Thử tìm hiểu một số lập luận tại nghị trường quốc hội Việt Nam từ quan điểm tích hợp logic học, ngữ dụng học

Trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác

nhau về lập luận. Tuy những nhận định về lập

luận có thể khác nhau ở phạm vi, mục đích,

nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất

rằng lập luận được dùng với hai ý nghĩa. Một

là, kết quả của quá trình đưa ra các lí lẽ để đạt

được mục đích nói năng. Hai là, chỉ hành

động người nói đưa ra lí lẽ để đạt được mục

đích nói năng. Lập luận được coi là nhân tố

không thể thiếu trong “nghệ thuật lời nói” từ

thời cổ đại. Sau đó, lập luận được nói đến

trong tác phẩm “Tu từ học” của Arittole

(1947). Tuy nhiên, phải từ những năm cuối

thế kỉ XX trở lại đây, nó mới là đối tượng

nghiên cứu chính của nhiều nhà nghiên cứu từ

nhiều ngành khoa học (logic học, ngôn ngữ

học, triết học ) với nhiều quan điểm tiếp cận

khác nhau (logic hình thức, logic phi hình

thức, dụng học biện chứng, chủ nghĩa lập luận

triệt để ). Mỗi một quan điểm tiếp cận lại có

ưu thế riêng trong việc khám phá, phát hiện

những đặc điểm của lập luận gắn liền với mục

tiêu đặt ra từ hướng nghiên cứu ấy. Ví dụ, mô

hình lập luận của Toulmin đã cho thấy góc

nhìn cụ thể về cách thức suy luận của một lập

luận. Tuy nhiên, hạn chế trong nghiên cứu

của Toulmin (1958) [1] là chủ yếu xem xét

kiểu lập luận tam đoạn luận; nhưng, với

những lập luận trong thực tế, cần bổ sung

phương pháp miêu tả triệt để để có thể tái cấu

trúc lập luận theo mô hình của Toulmin. Khi

đó, quan điểm miêu tả triệt để của O. Ducrot

(1980, 1983, 1986) [2] rất có giá trị. Bên cạnh

đó, lý thuyết của Toulmin và O. Ducrot không

đủ để đánh giá các lập luận thực tế đặt trong

mối quan hệ với bối cảnh lập luận. Quan điểm

biện chứng của logic phi hình thức (Walton,

1989, 1995) [3], [4] và ngữ dụng học

(Eemeren, 1999, 2009, 2010) [1], [5], [6] đã

khắc phục được điều đó.

pdf 8 trang kimcuc 7440
Bạn đang xem tài liệu "Thử tìm hiểu một số lập luận tại nghị trường quốc hội Việt Nam từ quan điểm tích hợp logic học, ngữ dụng học", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thử tìm hiểu một số lập luận tại nghị trường quốc hội Việt Nam từ quan điểm tích hợp logic học, ngữ dụng học

