Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là thời kỳ cải
biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã
hội XHCN. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản
giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi
xây dựng thành công các cơ sở của xã hội XHCN về vật chất - kỹ thuật, kinh
tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng
xong cả về lực lượng sản xuất (LLSX) lẫn quan hệ sản xuất (QHSX), cả cơ sở
kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội XHCN. Đây là một quá trình khó
khăn, lâu dài và hết sức phức tạp, là tất yếu khách quan đối với mọi
nước xây dựng CNXH. Trong giới hạn bài viết này, tác giả nêu lên tính
tất yếu khách quan và nhận thức khoa học của TKQĐ từ CNTB lên
CNXH ở Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số nhiệm vụ kinh
tế cơ bản cần thực hiện ngay để tiến tới xây dựng thành công CNXH ở
Việt Nam.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 49 THỜI KỲ QUÁ ĐỘ LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM ThS. Võ Xuân Hội Khoa Lý luận Chính trị, Trường Đại học Xây dựng Miền Trung Tóm tắt: Thời kỳ quá độ (TKQĐ) lên chủ nghĩa xã hội (CNXH) là thời kỳ cải biến cách mạng sâu sắc, triệt để, toàn diện, từ xã hội cũ sang xã hội mới - xã hội XHCN. Nó diễn ra từ khi cách mạng vô sản thắng lợi, giai cấp vô sản giành được chính quyền, bắt tay vào việc xây dựng xã hội mới và kết thúc khi xây dựng thành công các cơ sở của xã hội XHCN về vật chất - kỹ thuật, kinh tế, văn hoá, tư tưởng. Nói cách khác, kết thúc thời kỳ quá độ khi đã xây dựng xong cả về lực lượng sản xuất (LLSX) lẫn quan hệ sản xuất (QHSX), cả cơ sở kinh tế lẫn kiến trúc thượng tầng xã hội XHCN. Đây là một quá tr ình khó khăn, lâu dài và hết sức phức tạp, là tất yếu khách quan đối với mọi nước xây dựng CNXH. Trong giới hạn bài viết này, tác giả nêu lên tính tất yếu khách quan và nhận thức khoa học của TKQĐ từ CNTB lên CNXH ở Việt Nam. Đồng thời, tác giả cũng đưa ra một số nhiệm vụ kinh tế cơ bản cần thực hiện ngay để tiến tới xây dựng thành công CNXH ở Việt Nam. Từ khoá: Thời kỳ quá độ (TKQĐ), CNXH. 1. Tính tất yếu khách quan của TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam Ở nước ta, TKQĐ lên CNXH bắt đầu từ năm 1954 ở miền Bắc và từ năm 1975, sau khi đất nước đã hoàn toàn độc lập và cả nước thống nhất, cách mạng dân tộc - dân chủ nhân dân đã hoàn toàn thắng lợi trên phạm vi cả nước thì cả nước cùng tiến hành cách mạng XHCN, cùng quá độ lên CNXH. TKQĐ là thời kỳ lịch sử mà bất cứ một quốc gia nào đi lên CNXH cũng đều phải trải qua, ngay cả đối với những nước đã có nền kinh tế rất phát triển, bởi lẽ, ở các nước này, tuy LLSX đã phát triển cao, nhưng vẫn còn cần phải cải tạo và cần xây dựng QHSX mới, xây dựng nền văn hoá mới. Dĩ nhiên, đối với những nước thuộc loại này, về khách quan có nhiều thuận lợi hơn, thời kỳ quá độ có thể sẽ diễn ra ngắn hơn. Đối với nước ta, một nước nông nghiệp lạc hậu đi lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN, thì lại càng phải trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, TKQĐ lên CNXH ở nước ta là một thời kỳ lịch sử mà: "nhiệm vụ quan trọng nhất của chúng ta là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội,... tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, có công nghiệp và nông nghiệp hiện đại, có văn hoá và khoa học tiên tiến. Trong quá trình cách mạng XHCN, chúng ta phải cải tạo nền kinh tế cũ và xây dựng nền kinh tế mới, mà xây dựng là nhiệm vụ chủ chốt và lâu dài". Quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN là một tất yếu lịch sử đối với nước ta, vì: Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 50 Một là, toàn thế giới đã bước vào thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH. Thực tiễn đã khẳng định CNTB là chế độ xã hội đã lỗi thời về mặt lịch sử, sớm hay muộn cũng phải được thay bằng hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là giai đoạn xã hội XHCN. Cho dù hiện nay, với những cố gắng để thích nghi với tình hình mới, CNTB thế giới vẫn đang có những thành tựu phát triển nhưng vẫn không vượt ra khỏi những mâu thuẫn cơ bản của nó, những mâu thuẫn này không dịu đi mà ngày càng phát triển gay gắt và sâu sắc. CNTB không phải là tương lai của loài người. Đặc điểm của thời đại ngày nay là thời đại quá độ từ CNTB lên CNXH trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình cải biến xã hội cũ, xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN không phải là quá trình