Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam
Thơ tượng trưng là một trường phái thơ hiện đại ra đời đầu tiên ở Pháp năm 1886. Các nhà thơ
tượng trưng đề cao quan niệm tương giao các giác quan, cảm nhận thế giới bằng trực giác, thiên
về dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi cảm xúc chứ không mô tả cụ thể. Thơ tượng trưng là sự sáng tạo
về ngôn từ, mang đậm tính nhạc và luôn chứa đựng những yếu tố huyền bí về một thế giới vô hình.
Tư tưởng và phong cách của các nhà thơ tượng trưng Pháp đã thổi một luồng gió mới cho phong
trào Thơ Mới ở Việt Nam. Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng
đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền
văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và
Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ tượng trưng Pháp: Đặc điểm và ảnh hưởng đối với phong trào thơ mới ở Việt Nam
48 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC ThS. NGUYỄN THỊ THU HÒA1 1 Học viện Khoa học Quân sự ✉ nguyenthuhoa_78@yahoo.com Ngày nhận: 07/11/2016; Ngày hoàn thiện: 28/11/2016; Ngày duyệt đăng: 30/11/2016 Phản biện khoa học: PGS. TS. NGUYỄN LÂN TRUNG, NGUYỄN THỊ BÌNH THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP: ĐẶC ĐIỂM VÀ ẢNH HƯỞNG ĐỐI VỚI PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM Chủ nghĩa tượng trưng (Symbolisme) là một trào lưu nghệ thuật, một quan điểm triết học-mỹ học xuất hiện vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Ở Pháp, ngày 18 tháng 9 năm 1886, Jean Moréas cho đăng trên tờ báo Figaro bài viết có tựa đề “Symbolisme” (Chủ nghĩa tượng trưng) được coi như bản tuyên ngôn tượng trưng (Manifeste symboliste); trong đó Moréas đề xuất một quan niệm thi ca mới khởi nguồn từ phái Thi Sơn (Parnasse) và đoạn tuyệt với triết lý khoa học, vật chất của chủ nghĩa tự nhiên (Naturalisme) lúc bấy giờ. Những đại diện tiêu biểu cho thơ tượng trưng Pháp là Charles Beaudelaire (1821-1867), Arthur Rimbaud (1855-1891), Paul Verlaine (1844-1896), Guillaume Apollinaire (1880- 1918), Paul Valéry (1871-1945) và Stéphane Mallarmé (1842-1898). TÓM TẮT Thơ tượng trưng là một trường phái thơ hiện đại ra đời đầu tiên ở Pháp năm 1886. Các nhà thơ tượng trưng đề cao quan niệm tương giao các giác quan, cảm nhận thế giới bằng trực giác, thiên về dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi cảm xúc chứ không mô tả cụ thể. Thơ tượng trưng là sự sáng tạo về ngôn từ, mang đậm tính nhạc và luôn chứa đựng những yếu tố huyền bí về một thế giới vô hình. Tư tưởng và phong cách của các nhà thơ tượng trưng Pháp đã thổi một luồng gió mới cho phong trào Thơ Mới ở Việt Nam. Việc nghiên cứu trường phái thơ tượng trưng Pháp và những ảnh hưởng đối với thơ ca Việt Nam hiện đại những năm đầu thế kỷ XX giúp người học hai ngôn ngữ, hai nền văn hóa có cái nhìn tổng quan về thơ tượng trưng, về sự giao thoa ngôn ngữ-văn hóa Việt Nam và Pháp trong một khúc ngoặt của dòng chảy lịch sử. Từ khóa: chủ nghĩa tượng trưng, thơ tượng trưng Pháp. 1. NGUYÊN TẮC MỸ HỌC TƯỢNG TRƯNG Mỹ học tượng trưng quan niệm