan hệ phức tạp giữa các tài liệu 
đã làm cho chỉ từ một tài liệu cụ thể, có thể 
suy ra rất nhiều tài liệu khác từ những mối 
quan hệ này. Ví dụ: Trong CSDL Proquest 
Central, từ bài báo “Libraries as coworking 
spaces Understanding user motivations 
and perceived barriers to social learning” 
của các tác giả M. Bilandzic và M. Foth có 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
7THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
thể truy cập tới: 11 tài liệu trích dẫn tới bài 
báo đó; 41 tài liệu được bài báo đó trích 
dẫn; 12.398 tài liệu liên quan tới các tài 
liệu trích dẫn tới và được luận án trích dẫn 
trong tài liệu tham khảo; 184.542 tài liệu có 
liên quan về nội dung đối với bài báo. Như 
vậy, từ một bài báo cụ thể này, trên cơ sở 
các phân tích trích dẫn, có thể truy cập tới 
trên 195.000 tài liệu (đều có trong CSDL 
Proquest Central) có liên quan ở những 
mức độ và theo các cách thức khác nhau3.
Có thể khẳng định, mô hình cấu trúc 
dữ liệu của nguồn tin lúc này cần phải có 
những khác biệt căn bản so với các kỷ 
nguyên trước đây thì mới có thể xác định 
được thuật toán trên. Tính chất phức tạp, 
đa dạng của quan hệ giữa các tài liệu được 
phản ánh qua mối quan hệ dữ liệu chằng 
chịt giữa chúng cũng đã được nêu trong 
các nghiên cứu về TV thế hệ 4.0. Ở đây, 
cả dữ liệu của tài liệu chủ và cả các dữ liệu 
có liên quan cùng được thể hiện và chịu 
sự tác động của người dùng tin cũng như 
chuyên gia tạo lập nên thông tin một cách 
có kiểm soát [23, p. 793]. Ví dụ, khi một 
người dùng truy cập và trích dẫn đến tài 
liệu trong một nghiên cứu của mình, thì dữ 
liệu về sự tác động đó trong tài liệu được 
trích dẫn lập tức được thay đổi (bổ sung) để 
chỉ số tác động (IF) của tài liệu chủ được 
cập nhật một cách tự động và trong chế 
độ thời gian thực. Như vậy, đương nhiên, 
cùng với sự tồn tại vốn có của các tiêu 
chuẩn như Doublin Core, chắc chắn sẽ 
xuất hiện các phương pháp xử lý thông tin 
mới, các tiêu chuẩn siêu dữ liệu thế hệ mới 
dành cho các hoạt động TT-TV, xuất bản 
trực tuyến sao cho ngay khi mỗi tài liệu 
khoa học được xuất bản, chúng luôn sẵn 
sàng hội nhập vào khối Dữ liệu Lớn chung, 
vào không gian thông tin chung mà thuật 
toán kể trên xem tài liệu đó là đối tượng để 
3 Nguồn: https://db.vista.gov.vn:2352/central/docview/1398001666/fulltextPDF/7C44D88FDF5D4C1BPQ/8accountid=47774.,.
4 Từ năm 2014, nước ta mới có dữ liệu của 2 tạp chí khoa học của Viện Hàn lâm KH&CN Việt Nam (Nano Sciences and Technologies và 
Mathematics) được tích hợp vào Scopus.
xử lý. Chính các tiêu chuẩn này sẽ mang 
đến cho tài liệu trong Dữ liệu Lớn cấu trúc 
dữ liệu mới. Hệ quả của một trữ lượng dữ 
liệu khổng lồ cùng cấu trúc mới của nó đã 
dần làm cho các TV thế hệ 4.0 không còn 
cần tới các sản phẩm dạng tạp chí tóm tắt 
(Abstract Journal, ra đời từ cuối TK 18), 
cũng như nhu cầu phải xác định danh mục 
tạp chí hạt nhân để bổ sung cho từng TV 
(xuất hiện khoảng những năm 1940); cũng 
như không cần các Bảng chỉ dẫn trích dẫn 
(Citation Index, ra đời từ những năm 1950) 
- những sản phẩm đặc trưng đã tồn tại và là 
ưu thế của nhiều thế hệ TV khác nhau. Đấy 
là sự phát triển của TV dưới tác động trực 
tiếp bởi sự phát triển của công nghệ, yếu tố 
căn bản tạo nên sự thay đổi trong phương 
thức thu thập, bổ sung, lưu giữ, bảo quản 
và cung cấp nguồn tin- thành phần cốt lõi 
của các TV. 