Thử tìm hiểu một số lập luận tại nghị trường quốc hội Việt Nam từ quan điểm tích hợp logic học, ngữ dụng học
 ISSN: 1859-2171 
e-ISSN: 2615-9562 
TNU Journal of Science and Technology 225(07): 154 - 161 
154  Email: jst@tnu.edu.vn 
THỬ TÌM HIỂU MỘT SỐ LẬP LUẬN TẠI NGHỊ TRƯỜNG QUỐC HỘI 
VIỆT NAM TỪ QUAN ĐIỂM TÍCH HỢP LOGIC HỌC, NGỮ DỤNG HỌC 
Nguyễn Diệu Thương 
Trường Đại học Sư phạm - ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Từ những năm cuối thế kỉ XX trở lại đây, trên thế giới, lập luận là đối tượng nghiên cứu chính của 
nhiều nhà nghiên cứu từ nhiều ngành khoa học (logic học, ngôn ngữ học, triết học...) với nhiều 
quan điểm tiếp cận. Mỗi một quan điểm tiếp cận lại có những ưu thế riêng. Để đánh giá triệt để 
một lập luận thực tế đòi hỏi phải có cách tiếp cận đa chiều. Vì vậy, bài viết đặt ra vấn đề cách thức 
vận dụng quan điểm tích hợp logic học, ngữ dụng học để xem xét lập luận qua một trường hợp cụ 
thể - một số lập luận tại nghị trường Quốc hội Việt Nam. Bài viết sử dụng phương pháp nghiên 
cứu định tính. Bằng thủ pháp miêu tả và phân tích diễn ngôn, bài viết sẽ minh họa một phương 
pháp đánh giá lập luận trong thực tế từ cách nhìn toàn diện. 
Từ khóa: Ngôn ngữ học; lập luận; nghị trường Quốc hội Việt Nam; logic học; ngữ dụng học. 
Ngày nhận bài: 24/4/2020; Ngày hoàn thiện: 20/5/2020; Ngày đăng: 22/5/2020 
ATTEMPTING TO UNDERSTAND SOME ARGUMENTS 
AT THE VIETNAMESE PARLIAMENT FROM THE APPROACH 
OF INTEGRATING LOGIC AND PRAGMATICS 
Nguyen Dieu Thuong
TNU - University of Education 
ABSTRACT 
From the last years of the twentieth century until now, in the world, the argument is the main 
research object of many researchers from many sciences (logic, linguistics, philosophy ...) with 
many approaches. Each approach has its advantages. To thoroughly evaluate a practical argument 
requires a multidimensional approach. Therefore, the article raises the question of how to apply the 
view of integrating logic, pragmatics to consider arguments through a specific case (some 
arguments in the National Assembly of Vietnam). The paper uses qualitative research methods. By 
describing and analyzing discourse, the paper illustrates a method of assessing arguments in 
practice from a multidimensional perspective. 
Keywords: Linguistics; arguments; the National Assembly of Vietnam; logic; pragmatics. 
Received: 24/4/2020; Revised: 20/5/2020; Published: 22/5/2020 
Email: dieuthuong2212@gmail.com
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 155 
1. Giới thiệu 
Trên thế giới có nhiều cách định nghĩa khác 
nhau về lập luận. Tuy những nhận định về lập 
luận có thể khác nhau ở phạm vi, mục đích, 
nhưng các nhà nghiên cứu đều thống nhất 
rằng lập luận được dùng với hai ý nghĩa. Một 
là, kết quả của quá trình đưa ra các lí lẽ để đạt 
được mục đích nói năng. Hai là, chỉ hành 
động người nói đưa ra lí lẽ để đạt được mục 
đích nói năng. Lập luận được coi là nhân tố 
không thể thiếu trong “nghệ thuật lời nói” từ 
thời cổ đại. Sau đó, lập luận được nói đến 
trong tác phẩm “Tu từ học” của Arittole 
(1947). Tuy nhiên, phải từ những năm cuối 
thế kỉ XX trở lại đây, nó mới là đối tượng 
nghiên cứu chính của nhiều nhà nghiên cứu từ 
nhiều ngành khoa học (logic học, ngôn ngữ 
học, triết học) với nhiều quan điểm tiếp cận 
khác nhau (logic hình thức, logic phi hình 
thức, dụng học biện chứng, chủ nghĩa lập luận 
triệt để). Mỗi một quan điểm tiếp cận lại có 
ưu thế riêng trong việc khám phá, phát hiện 
những đặc điểm của lập luận gắn liền với mục 
tiêu đặt ra từ hướng nghiên cứu ấy. Ví dụ, mô 
hình lập luận của Toulmin đã cho thấy góc 
nhìn cụ thể về cách thức suy luận của một lập 
luận. Tuy nhiên, hạn chế trong nghiên cứu 
của Toulmin (1958) [1] là chủ yếu xem xét 
kiểu lập luận tam đoạn luận; nhưng, với 