giữa vũ trụ và con người có một mối tương giao bí ẩn: tương giao về ý niệm, về cảm giác, về không gian, về màu sắc, về mùi vị... Với quan niệm tâm linh về thế giới (conception spirituelle du monde), các nhà thơ theo chủ nghĩa tượng trưng cho rằng thế giới hữu hình chỉ là hình ảnh, là cái bóng, là tượng trưng cho một thế giới vô hình huyền bí. Nếu như chủ nghĩa lãng mạn (Romantisme) giao cảm với thiên nhiên chủ yếu bằng trực cảm (perception directe) qua cách miêu tả cụ thể bằng hình ảnh thì thơ tượng trưng gợi lên mối tương hợp, tương giao (analogie, correspondance) giữa con người và vũ trụ thông qua các biểu tượng được cảm nhận bằng trực giác (intuition). 49KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v Trong bài Tương hợp (Correspondances) in trong tập thơ Hoa khổ đau (Les fleurs du Mal, 1857), Charles Beaudelaire, người đi tiên phong cho trường phái thơ tượng trưng Pháp đã thể hiện rất rõ quan điểm mỹ học của mình qua những vần thơ đầy biểu tượng: “La Nature est un temple où de vivants piliers Laissent parfois sortir de confuses paroles: L’homme y passe à travers des forêts de symboles Qui l’observent avec des regards familiers.” Rõ ràng yếu tố thần bí của vũ trụ, thiên nhiên (Nature) được hình tượng hóa qua hình ảnh ngôi đền (temple) với những cây cột sống (vivants piliers) tựa như những cây lớn trong khu rừng biểu tượng (forêts des symboles) nơi con người (homme) phải băng qua. Con người được nói đến ở đây ngầm hiểu là nhà thơ; hình ảnh con người vượt qua những khu rừng để đến ngôi đền là hình ảnh ẩn dụ về hành trình cảm nhận bằng trực giác, hành trình nhà thơ đi tìm cái bí ẩn của thế giới vô hình-thế giới đích thực. Nhà thơ quan niệm biểu tượng (symboles) tựa như những lời nói không rõ ràng (confuses paroles), là những dấu hiệu cụ thể biểu đạt một ý nghĩa trừu tượng, phản ánh thế giới siêu hình huyền bí, nơi mọi thứ hòa quyện thành một thực thể thống nhất (une ténébreuse et profonde unité) mà ở đó mùi hương, màu sắc và âm thanh hòa hợp với nhau. (Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.) 2. QUAN ĐIỂM THƠ CA Xuất phát từ quan điểm mỹ học nói trên, các nhà thơ tượng trưng rất chú trọng đến quan niệm tương ứng các giác quan. Với Paul Verlaine, thơ là sự dao động kéo dài giữa âm thanh và ý nghĩa (La poésie, cette hésitation prolongée entre le son et le sens). Rimbaud lại cho rằng, người nghệ sĩ phải đến với thơ ca bằng con đường thấu thị của một kẻ có thiên nhãn: Thi sĩ phải làm cho mình thành người có thiên nhãn bằng sự rối loạn lâu dài, rộng khắp và có sự suy tính tất cả các giác quan (Le poète se fait voyant par un long, immense et raisonné dérèglement de tous les sens), bởi lẽ các giác quan gắn bó ta với thực tại, trở thành tấm màn chắn ngăn ta chẳng thấy được gì xa hơn Các nhà thơ tượng trưng Pháp coi thơ như một thứ siêu cảm giác, không giải thích được. Thơ tượng trưng là kẻ thù của các hình thức giáo khoa, ngâm nga, cảm xúc giả tạo, mô tả chủ quan (ennemie de l’enseignement, la déclamation, la fausse sensibilité, la description objective), nghĩa là