Trong phạm vi các thư viện đại học 
(TVĐH), các vấn đề về nguồn tin cần được 
đặc biệt quan tâm bởi lẽ vai trò của chúng 
trong việc tạo sự liên kết, hội nhập của 
nguồn tin khoa học nội sinh (được tạo nên 
từ các hoạt động nghiên cứu, đào tạo của 
chủ thể) với nguồn tin bên ngoài trên tất 
cả các phạm vi [11]. Chức năng này của 
TVĐH trong kỷ nguyên CMCN 4.0 được 
hiểu chính là việc tạo ra một khối lượng 
dữ liệu cụ thể để gia nhập vào không gian 
khổng lồ của Dữ liệu Lớn chung của nhân 
loại, đồng thời còn mang ý nghĩa TV tham 
gia trực tiếp vào quá trình quản trị tri thức 
tại các tổ chức nghiên cứu, đào tạo nói 
chung. Rất tiếc, cho tới lúc này, ở nước ta 
vấn đề này lại chưa được nhìn nhận và giải 
quyết theo như cách cần phải có4. Vì thế, 
sự cát cứ giữa các bộ phận khác nhau của 
nguồn tin nói chung mà TV phải quan tâm 
vẫn còn là vấn đề chưa có giải pháp thống 
nhất và đồng bộ. Thậm chí, điều này còn 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
8 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
tồn tại ngay ở phương diện nhận thức, tại 
nhiều TV, sự cát cứ trên còn chưa được coi 
là vấn đề cần sớm giải quyết.
4. Thư viện số thông minh - Thư 
viện trong kỷ nguyên cách mạng công 
nghiệp 4.0
Năm 2015, Ban Nghiên cứu và kế hoạch 
của Hiệp hội các thư viện Đại học và Thư 
viện nghiên cứu (ACRL) biên soạn báo cáo 
về các khuynh hướng đặc trưng trong hoạt 
động của TVĐH [15]. Báo cáo phác họa 7 
khuynh hướng nổi bật. Khuynh hướng rõ rệt 
nhất liên quan tới quy mô phát triển cũng 
như mối quan hệ chằng chịt của các dữ 
liệu trong khối Dữ liệu Lớn với tính chất là 
nền tảng duy trì hoạt động của TV, điều đã 
được chúng tôi nêu lên ở phần trên. Một lưu 
ý ở đây là báo cáo nhấn mạnh tới xu hướng 
tăng cường sự phối hợp và liên kết chặt chẽ 
giữa TV với các nhà xuất bản trong việc 
phát triển và quản trị nguồn dữ liệu này. 
Tiếp đó, báo cáo đề cập tới khuynh hướng 
TV sử dụng khai thác hệ thống thiết bị có 
chức năng xử lý, lưu giữ, kết nối, truyền 
dữ liệu để phát triển hoạt động, cung cấp 
dịch vụ thông tin, trong đó phải kể tới các 
thiết bị đặc trưng nhất hiện nay dành cho 
NDT (end user): Smartphone, các Iphone, 
Ipad - các thiết bị mobile và mạng kết nối 
wifi nói chung.
Các khuynh hướng thể hiện sự kết nối, 
phối hợp chặt chẽ, linh hoạt giữa TV với 
các hoạt động nghiên cứu đào tạo cũng 
được phân tích đầy đủ để qua đó có thể 
thấy được tính chất của loại hình TV số 
thông minh- khuynh hướng thể hiện rõ tính 
mục tiêu trong hoạt động của TV thế hệ 
4.0. Ví dụ, khuynh hướng để hoạt động TV 
có thể giúp NDT có cơ hội học tập, nghiên 
cứu dựa trên năng lực của bản thân, kết 
quả hoạt động của TV phải gắn chặt với 
sự thành công của người học. TV cần chú 
trọng tới việc đưa ra các trắc lượng để giúp 
NDT có cơ sở xây dựng các đánh giá mang 
tính định lượng đối với mọi thông tin khi 
cần. Ngoài ra, hoạt động của TV cần phải 
mang các giá trị nhân văn đến NDT, tạo 
nên sự giao thoa, hài hòa giữa các phương 
pháp nghiên cứu, học tập mang tính truyền 
thống với các hoạt động của con người gắn 
chặt với môi trường và thiết bị công nghệ 
hiện đại nhất.