những lập luận trong thực tế, cần bổ sung 
phương pháp miêu tả triệt để để có thể tái cấu 
trúc lập luận theo mô hình của Toulmin. Khi 
đó, quan điểm miêu tả triệt để của O. Ducrot 
(1980, 1983, 1986) [2] rất có giá trị. Bên cạnh 
đó, lý thuyết của Toulmin và O. Ducrot không 
đủ để đánh giá các lập luận thực tế đặt trong 
mối quan hệ với bối cảnh lập luận. Quan điểm 
biện chứng của logic phi hình thức (Walton, 
1989, 1995) [3], [4] và ngữ dụng học 
(Eemeren, 1999, 2009, 2010) [1], [5], [6] đã 
khắc phục được điều đó. 
Trong khi nghiên cứu về lập luận đã và đang 
là xu thế phát triển mạnh mẽ trên thế giới; 
tính đến thời điểm hiện tại, Việt Nam mới chỉ 
có một vài giáo trình nghiên cứu sơ giản của 
các tác giả: Đỗ Hữu Châu (1996) [2], Nguyễn 
Đức Dân (1998) [7] và một số bài báo, luận 
văn, luận án của các học viên cao học [8]. 
Nghiên cứu lập luận chưa được chú ý thỏa 
đáng tại Việt Nam không chỉ ở số lượng các 
công trình mà còn bởi sự hạn chế trong 
phương pháp tiếp cận (chủ yếu dừng lại xem 
xét lập luận trên cứ liệu tiếng Việt theo quan 
điểm miêu tả của O. Ducrot) [9]. Vì thế, kết 
quả nghiên cứu tại Việt Nam chủ yếu là các 
công trình miêu tả lại cấu trúc của một lập 
luận để xác định các thành tố trong cấu trúc 
lập luận độc lập. Chúng chưa được xem xét 
với tư cách là một hành vi ngôn ngữ đặt trong 
mối quan hệ ngữ cảnh. 
Một lập luận thực tế được đặt trong ngữ cảnh 
gắn với các mục đích sử dụng khác nhau. Vì 
vậy, xem xét một lập luận thực tế đặc biệt là 
lập luận trong tranh luận đòi hỏi phải linh 
hoạt nhìn ở nhiều hướng tiếp cận khác nhau 
để xem xét toàn diện, triệt để. Mục đích của 
tranh luận là bàn cãi vấn đề một cách thuyết 
phục với lý lẽ hợp lý. Điều này là tối quan 
trọng trong tranh luận tại nghị trường Quốc 
hội vì khi đó tranh luận là để giải quyết các 
vấn đề quan trọng của một quốc gia. Xem xét 
tranh luận (qua phiên chất vấn và trả lời chất 
vấn) tại nghị trường Quốc hội sẽ giúp chúng 
ta nhận ra năng lực của các đại biểu (ĐB) 
Quốc hội và hiệu quả của các cuộc tranh luận. 
Với quan điểm này, chúng tôi xác định hướng 
tiếp cận nghiên cứu lập luận trong tranh luận 
tại nghị trường Quốc hội Việt Nam từ các 
quan điểm tiếp cận: O. Ducrot (chủ nghĩa lập 
luận triệt để), S. Toulmin (logic hình thức), D. 
Walton (quan điểm logic phi hình thức biện 
chứng), Eemeren (ngữ dụng học biện chứng). 
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ vận 
dụng quan điểm tích hợp nêu trên để phân 
tích đặc điểm lập luận qua lời chất vấn và trả 
lời chất vấn của các đại biểu Quốc hội tại 
nghị trường Quốc hội Việt Nam qua ngữ liệu 
của một phiên họp (xác suất ngẫu nhiên). 
2. Phương pháp nghiên cứu, nguồn tư liệu 
Đối tượng nghiên cứu là lập luận thực tế nên 
cấu trúc lập luận thường hàm ẩn bởi lớp ngôn 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 156 
từ. Vì vậy, trước khi sơ đồ hóa và khái quát, 
đánh giá các lập luận trong tranh luận tại nghị 
trường Quốc hội Việt Nam, tác giả sẽ phân 
tích, miêu tả các lập luận bằng lý thuyết lập 
luận theo quan điểm triệt để của O. Ducrot 
(miêu tả các từ ngữ thể hiện quan hệ lập luận 
và định hướng lập luận, từ ngữ là cơ sở đánh 
giá sức mạnh lập luận,). Từ đó xác định các 
yếu tố trong cấu trúc lập luận theo mô hình lập 
luận của S. Toulmin. Khi xem xét các yếu tố 
phản bác (rebuttal-R) hoặc biện minh (warrant-
W), hỗ trợ biện minh (backing of warrant-BW) 
trong lập luận, ngoài cơ sở là các tiêu chí về 
tính hợp lý (lí lẽ), tính chắc chắn (tuyên bố- kết 
luận), tính thuyết phục (mạnh, yếu đáp ứng 
xem xét toàn diện khi tính đến khả năng phản 
bác); chúng tôi còn đánh giá lập luận dựa trên 
tính quan yếu (xem lập luận là hành vi ngôn 
ngữ) gắn với sự tương tác hội thoại theo quan 
điểm Walton và Eemeren. Thêm vào đó, để 