cải lương, duy ý chí, mà là quá trình cách mạng sôi động trải qua nhiều giai đoạn phát triển khách quan, hợp với quy luật của lịch sử. CNTB và CNXH khác nhau về bản chất - chế độ tư hữu và công hữu về TLSX, khác nhau về xã hội có giai cấp đối kháng, khác nhau về tình trạng người bóc lột người. Đối với nước ta, tiến lên xây dựng CNXH bỏ qua giai đoạn TBCN, cần có thời gian dài để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, cải tạo QHSX cũ và xây dựng QHSX mới XHCN, đây là một quá trình khó khăn, lâu dài và phức tạp. CNXH mà nhân dân ta và loài người tiến bộ đang vươn tới luôn đại diện cho những giá trị tiến bộ của nhân loại, đại diện lợi ích của người lao động, là hình thái kinh tế - xã hội cao hơn CNTB. Quá trình cách mạng đó vì sự nghiệp cao cả là giải phóng con người, vì sự phát triển tự do và toàn diện của con người, vì tiến bộ chung của loài người. Đi theo dòng chảy của thời đại cũng tức là đi theo quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử và cần phải có một thời kỳ lịch sử nhất định. Hai là, Cách mạng Việt Nam phát triển theo con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tính tất yếu lịch sử ấy xuất hiện từ những năm 20 của thế kỷ XX. Nhờ đi con đường ấy, nhân dân ta đã làm Cách mạng Tháng Tám 1945 thành công, đã tiến hành thắng lợi hai cuộc kháng chiến, hoàn thành sự nghiệp giải phóng dân tộc. Ngày nay, chỉ có đi lên CNXH mới giữ vững được độc lập, tự do cho dân tộc, mới thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sự lựa chọn con đường độc lập dân tộc và CNXH của nhân dân ta là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc lại vừa phù hợp với xu thế của thời đại. Điều đó cũng đã thể hiện sự quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở nước ta là một tất yếu lịch sử. 2. Nhận thức về TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN TKQĐ lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN chính là con đường phát triển "rút ngắn" lên CNXH ở nước ta. Về Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 51 chính trị, bỏ qua chế độ tư bản là bỏ qua giai đoạn thống trị của giai cấp tư sản, của kiến trúc thượng tầng TBCN. Về kinh tế, bỏ qua chế độ TBCN là bỏ qua sự thống trị của QHSX TBCN, nhưng phải biết tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ TBCN, đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh LLSX, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất TBCN bằng con đường phát triển theo định hướng XHCN, tức là rút ngắn một cách đáng kể quá trình phát triển lên CNXH ở nước ta. Ngày nay, trong những điều kiện lịch sử mới, chúng ta có thể đi con đường phát triển rút ngắn, phát triển theo định hướng XHCN, tránh cho nhân dân ta những đau khổ của con đường TBCN. Sự rút ngắn này được thực hiện thông qua việc sử dụng biện pháp kế hoạch đồng thời với việc sử dụng biện pháp thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN trên cơ sở xây dựng, phát triển kinh tế nhà nước vững mạnh đóng vai trò chủ đạo đối với toàn bộ nền kinh tế quốc dân. Sự rút ngắn này chỉ có thể thực hiện thành công với điều kiện chính quyền thuộc về nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Tuy nhiên, cần nhận thức đầy đủ rằng sự rút ngắn ở đây không phải là công việc có thể làm nhanh chóng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "tiến lên chủ nghĩa xã hội, không thể một sớm một chiều. Đó là cả một công tác tổ chức và giáo dục". "Chủ nghĩa xã hội không thể làm mau được mà phải làm dần dần". Nhận thức đúng nội dung của sự quá độ bỏ qua hay rút ngắn này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng, giúp ta khắc phục được quan niệm đơn giản, duy ý chí về TKQĐ lên CNXH từ một nước chưa phát triển. CNXH ở Việt Nam, theo cách nói tóm tắt và mộc mạc của Chủ tịch Hồ Chí Minh là: trước hết nhằm làm cho nhân dân lao động thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc. Quán triệt tư tưởng cơ bản đó của Chủ tịch Hồ Chí Minh, trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Đảng ta đã khẳng định: "Xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 52 Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới. 3. Một số nhiệm vụ kinh tế cơ bản trong TKQĐ lên CNXH ở Việt Nam Để thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh theo con đường XHCN, điều quan trọng nhất là phải cải biến căn bản tình trạng kinh tế xã hội; phải xây dựng một nền kinh tế XHCN với công nghiệp, nông nghiệp và dịch vụ hiện đại, khoa học và kỹ thuật tiên tiến. Muốn