Như đã biết, trong môi trường IoT, mọi 
thực thể, trong đó có cả các tri thức đều 
được phản ánh trong một không gian số - 
vì thế mới hình thành nên CPS- đòi hỏi các 
TV không thể đứng ngoài nhiệm vụ quản lý 
tri thức, bởi lúc này, quản lý tri thức tức là 
quản lý động thái của nguồn dữ liệu phản 
ánh tri thức. Cũng vì thế, M. Koloniarivà 
K. Fassoulis đã xác định TVĐH giai đoạn 
hiện nay có chức năng quản lý tri thức. Để 
thực hiện chức năng này, TV có thể triển 
khai một số dịch vụ như: dịch vụ phổ biến 
thông tin chọn lọc, các dịch vụ có liên quan 
tới hệ thống dữ liệu về nguồn nhân lực của 
trường đại học, các dịch vụ và phương tiện 
duy trì việc trao đổi thông tin trên mọi phạm 
vi  [8, p. 137-138].
Điểm then chốt của TV số thông minh 
là khả năng đáp ứng linh hoạt nhu cầu 
của NDT (cá nhân, cộng đồng) trên nền 
tảng nguồn tin và các dịch vụ thông tin trực 
tuyến. Ở đây, TV số được phát triển theo 
hướng hỗ trợ tích cực cho quá trình phát 
triển hoạt động nghiên cứu, đào tạo trên 
môi trường số. TV số thông minh lúc này 
chính là một bộ sưu tập trực tuyến được 
kết nối với các nguồn tin khác nhau trong 
một hệ thống liên thông, hầu như không bị 
giới hạn (không gian thông tin chung) và 
các nhà quản lý cung cấp các dịch vụ cho 
NDT theo hướng chú trọng tới các dịch vụ 
cá thể hóa (personalised services), nhằm 
tạo ra các sản phẩm dành riêng cho mỗi 
người (tailored). Mặt khác, ngoài việc phát 
triển các dịch vụ gắn liền với nền tảng là 
nguồn tin trực tuyến, thì các dịch vụ hướng 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
tới hỗ trợ người dùng trong việc tiến hành 
việc trao đổi, chia sẻ thông tin trong nghiên 
cứu, đào tạo; các dịch vụ trực tiếp hỗ trợ 
quá trình giao lưu khoa học cũng đang trở 
thành xu hướng nổi bật của TV [13,15, 23].
Các dịch vụ của TV số thông minh bao 
gồm: Trích xuất dữ liệu từ các tài liệu số: 
tạo giá trị cho siêu dữ liệu, nhập giá trị và 
kiểm tra tính toàn vẹn của dữ liệu5; tạo biểu 
ghi siêu dữ liệu phù hợp; lập chỉ số biểu ghi 
siêu dữ liệu: duy trì chỉ số của siêu dữ liệu; 
quản lý dữ liệu: nhận diện nội dung, lưu 
trữ, bảo quản và xóa dữ liệu; xếp hạng dữ 
liệu: so sánh tài liệu dựa trên trắc lượng6; 
chọn lọc dữ liệu: đối chiếu độ chính xác với 
nội dung tìm; tìm tin: mã hóa và sử dụng tri 
thức ngành, xếp hạng và tìm kiếm; nhận 
diện và sử dụng: nhận diện bản sao, chia 
sẻ và tái sử dụng nội dung; trao đổi, chia 
sẻ...: sao chụp, tải và truyền tải nội dung; 
phân phối, phân đoạn: chuyển dữ liệu từ 
nơi này sang nơi khác; theo dõi bổ sung: 
cung cấp số liệu thống kê như phần mềm, 
mô hình và tính hữu dụng của nội dung; hỗ 
trợ, kích thích: cung cấp các báo cáo đến 
từng chủ thể đóng góp nội dung số, các 
phần mềm ...[9, p. 474].