đánh giá sự năng động trong vận động hội 
thoại tranh luận, chúng tôi xem xét đến lược đồ 
tranh luận trong các trường hợp này. Như vậy, 
phương pháp nghiên cứu định tính là phương 
pháp nghiên cứu được sử dụng trong bài viết 
này. Phương pháp này được triển khai cụ thể 
bởi thủ pháp miêu tả và phân tích diễn ngôn. 
Để minh họa cho phương pháp nghiên cứu 
này, chúng tôi sử dụng ngữ liệu của một phiên 
họp (có tính xác xuất) tại kỳ họp thứ 9, Quốc 
hội khóa XIII (được chúng tôi thu thập từ 
website chính thức của Quốc hội Việt Nam: 
 [10]. 
3. Kết quả nghiên cứu và bàn luận 
3.1. Thử phân tích lập luận trong diễn ngôn 
chất vấn và trả lời chất vấn 
Trước hết, “chất vấn là một thủ tục (hình 
thức) được Quốc hội áp dụng để giám sát hoạt 
động của các cơ quan và các quan chức Nhà 
nước được giao quyền. Mục đích của chất vấn 
là để làm rõ trách nhiệm và kiểm tra năng lực 
của các quan chức trong việc nắm bắt và điều 
chỉnh lĩnh vực được phân công” (dẫn ý từ 
[11]). Vì vậy, các câu hỏi chất vấn thường 
nêu ra tính bất hợp lý trong các sự kiện trên 
mọi phương diện của quốc gia. Về lý thuyết, 
cấu trúc lập luận được ưa dùng sẽ là các câu 
mang ý nghĩa tương phản, đối lập. Cho nên, 
một câu hỏi chất vấn đảm bảo tính thuyết 
phục, trước hết, thường có thể tường minh ở 
dạng: A nhưng B, nên C (phải “hỏi”). Dạng 
thức cấu trúc lập luận này thể hiện tính chất 
phản biện tốt. Đây là trường hợp đặc biệt của 
lập luận vì có dạng kết luận là một câu hỏi. 
Nếu chỉ xem xét cấu trúc nội tại theo sơ đồ 
của Toulmin thì sẽ rất khó lí giải tại sao câu 
hỏi lại chính là kết luận mà người nói muốn 
hướng đến. Tuy nhiên, thực tế chất vấn tại 
nghị trường Quốc hội, mô hình lập luận này 
không được trình bày rõ ràng, tường minh bởi 
một là, thành phần trong cấu trúc lập luận đã 
bị tỉnh lược (cấu trúc lập luận ở dạng không 
đầy đủ); hai là, thiếu tính mạch lạc, quan yếu 
(là một dạng lỗi). Xem xét diễn ngôn chất vấn 
trong các trường hợp sau: 
(1) Tôi có một câu hỏi gửi tới Bộ trưởng. Với 
góc độ của Bộ nông nghiệp và Phát triển 
nông thôn, theo Bộ trưởng thì trong các khâu 
sản xuất nông nghiệp, như vấn đề cơ cấu của 
ngành, kế hoạch sản xuất, vấn đề giống, tiêu 
thụ sản phẩm v.v... hiện nay, đâu là khâu yếu 
nhất ảnh hưởng tới sự phát triển bền vững 
của nền nông nghiệp Việt Nam? Trong đó, 
trách nhiệm của Bộ trưởng có hay không và 
trách nhiệm như thế nào? Cách chịu trách 
nhiệm ra sao? Biện pháp gì của Bộ trưởng để 
khắc phục, để nền nông nghiệp Việt Nam phát 
triển bền vững trong thời gian tới? Xin cảm 
ơn Bộ trưởng. 
Diễn ngôn trên có sử dụng 3 dạng câu hỏi: 1, 
đâu, gì? 2, có hay không? 3, ra sao? 
Nhưng tại thời điểm bắt đầu phát ngôn, đại 
biểu thông báo rằng chỉ có một câu hỏi. Như 
vậy, không có sự nhất quán, logic. Bên cạnh 
đó, ba câu hỏi mà đại biểu nêu ra đều không 
dựa trên một căn cứ thực tiễn xác định (lập 
luận không xuất phát từ các tiền đề cơ sở- vô 
căn cứ). Với cách hỏi tương tự, chúng ta có 
thể hỏi cho bất cứ ngành nào. Vì vậy, đây là 
một dạng lập luận sai trong ngữ cảnh chất 
vấn. Diễn ngôn này có đích ở lời không vì 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 157 
mục đích chất vấn mà “hỏi” là “để biết”, là để 
được cung cấp thông tin. 
(2) Trước hết, xin cảm ơn Bộ nông nghiệp và 
phát triển nông thôn và Bộ trưởng đã có rất 
nhiều quan tâm đến Ninh Thuận. Trong phần 
trả lời chất vấn từ sáng tới giờ Bộ trưởng 
cũng đã nhắc đến Ninh Thuận rất nhiều. Tôi 
xin chất vấn Bộ trưởng một câu hỏi nhỏ: Sau 
40 năm thống nhất đất nước thì chúng ta đã 
đạt được rất nhiều thành tựu trong lĩnh vực 
nông nghiệp. Tuy nhiên, ở một góc độ nhỏ 
cho thấy sản xuất thực phẩm sạch của chúng 
ta được coi là phát triển theo hướng quay lại 
sản xuất nhỏ, tự cung, tự cấp. Những gia đình 
có điều kiện hoặc đại gia đi mua đất để trồng 