thơ phải gợi chứ không vẽ các đường nét, hình thể. Bàn về vấn đề này, chủ soái của thơ tượng trưng Pháp, Stéphane Mallarmé, đã chỉ rõ: Thơ không phải là vẽ một sự vật mà vẽ hiệu ứng do sự vật đó tạo ra (Peindre non une chose mais l’effet qu’elle produit). Trong một tuyên ngôn khác, nhà thơ lý giải một cách cụ thể hơn: Gọi tên một vật, tức là làm giảm đi ¾ niềm hạnh phúc được khám phá dần dần một bài thơ: Gợi ra nó mới thực sự là lý tưởng. Đó chính là việc sử dụng nhuần nhuyễn những bí ẩn, những biểu tượng: gợi dần dần một vật để diễn đạt tâm trạng hoặc ngược lại chọn một vật, giải mã nó để diễn đạt một tâm trạng. (Nommer un objet, c’est supprimer les trois quarts de la jouissance du poème qui est faite du bonheur de deviner peu à peu: le suggérer, voilà le rêve. C’est le parfait usage de ce mystère qui constitue le symbole: évoquer petit à petit un objet pour montrer un état d’âme, ou, inversement, choisir un objet et en dégager un état d’âme, par une série de déchiffrements.) Theo đó, thơ tượng trưng không cần hình tượng rõ nét và phải gắn chặt với âm nhạc. Mỗi bài thơ là một bản hòa âm huyền ảo, mỗi lời thơ là một điệu nhạc, mỗi từ trong thơ phải gắn liền với một nốt nhạc. Về điểm này, trong bài thơ Nghệ thuật thi ca (Art poétique), Paul Verlaine đã khẳng định âm nhạc là nghệ thuật cao siêu nhất vượt trên tất cả: “De la musique avant toute chose”. Âm nhạc chắp cánh cho thơ bay cao (Que ton vers soit la chose envolée), phiêu du trong làn gió run rẩy sớm mai (Que ton vers soit la bonne aventure. Eparse au vent crispé du matin). Âm nhạc thổi tâm hồn vươn tới những khung trời lạ, những tình yêu mới mẻ (Qu’on sent qui fuit d’une âme en allée. Vers d’autres cieux à d’autres amours.) Và những gì đọng lại chính là văn học, là thi ca (Et tout le reste est littérature.) 3. MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT 3.1. Về nội dung Chủ đề yêu thích của các nhà thơ tượng trưng là sự chết chóc, sự huyền bí, mờ ảo, là nỗi buồn, là những giấc mộng, những cảnh sắc phản chiếu góc khuất tâm hồn. Điểm này được thể hiện tương đối rõ ngay trong tiêu đề các tuyển tập thơ, các bài thơ tượng trưng. Đó là những thi phẩm trong Hoa khổ đau (Les 50 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC fleurs du Mal) của Charles Beaudelaire: Ái tình và sọ người (L’amour et le crâne), Thuốc độc (Le poison), Rượu của kẻ sát nhân (Le vin de l’assassin), Cái chết của tình nhân (La mort des amants), Cái chết của nghệ sỹ (La mort des artistes), Cái chết của người nghèo (La mort des pauvres), Người chết vui vẻ (Le mort joyeux), Chiều hoàng hôn (Le crépuscule du soir), Khúc chiều tà (Harmonie du soir), Bóng tối (Les ténèbres), Nỗi buồn của mặt trăng (Tristesses de la lune), Sương mù và mưa (Brumes et pluies)... Đó là Một mùa ở địa ngục (Une saison en Enfer), Vũ điệu của những người bị treo cổ (Bal des pendus), Người ngủ trong thung lũng (Le dormeur du val), Giấc mộng nghèo (Le pauvre songe) của Arthur Rimbaud. Đó là Cái chết (La mort), Đào huyệt (L’enterrement), Mưa trong tim (Il pleure dans mon