Có thể nói, hệ thống dịch vụ đa dạng, 
đủ phủ kín mọi loại nhu cầu của NDT 
đã trở thành hồn cốt của TV kỷ nguyên 
CMCN 4.0. Một trong các phương tiện 
được sử dụng tích cực nhất trong TV kỷ 
nguyên này chính là các thiết bị di động và 
đường kết nối mạng không dây. Các tác giả 
Wei-Hsiang Hung, Lih-Juan ChanLin trên 
cơ sở các thống kê của mình đã chỉ ra: 
ngày nay, hầu hết các sinh viên đều rất 
hài lòng khi sử dụng mạng di động để khai 
thác, truy cập, tìm kiếm, trao đổi thông tin 
[20, p. 264].
5 Các dịch vụ ở nhóm này cho phép khả năng cá thể hóa, chọn lọc thông tin phù hợp với nhu cầu của mỗi cá nhân người dùng.
6 Ở đây có sử dụng các phương pháp nghiên cứu trong Trắc lượng thư mục (Bibliometrics), Trắc lượng web (Webometrics)
7 Ý muốn nói tới sự thay đổi về thông tin diễn ra trong thời gian thực dưới tác động của việc tạo lập, khai thác, sử dụng thông tin của mọi 
chủ thể và hệ thống có kiểm soát.
Kết luận
Trên thực tế, do mới được hình thành 
(khoảng từ 2015) nên chưa tồn tại một định 
nghĩa chính xác, chặt chẽ giúp nhận diện 
rõ chân dung, hình hài của TV thế hệ 4.0. 
Tuy vậy, để gợi mở về bản chất, nội dung 
của TV kỷ nguyên CMCN 4.0, một số nhà 
nghiên cứu cho rằng, gắn liền với TV lúc này 
là các từ khóa: TV số thông minh, Nguồn 
tin mở (Open Source), Dữ liệu Lớn, Các 
dịch vụ đám mây (Cloud Service), Hiển thị 
tức thì (State-of-the-Art Display), Cập nhật 
tức thì (Augmented Reality)7, Công nghệ 
nhận thức cảm ngữ cảnh (Context-Aware 
Technology), TV - không gian kích thích 
sáng tạo (MakerSpace), cán bộ TV thế hệ 
4.0 [23, p. 795].
Tiếp cận từ kết quả hoạt động của TV 
mang lại cho người dùng, chúng tôi cho 
rằng, TV kỷ nguyên CMCN 4.0 sẽ tham 
gia/tích hợp vào mọi hoạt động của cộng 
đồng NDT, nhằm đáp ứng được mọi loại 
nhu cầu tin phong phú và đa dạng của họ. 
Với việc ứng dụng công nghệ thông tin và 
truyền thông một cách mạnh mẽ, các TV 
trong kỷ nguyên CMCN 4.0 tạo nên thế 
giới phẳng - một thế giới giúp NDT bình 
đẳng trước các cơ hội, điều kiện tiếp nhận, 
sử dụng thông tin và kết nối lẫn nhau. Hy 
vọng, chúng tôi cũng sẽ nhận được quan 
điểm của các đồng nghiệp về thế hệ TV 
mới này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bortolini M., etc, (2017), Assembly 
system design in the Industry 4.0 era: a general 
framework .// IFAC PapersOnLine Vol. 50, Issue 
1, pp. 5700-5705
2. Breeding M. (2015), “Introduction and 
Concepts: Chapter 1 Library Services Platforms: A 
Maturing Genre of Products”, Library Technology 
Reports, May/June 2015, pp.1-19.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
10 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 5/2018
3. Cao Minh Kiểm, Trần Mạnh Tuấn, Nguyễn 
Hữu Viêm (2009). Những thông tin cơ bản về trắc 
lượng thư mục.// Thông tin & Tư liệu. 2009. Số 
2. Tr. 2-20.
4. Günther S., etc(2014), Collaboration 
Mechanisms to increase Productivity in the 
Context of Industrie 4.0: Robust Manufacturing 
Conference (RoMaC 2014)// Procedia CIRP,Vol. 
19, pp. 51 - 56.
5. Hệ thống trắc lượng thư mục hỗ trợ nghiên 
cứu khoa học./ Nguyễn Tú Quyên d. Nguồn:http://
www.site.vjol.info/index.php/VJIAD/article/
view/29767/25389, 
6. Hofmann E., Rüsch M. (2017). Industry 4.0 
and the current status as well as future prospects 
on logistics.// Computers in Industry, Vol. 89, pp. 
23-34.