rau sạch và thực phẩm sạch để phục vụ cho 
gia đình và người thân. Còn đa số người dân 
hàng ngày phải sử dụng thực phẩm không có 
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng với đủ các loại 
thuốc trừ sâu và thuốc kích thích. Chúng ta 
cũng chưa kiểm soát được các thuốc kích 
thích và thuốc bảo vệ thực vật trôi nổi trên thị 
trường, người dân cứ thấy lợi và làm, bất 
chấp sức khỏe, kể cả tính mạng của cộng 
đồng. Theo Bộ trưởng thì làm thế nào để có 
được thực phẩm sạch cung cấp cho toàn dân. 
Xin hết ý kiến. Xin cảm ơn Bộ trưởng. 
Ngoài các yếu tố cơ bản làm nên nội dung của 
các thành tố chính trong cấu trúc lập luận, 
diễn ngôn trên còn sử dụng một số từ ngữ tình 
thái chủ quan thể hiện mối quan hệ giữa chủ 
thế phát ngôn với sự tình trong phát ngôn và 
mối quan hệ liên nhân. Trước hết, đó là các 
yếu tố tình thái nhận thức đánh giá về lượng 
rất nhiều, nhỏ, đa số. Phó từ rất trong cụm 
tính ngữ thể hiện mức độ đánh giá cao về 
lượng một cách điển hình. Bản thân các tính 
từ nhiều, nhỏ và lượng từ đa số không mang 
sắc thái chủ quan của người nói. Tuy nhiên, 
trong tình huống mà người nói không đưa ra 
các căn cứ cụ thể cho sự so sánh để khẳng 
định cho đánh giá về lượng sẽ tương đương 
với cách sử dụng các từ ngữ chỉ sự tri giác 
hiện tượng (tôi nghĩ, tôi thấy, tôi cho rằng). 
Điều đó sẽ làm giảm mức độ chắc chắn của 
lập luận ngay cả khi kết luận của lập luận là 
đúng. Những chỗ không chắc chắn như vậy sẽ 
là cơ sở cho sự phản bác. 
Bên cạnh đó, trong diễn ngôn (2), ĐB đã sử 
dụng 4 lần từ xin. Khi sử dụng từ tình thái này 
(xin chất vấn), một cách gián tiếp, các ĐB 
quốc hội đã thể hiện mức độ mạnh/ yếu của 
hành vi điều khiển. Xét trong ngữ cảnh vai 
giao tiếp (đại diện cho tiếng nói của cử tri), 
phần nào giúp chúng ta đánh giá về “bản 
lĩnh” chính trị của ĐB. 
Từ đó, để có thể phản biện một cách có hiệu 
quả, các ĐB Quốc hội cần có không chỉ là sự 
tinh thông về vấn đề được đề cập mà còn rất 
cần năng lực sử dụng ngôn từ; bản lĩnh thể 
hiện vai trò, trách nhiệm qua hành vi cam kết 
tự thân trong phát ngôn chất vấn. 
3.2. Thử phân tích lập luận trong sự vận 
động tương tác của hội thoại tranh luận 
Mỗi tham thoại trong hội thoại tranh luận là 
một lập luận. Lập luận khi này chính là một 
hành vi ngôn ngữ. Vì thế, đích ở lời trong mỗi 
hành vi lập luận chính là kết luận trong cấu 
trúc lập luận nội tại được xem xét trong ngữ 
cảnh hội thoại. Để đánh giá được sự năng 
động của cuộc hội thoại (chất lượng của cuộc 
tranh luận) cần đánh giá kiểu lược đồ lập luận 
được tiến hành. Chúng ta có thể tìm hiểu qua 
ví dụ sau: 
(3) Hiện nay ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, 
trong đó có Thái Bình, có tình trạng nông dân 
không thiết tha với đất lúa, do hiệu quả cây lúa 
mang lại không cao. Năm 2014 Chính phủ 
quyết định chi hơn 470 tỷ đồng để thực hiện 
việc bảo vệ, phát triển đất lúa. Vậy tiêu chí 
như thế nào thì được Chính phủ hỗ trợ. Thái 
Bình có phải là tỉnh phải bảo vệ và phát triển 
đất lúa hay không? Xin cảm ơn Bộ trưởng. 
Chúng ta có thể phân tích để sơ đồ hóa logic 
lập luận của lời chất vấn trên. Lời chất vấn trên 
có 3 tuyên bố tạo nên ba bước lập luận: 1, hiệu 
quả cây lúa không cao nên nông dân không 
thiết tha với đất lúa; 2, nông dân không thiết 
tha với đất lúa nên Chính phủ đã quyết định 
chi 470 tỷ đồng để thực hiện việc bảo vệ, phát 
triển đất lúa; 3, tiêu chí được Chính phủ hỗ trợ 
là gì và Thái Bình có phải bảo vệ và phát triển 
đất lúa không? Ta có thể tường minh hóa các 
bước suy luận theo mô hình Tuolmin: 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 158 
- Bước 1: đồng bằng sông Hồng, hiệu quả cây 
lúa mang lại không cao (D1) nông dân không 
thiết tha với đất lúa (C1). Cơ sở biện minh 
(W1) (lẽ thường): người ta chỉ làm những 