vậy, trong TKQĐ chúng ta cần phải thực hiện những nhiệm vụ kinh tế cơ bản sau: Một là, phát triển LLSX, đẩy mạnh quá trình CNH-HĐH đất nước. Đây được coi là nhiệm vụ trung tâm của cả TKQĐ nhằm xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của CNXH, phát triển LLSX là nhiệm vụ có tính quy luật của sự quá độ lên CNXH ở những nước kinh tế lạc hậu. Tuy nhiên, chiến lược, nội dung, hình thức, bước đi, tốc độ, biện pháp CNH - HĐH của mỗi nước quá độ lên CNXH phải được xuất phát từ điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi nước và từ bối cảnh quốc tế trong mỗi thời kỳ. Hai là, xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN. Phải xây dựng từng bước những QHSX mới phù hợp với trình độ phát triển của LLSX mới. Nhưng việc xây dựng QHSX mới không thể thực hiện theo ý muốn chủ quan duy ý chí mà phải tuân theo những quy luật khách quan về mối quan hệ giữa LLSX và QHSX. Trong TKQĐ lên CNXH ở nước ta tất yếu phải tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, nhiều loại hình tổ chức sản xuất kinh doanh, nhiều hình thức phân phối. Ba là, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại. Đứng trước xu thế toàn cầu hoá kinh tế và sự tác động của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ, tác động của kinh tế tri thức, nền kinh tế nước ta không thể là một nền kinh tế khép kín, mà phải tích cực mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại. Đó là xu thế tất yếu của thời đại, là vấn đề có tính chất quy luật trong thời đại ngày nay. Chúng ta "mở cửa" nền kinh tế, thực hiện đa dạng, đa phương hoá quan hệ kinh tế quốc tế, nhằm thu hút các nguồn lực phát triển từ bên ngoài và phát huy lợi thế kinh tế trong nước làm thay đổi mạnh mẽ về công nghệ, cơ cấu ngành và sản phẩm... mở rộng phân công lao động quốc tế, tăng cường liên doanh, liên kết, hợp tác, là cơ sở để tạo điều kiện và kích thích sản xuất trong nước phát triển, vươn lên bắt kịp trình độ thế giới. Mở rộng quan hệ kinh tế quốc tế phải trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi, tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Muốn vậy, phải từng bước nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế; tích cực khai thác thị trường thế giới; tối ưu hoá cơ cấu xuất - nhập khẩu; tích cực tham gia hợp tác kinh tế khu vực và hệ thống mậu dịch đa phương toàn cầu; xử lý đúng đắn Thông báo Khoa học và Công nghệ * Số 1-2015 53 mối quan hệ giữa mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại với độc lập tự chủ, tự lực cánh sinh, bảo vệ an ninh kinh tế quốc gia. Nói về tầm quan trọng của nhiệm vụ này, Đại hội XI của Đảng nhấn mạnh: "Xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, đồng thời chủ động, tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”. Kết luận: Quá độ tiến lên CNXH bỏ qua chế độ TBCN ở Việt Nam là một tất yếu khách quan lịch sử, chúng ta cần có nhận thức đúng đắn và khoa học về quá trình này phải biết tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những thành tựu mà nhân loại , CNTB đã đạt được, đặc biệt làvề khoa học và công nghệ, về trình độ quản lý, về tác phong làm việc công nghiệp,để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Đó chính là sự rút ngắn thời gian thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất theo định hướng XHCN. Nhằm mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam XHCN phồn thịnh. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Hội đồng TW chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các bộ môn khoa học Mác- Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh. 2008. Giáo trình Kinh tế học Chính trị Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [2] Bộ Giáo dục và Đào tạo. 2013. Giáo trình Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Chính trị Quốc gia Sự thật, Hà Nội. [3] PGS.TS Lê Danh Tốn, GS-TS Đỗ Thế Tùng. 2008. Một số chuyên đề về Những nguyên lý cơ bản của Chủ nghĩa Mác-Lênin, NXB Lý luận Chính trị, Hà Nội. [4] PGS.TS Hoàng Bích Loan, TS Vũ Thị Thoa. 2009. Hỏi đáp Kinh tế Chính trị Mác- Lênin, NXB Chính trị Hành chính, Hà Nội. [5] Đảng cộng sản Việt Nam. 2011. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [6] PGS.TS Phạm Văn Linh, TS. Nguyễn Tiến Hoàng. 2011. Những điểm mới của cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội. [7] PGS.TS Đinh Xuân Lý, TS. Phạm Công Nhất. 2008. Đảng lãnh đạo xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
File đính kèm:
- thoi_ky_qua_do_len_chu_nghia_xa_hoi_o_viet_nam.pdf