coeur), Giấc mơ quen thuộc (Mon rêve familier), Thu ca (Chanson d’automne), Ánh trăng (Clair de lune) của Paul Verlaine; là Mộ phần (Tombeau), Nỗi kinh hoàng (Angoisse), Lâu đài hi vọng (Le château de l’espérance), Giấc mơ cổ đại (Rêve antique), Hạ buồn (Tristesse d’été) của Stéphane Mallarmé Soi vào hoàn cảnh lịch sử của nước Pháp thế kỷ XIX, chúng ta có thể lý giải tại sao các nhà thơ tượng trưng Pháp lúc bấy giờ lại mang tâm trạng buồn bã, chán chường, tuyệt vọng vào thơ ca như vậy. Bất bình, hoang mang trước một xã hội đầy rẫy những biến động, nhà thơ nhiều lúc muốn chối bỏ thực tại, có lúc muốn tìm đến cái chết, có khi lại tìm về một quá khứ huy hoàng hoặc bay đến thế giới tương lai mộng tưởng. 3.2. Về nghệ thuật 3.2.1. Sử dụng biểu tượng (symbole), hình ảnh so sánh (comparaison), ẩn dụ (métaphore) Như trên chúng tôi đã trình bày, thơ tượng trưng đề cao tính bí ẩn, huyền diệu của thi ca. Để gợi lên thế giới vô hình, các nhà thơ tượng trưng thường sử dụng những biểu tượng, hình ảnh so sánh, ẩn dụ nhằm biểu đạt một cách gián tiếp, ngầm ẩn thông điệp cần truyền tải cho độc giả. Điểm này hoàn toàn khác với lối miêu tả và biểu lộ tình cảm trực tiếp của chủ nghĩa lãng mạn. Chúng ta hãy cùng phân tích bài thơ Chim hải âu (L’albatros) của Charles Beaudelaire để hiểu thêm về đặc điểm này. Ba khổ thơ đầu vẽ ra một cảnh đại dương mênh mông qua hình ảnh con tàu (navire), những vực sâu chết người (les gouffres amers), những người thủy thủ (les hommes d’équipage) và những chú chim hải âu (des albatros) - vua của biển cả (ces rois de l’azur) với đôi cánh rộng màu trắng (leurs grandes ailes blanches) để rồi đến khổ thơ cuối, tác giả đột ngột chuyển hướng nói về Thi sĩ (Le Poète): “Le Poète est semblable au prince des nuées Qui hante la tempête et se rit de l’archer; Exilé sur le sol au milieu des huées, Ses ailes de géant l’empêchent de marcher.” Vậy ra chim hải âu chỉ là biểu tượng, nói cách khác là hình ảnh tượng trưng cho Thi sĩ. “Thi sĩ giống vua ngàn mây gió. Khoái phong ba, cung nỏ xá chi. Lưu đầy giữa tiếng cười chê. Mang đôi cánh rộng khó bề bước đi” (Phạm Nguyên Phẩm). Thi sĩ - người được các nghệ sĩ theo chủ nghĩa tượng trưng coi là nắm giữ quyền lực duy nhất để giải mã thế giới vô hình - lại trở nên kẻ tội đày cô độc (exilé sur le sol au milieu des huées) trong con mắt người đời. Sự cô đơn, nỗi khổ đau của Thi sĩ được gợi lên qua hình ảnh những chú chim hải âu bị đám thủy thủ hành hạ, trêu chọc làm trò tiêu khiển, mua vui: “Người dùng tẩu gõ chim chơi. Kẻ thời bắt chước chim trời què chân.” (Phạm Nguyên Phẩm) (L’un agace son bec avec un brûle-gueule. L’autre mime, en boîtant, l’infirme qui volait !) Một ví dụ khác minh chứng cho nghệ thuật sử dụng biểu tượng, ẩn dụ, uyển ngữ tài tình của các nhà thơ tượng trưng Pháp: Bài thơ Người ngủ trong thung lũng (Le dormeur du val) của Arthur Rimbaud. Mở đầu bài thơ, tác giả vẽ cảnh một thung lũng xanh rờn, nơi có suối hát ca, cỏ mọc đua chen, nơi lấp lánh những tia nắng bạc rọi xuống từ đỉnh núi cao vót: “C’est un trou de verdure où