việc mà cho rằng sẽ mang lại hiệu quả. 
- Bước 2: D2’ = C1: nông dân không thiết tha 
với đất lúa; D2’’ (thực tế - tiền giả định ngầm 
ẩn): lúa là cây trồng thế mạnh trong ngành 
nông nghiệp Việt Nam; W2: cần phải duy trì 
phát triển ngành trọng điểm, thế mạnh của 
quốc gia; C2: chính phủ quyết định chi hơn 
470 tỷ đồng để thực hiện việc bảo vệ, phát 
triển đất lúa. 
- Bước 3: 
C2= D3’ 
D3” (dữ liệu thực tế - tiền giả định ngầm ẩn): 
đã có các vùng đất lúa được hỗ trợ; D3”’ (dữ 
liệu thực tế - tiền giả định ngầm ẩn): Thái Bình 
chưa nhận được kinh phí; W3 (lí lẽ thang độ) 
các vùng trồng lúa khác được hỗ trợ kinh phí, 
Thái Bình có qui mô và tầm quan trọng hơn thì 
càng phải được ưu tiên hơn khi hỗ trợ; BW3 
(dữ liệu thực tế - tiền giả định ngầm ẩn): Thái 
Bình là một trong những vựa lúa lớn nhất đồng 
bằng sông Hồng, thậm chí cả nước; C3 (lời 
chất vấn): Tiêu chí nào thì được Chính phủ hỗ 
trợ? Thái Bình có phải tỉnh phải bảo vệ đất lúa 
không? (chất vấn về một sự thật hiển nhiên để 
hàm ý thể hiện thái độ phê bình việc thực hiện 
chính sách thiếu sót). 
Chúng ta có thể mô hình hóa lại quá trình lập 
luận này như sơ đồ hình 1: 
Hình 1. Sơ đồ lập luận [3] 
Trong sơ đồ lập luận này, cả ba bước lập luận 
đều thiếu yếu tố hạn định (qualifier) theo mô 
hình Toulmin. Chính điều này là cơ sở để đại 
biểu hỏi về sự hạn định trong kết luận C2. 
Tiêu chuẩn và đối tượng của tuyên bố C2 
không được cụ thể hóa hay hạn định trong 
phát ngôn này (đây là phát ngôn thuật lại 
Nghị quyết của Chính phủ). Nếu theo cách 
hiểu không chặt chẽ thì C2 được hiểu là dành 
cho các vùng đất lúa nói chung. Và như vậy, 
theo lí lẽ thang độ W3, vùng đất lúa Thái 
Bình đáng lẽ phải được hỗ trợ đầu tiên. Dù có 
như vậy, nhưng thay vì kết luận tường minh, 
người nói đã đặt các câu hỏi chất vấn chính là 
yếu tố hạn định (sự không chắc chắn có hay 
không có tiêu chí/ cơ sở nào đó mà Thái Bình 
không phải là vùng đất được xét hỗ trợ). Đưa 
ra sự hạn định trong phát ngôn kết luận là để 
ngừa trước tình huống phản bác (nếu có). Vậy 
nên, câu hỏi chất vấn ở đây là rất chặt chẽ, 
khách quan và đảm bảo sức thuyết phục (sức 
mạnh) của lập luận. 
(4) Thưa Quốc hội, Chính phủ đã ban hành 
Nghị định 42 về quản lý đất lúa, trong đó 
chúng ta đưa ra những chính sách để ngăn 
cản việc chuyển đổi một cách quá dễ dãi đất 
lúa sang những mục đích khác, đặc biệt là 
các mục đích phi nông nghiệp, như là làm các 
khu đô thị, xây dựng khu dân cư v.v... vui chơi 
giải trí, sân golf. Nhờ có Nghị định số 35 đó 
thì mỗi năm chuyển 50 nghìn hecta đất lúa 
sang việc khác, đến nay giảm xuống chỉ còn 
10 đến 15 nghìn hecta/năm, đó là một thành 
công. Đối với tôi, đất lúa là di sản của dân 
tộc. Đất nước chúng ta không còn đất lúa để 
mở mang nữa. Chúng ta chỉ có vậy thôi, mãi 
mãi muôn đời, đây là nguồn sống, chúng ta 
phải bảo vệ. Nhưng không phải bảo vệ bằng 
cách để nông dân phải gắn với cây lúa như 
tôi đã báo cáo không thể có thu nhập cao 
hơn. Chính phủ đã có chính sách hỗ trợ cho 
nông dân trồng lúa. Trước đây, theo Nghị 
định 35 hỗ trợ trực tiếp, bây giờ Chính phủ 
sửa lại là tiền đó hỗ trợ chuyển giao cho 
chính quyền các cấp để xây dựng cơ sở hạ 
D1 C1 
W1 
D2’ 
D2” 
C2 
W2 D3’ 
D3” 
D3”’ 
C3 
W3 
BW3 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 159 
tầng, cũng để hỗ trợ cho nông dân nhưng 
không chia cho mỗi hộ vài trăm ngàn, thậm 
chí vài chục ngàn nữa mà hỗ trợ thông qua 
các cấp chính quyền. Để tạo điều kiện cho 
nông dân giữ đất lúa, có thu nhập cao hơn khi 
có cơ hội sản xuất. 
Trong Nghị định số 42 (sửa đổi) cũng đã đưa 
ra những cơ chế. Bộ nông nghiệp cũng ban 
hành một thông tư nói rất rõ rằng giữ đất lúa, 
nhưng có thể trồng các loại cây trồng khác 
mà nông dân có thể có thu nhập cao hơn. Tôi 
về Hưng Yên thấy bà con nông dân trồng 