7. Hồ Tú Bảo (2017). Hiểu về cách mạng 
công nghiệp lần thứ 4. Nguồn:https://vnexpress.
net tin-tuc/khoa-hoc/hieu-ve-cach-mang-cong-
nghiep-lan-thu-4-3574624.html.
8. Koloniari M.,Fassoulis K.(2017). Knowledge 
Management Perceptions in Academic Libraries.//
The Journal of Academic Librarianship , Vol. 43, 
pp. 135-142.
9. Leidig J.P., Fox E.A., (2014). “Intelligent 
digital libraries and tailored services”, Journal 
of Intelligent Information System, Vol. 43, 
pp. 463-480.
10. Neugebaeur R., etc (2016). Industrie 4.0 
- From the respective of applied research: 49th 
CIRP Conference on Manufacturing Systems 
(CIRP -CMS 2016).// Procedia CIRP, Vol. 57, 
pp.2-7. 
11. Nguyễn Hữu Hùng (2014). Hình thành và 
phát triển không gian thông tin khoa học và công 
nghệ ở Việt Nam.//Thông tin & Tư liệu. 2014. Số 
1. tr. 4-13
12. Oliff H., Ying Liu (2017) .Towards Industry 
4.0 Utilizing Data-Mining Techniques: a Case 
Study on Quality Improvement: The 50th CIRP 
Conference on Manufacturing Systems.// 
Procedia CIRP, Vol. 63 ,pp. 167 - 172
13. Redefining the Academic Library: Managing 
the Migration to Digital Information Services 
(2011). Advisory Board Company, McMaster 
University, Ontario.
14. Rennung F., etc, (2016). Service Provision 
in the Framework of Industry 4.0: SIM 2015 / 
13th International Symposium in Management// 
Procedia - Social and Behavioral Sciences , Vol. 
221 , pp. 372 - 377.
15. Research Planning and Review Committee 
(ACRL) (2015). 2014 Top Trends in Academic 
Libraries: A review of the trends and issues 
affecting academic libraries in higher education. 
Nguồn:
short?rss =1&ssource =mfr ,truy cập ngày 
20/4/2015.
16. Santos K., etc (2017). Opportunities 
Assessment of Product Development Process 
in Industry 4.0: 27th International Conference on 
Flexible Automation and Intelligent Manufacturing, 
FAIM2017, 27-30 June 2017, Modena, Italy// 
Procedia Manufacturing, Vol. 11, pp. 1358-1365.
17. Trần Mạnh Tuấn (2015). Trắc lượng thư 
mục: Các chỉ số phổ biến - Việc ứng dụng và vấn 
đề đào tạo ngành thông tin-thư viện.// Thông tin& 
Tư liệu. 2015, Số 1, tr. 13-22.
18. Tương lai của các thư viện-khởi đầu sự 
dịch chuyển lớn./ Nguyễn Thị Hạnh d. Nguồn: 
view/24948/21342,.
19. Vũ Duy Hiệp (2016). Hướng tới thư viện 
số thông minh.// Kỷ yếu hội thảo khoa học trung 
tâm TTTV Đại học Quốc gia Hà Nội, 2017, tr32. 
20. Wei-Hsiang Hung, Lih-Juan ChanLin, 
(2015). Development of Mobile Web for the 
Library: 7th World Conference on Educational 
Sciences, (WCES-2015), 05-07 February 2015, 
Novotel Athens Convention Center, Athens, 
Greece.// Procedia - Social and Behavioral 
Sciences, Vol. 197, pp. 259 - 264.
21. Weyer S,etc,(2015), Towards Industry 
4.0 - Standardization as the crucial challenge 
for highly modular, multi-vendor production 
systems // IFAC-PapersOnLine, Vol.48, Issue 3, 
pp.579-584.
22. Zezulka F.,etc, (2016). Industry 4.0 - 
An Introduction in the phenomenon ,// IFAC-
PapersOnLine, Vol 49, Issue 25 , pp.8-12.
23. Younghee Noh, (2015). Imagining Library 
4.0: Creating a Model for Future Libraries.//The 
Journal of Academic Librarianship, Vol. 41, 
pp.786-797.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 24-5-2018; 
Ngày phản biện đánh giá: 10-7-2018; Ngày chấp 
nhận đăng: 15-8-2018).

File đính kèm:

  • pdfthu_vien_trong_ky_nguyen_cach_mang_cong_nghiep_4_0.pdf