chuối có thu nhập thay vì trồng lúa có 50, 60 
triệu đồng. Tôi nghĩ hoàn toàn phù hợp và 
khi cần chúng ta vẫn trồng lúa được. Thậm 
chí bà con ở Ninh Thuận trồng thanh long, tất 
nhiên bây giờ giá thanh long rất thấp nhưng 
cũng đã có những lúc thanh long giá cao, có 
người thu hoạch tới 1 tỷ đồng/hec ta. Chúng 
ta hoàn toàn tạo điều kiện cho nhân dân. 
Có thể khái quát nội dung diễn ngôn trả lời 
này thành các ý lần lượt như sau: 1, khẳng 
định chính phủ có ban hành Nghị định 42 về 
chính sách hỗ trợ để giữ đất lúa (đã ban 
hành); 2, ca ngợi hiệu quả của chính sách 
(nhờ có mà); 3, vai trò của đất lúa đối với 
dân tộc (là di sản, là nguồn sống); 4, khẳng 
định đất lúa là hữu hạn (chỉ thôi); 5, trình 
bày Chính phủ có chính sách hỗ trợ trồng lúa 
vì thấu hiểu tình cảnh của người dân; 6, trình 
bày về cách thức hỗ trợ (chuyển từ hỗ trợ trực 
tiếp sang chuyển giao cho chính quyền); 7, 
giải thích chính sách nhà nước linh hoạt 
chuyển đổi trồng lúa và trồng các loại cây 
khác để cân bằng quyền lợi kinh tế của người 
dân và chính sách bảo vệ đất lúa (giữ đất lúa, 
trồng cây khác, thu nhập cao hơn); 8, trình 
bày ví dụ thực tế nông dân thực hiện mô hình 
chuyển đổi (Hưng Yên, Ninh Thuận); 9, đánh 
giá chính sách linh hoạt chuyển đổi là phù 
hợp (Tôi nghĩ hoàn toàn phù hợp); 10, khẳng 
định nhà nước tạo điều kiện cho nhân dân. 
Như vậy, diễn ngôn của Bộ trưởng (BT) có 3 
bước lập luận như sau: 
Bước 1: A1 (1, 2, 3, 4, 5, 6) 
Bước 2: A2 (7, 8, 9) 
Bước 3: A3: (A1, A2; 10) ; W3: lí lẽ quy nạp. 
Từ đó, chúng ta có thể lược đồ hóa mối quan 
hệ tranh luận trong diễn ngôn này như hình 2: 
 Chú thích: Hỗ trợ 
 Hình 2. Lược đồ tương tác hội thoại [3], [4] 
Như vậy, diễn ngôn trả lời của BT chỉ là trình 
bày chính sách hỗ trợ nông dân với lí lẽ thể 
hiện sự tích cực tạo điều kiện cho nông dân. 
Qua đó, hàm ý, ca ngợi chính sách của Nhà 
nước vừa đảm bảo chủ trương giữ ngành 
trọng điểm vừa đảm bảo lợi ích kinh tế của 
người dân (thậm chí lợi ích kinh tế của người 
dân được đặc biệt nhấn mạnh). Câu trả lời này 
chỉ giải thích cho tiền đề ban đầu của diễn 
ngôn mà ĐB1 đã nêu ra (vấn đề: hiệu quả 
kinh tế trồng lúa không cao, người dân không 
thiết tha với trồng lúa và Chính phủ có chính 
sách hỗ trợ để giữ đất lúa) mà không phải 
đích cuối cùng ĐB1 hướng đến (tại sao Thái 
Bình không được hỗ trợ?). Đây là một lập 
luận sai vì không đi vào trọng tâm vấn đề cần 
giải thích. Vì thế, một đại biểu khác đã nhắc 
lại câu hỏi bằng cách tường minh hóa tiền đề 
(dữ liệu ngầm ẩn) trong lời ĐB1 để điều 
chỉnh sự chú ý về nội dung chính như sau: 
(5) Tôi xin hỏi lại. Câu hỏi này đại biểu Hoàn 
đã hỏi. Nhưng Bộ trưởng trả lời chưa rõ. Tôi 
xin hỏi là theo quyết định của Thủ tướng 
Chính phủ về việc hỗ trợ cho 9 địa phương 
trong năm 2014 để bảo vệ và phát triển đất 
lúa là 470 tỷ 880 triệu đồng. Nhưng Thái 
Bình là một tỉnh chủ yếu đất lúa thì không 
được hỗ trợ. Xin hỏi căn cứ vào đâu, vào tiêu 
chí nào để Chính phủ hỗ trợ cho các địa 
phương để bảo vệ và phát triển đất lúa. 
Lập luận (5) có các thành tố sau: 1, D: Thủ 
tướng Chính phủ về việc hỗ trợ 9 địa phương 
C 
BT 
D 
ĐB1 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 160 
trong năm 2014 để bảo vệ và phát triển đất 
lúa. D’: Thái Bình là một tỉnh chủ yếu đất lúa; 
D’’: Thái Bình không được hỗ trợ. C: Tiêu 
chí nào để Chính phủ hỗ trợ cho các địa 
phương? Như vậy, tiền đề ngầm ẩn trong lập 
luận của ĐB1 đã được tường minh trong lần 
nhắc lại của ĐB2. 
(6) Về chính sách hỗ trợ đất lúa, vì sao Thái 
Bình không được nhận, có lẽ việc này có trục 
trặc trong chuyển dịch về tài chính chứ còn 
trong nghị định của Chính phủ cứ mỗi 1 ha 
được hỗ trợ 1 triệu đồng và thông qua chính 
quyền thì 500.000 hỗ trợ trực tiếp cho hộ, đấy 
là theo Nghị định 42. Còn theo Nghị định 35 
mới thông qua thì toàn bộ sẽ chuyển giao cho 
chính quyền để đầu tư cơ sở hạ tầng v.v... Hỗ 
trợ trồng lúa. Tất cả những nơi nào có đất 
lúa đều được hỗ trợ. Việc này, chúng tôi sẽ 
kiểm tra lại với các đồng chí bên Bộ tài chính 
để chuyển giao cho Thái Bình. 
Diễn ngôn trả lời của BT có hai từ đáng chú ý 
là có lẽ và tất cả. Đó là những từ có ý nghĩa là 
thành tố hạn định (qualifier) cho tuyên bố nêu 
ra. Có lẽ là từ tình thái phỏng đoán nhận thức 
về khả năng xảy ra sự việc nào đó (ở đây là 
vấn đề trục trặc chuyển dịch tài chính) với độ 
tin cậy rất thấp. BT khẳng định (cũng là trả 
lời câu hỏi ĐB1 được ĐB2 nhắc lại): Thái 
Bình được hỗ trợ (tất cả). BT đã thực hiện 
hành vi “hứa” để giải quyết sự chậm chễ 
trong giải quyết chính sách hỗ trợ (sẽ). 
Dưới đây là lược đồ hội thoại tranh luận đã 
diễn ra (Hình 3): 
Chú thích: 
 ------> Phản bác Hỗ trợ 
Hình 3. Lược đồ tương tác hội thoại [3]-[6] 
4. Kết luận 
Bằng cách sử dụng tích hợp các hướng nghiên 
cứu của O. Ducrot, S. Toulmin, D. Walton và 
F.v. Eemeren, một số lập luận tại Nghị trường 
Quốc hội Việt Nam đã được phân tích và 
đánh giá một cách toàn diện (từ sự miêu tả 
các chỉ dẫn lập luận, các yếu tố tình thái 
đến xác định, tái cấu trúc sơ đồ lập luận và 
lược đồ lập luận trong tranh luận). Khi đó, lập 
luận trong chất vấn và trả lời chất vấn được 
đánh giá trong ngữ cảnh hội thoại tranh luận- 
nơi mà lập luận thể hiện rõ vai trò của nó. Từ 
đó cho thấy việc vận dụng tích hợp các hướng 
nghiên cứu (logic học, ngữ dụng học) là rất 
quan trọng để xem xét một lập luận trong 
thực tiễn giao tiếp. Bài viết này mở ra một 
hướng nghiên cứu mới tại Việt Nam về lập 
luận. Lập luận được xem là một diễn ngôn có 
cấu trúc logic nội tại và là một hành vi ngôn 
ngữ đặt trong mối quan hệ vận động, tương 
tác của hội thoại tranh luận. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES 
[1]. F. V. Eemeren, and R. Grootendorst, 
"Foundations of argumentative text 
processing," in Developments in 
Argumentation, Amsterdam, Amsterdam 
University Press, 1999, pp. 43-57. 
[2]. H. C. Do, Linguistic in general. Hanoi: 
Vietnam Education Publishing House Limited 
Company, 1993. 
[3]. D. Walton, Informal logic: A handbook for 
critical argumentation. NewYork: Cambridge 
University Press, 1989. 
[4]. D. Walton, Apragmatic Theory of Fallacy. 
Tuscaloosa: University of Alabama Press, 1995. 
[5]. F. V. Eemeren, B. Garssen, and B. Meuffels, 
Fallacies and judgements of reasonableness, 
Empirical Research Concerning the Pragma- 
Dialectical Discussion Rules. Dordrecht: 
Springer Science + Business Media, 2009. 
[6]. F. V. Eemeren, Strategic Maneuvering in 
Argumentative Discourse. Philadelphia: 
Benjamins Publishing Company, 2010. 
[7]. D. D. Nguyen, Pragmatic. Hanoi: Vietnam 
Education Publishing House Limited 
Company, 1998. 
[8]. D. D. Nguyen, and D .T. Nguyen. "A method 
of making a diagram of arguments," Journal 
C 
BT 
D 
ĐB1 
ĐB2 BT 
Nguyễn Diệu Thương Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ ĐHTN 225(07): 154 - 161 
 Email: jst@tnu.edu.vn 161 
of Science - Ho Chi Minh university of 
education, vol. 03-44, pp. 61-67, 2013. 
[9]. D. T. Nguyen, "Introducing researching 
approaches on argumentation," Lexicography 
& Encyclopedia, vol. 6, pp. 24-29, 2019. 
[10]. C. O. Vietnam, "Activities of the National 
Assembly." [Online]. Available:  
hoi.vn/hoatdongcuaquochoi/cackyhopquochoi
/quochoikhoaXIII/kyhopthuchin/Pages/default
.aspx. [Accessed April 24, 2020]. 
[11]. S. D. Nguyen, and T. M. Tran, "Vietnam 
National Assembly - theoretical and practical 
issues." [Online]. Available:  
vn/tulieuquochoi/anpham/Pages/anpham.asp
x?AnPhamItemID=3463. [Accessed April 
24, 2020]. 

File đính kèm:

  • pdfthu_tim_hieu_mot_so_lap_luan_tai_nghi_truong_quoc_hoi_viet_n.pdf