chante une rivière, Accrochant follement aux herbes des haillons D’argent ; où le soleil, de la montagne fière, Luit : c’est un petit val qui mousse de rayons.” Khổ thơ thứ hai đi vào cận cảnh một người lính trẻ đang ngủ say sưa trên thảm cỏ, gối đầu trần lên đám cải xanh, làn da tái nhợt dưới ánh nắng mặt trời: “Un soldat jeune, bouche ouverte, tête nue, Et la nuque baignant dans le frais cresson bleu, Dort ; il est étendu dans l’herbe, sous la nue, Pâle dans son lit vert où la lumière pleut.” Những khổ thơ kế tiếp vẫn miêu tả người lính ấy nhưng nhấn vào những dấu hiệu bất bình thường: nụ 51KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v cười như đứa trẻ bị bệnh (Souriant comme; Sourirait un enfant malade), cái lạnh của người lính giữa ngày nắng rực (Nature, berce-le chaudement: il a froid), cánh mũi bất động (Les parfums ne font pas frissonner sa narine). Bài thơ khép lại với hình ảnh hai lỗ màu đỏ trên ngực phải của chàng trai (Tranquille. Il a deux trous rouges au côté droit.), hé lộ một sự thật đau lòng: Người lính trẻ đã hi sinh. Nhà thơ không dùng những từ như chết chóc (mourir), máu (sang) để nói về sự hi sinh của người lính, mà sử dụng uyển ngữ “người ngủ” (dormeur), “ngủ” (dormir), “ngủ trưa” (faire un somme), kết hợp những dấu hiệu gợi mở (signes suggestifs ou révélateurs) cùng hình ảnh ẩn dụ “deux trous rouges au côté droit” để chỉ hai vết thương chảy máu trên ngực chàng trai. Cái tài của Rimbaud là ở đó, chỉ gợi chứ không nói thẳng ra, làm cho người đọc phải khám phá; hiệu ứng của câu trả lời ở cuối bài thơ nhờ thế càng được nâng lên. Bài thơ thực chất là một bản cáo trạng chiến tranh dù không mảy may đả động đến những từ chiến tranh, đổ máu, hi sinh, chết chóc như lẽ thường. Nỗi đau, sự tàn phá mà chiến tranh gây ra được khắc họa bằng sự đối lập đầy ẩn ý qua hình ảnh người lính trẻ tuổi đời phơi phới lại phải từ giã cuộc sống tươi đẹp (được ngầm ví với thung lũng xanh non ngập tràn ánh nắng và sự sống); qua hiệu ứng sắc màu (màu bạc của nắng - argent, màu xanh của cỏ cây - vert, màu xanh tái của làn da - pâle, màu đỏ nhức nhối của vết thương - rouge). Thông điệp tố cáo chiến tranh không vì thế mà mờ nhạt, trái lại còn khắc sâu trong tâm trí người đọc bởi cái kết đau thương, bất ngờ. 3.2.2. Tính nhạc (Musicalité) Cùng với việc dùng biểu tượng, ẩn dụ để gợi tâm trạng, gợi thông điệp, các nhà thơ tượng trưng mặc dù rất chuộng thể thơ tự do song cũng đặc biệt chú ý tới vần (rime) và nhịp (rythme) tạo cho thơ mang đậm tính nhạc. Hãy cùng đến với bài thơ Mưa trong tim (Il pleure dans mon coeur) của Paul Verlaine để cảm nhận những nốt nhạc ấy. Nhịp thơ biến đổi uyển chuyển từ 3/3 sang 2/4, tựa như tiếng mưa rơi tí tách: “Ô bruit doux de la pluie. Par terre et sur les toits!” Lối gieo vần cũng rất lạ, không phải theo kiểu đan chéo (rimes croisées - ABAB) hay bao bọc (rimes embrassées - ABBA) thường gặp mà gieo ba lần một vần trong một khổ thơ bốn câu (ABAA); khổ thơ thứ nhất và thứ ba gieo rime masculine (coeur, langueur, coeur/raison, trahison, raison), hai khổ còn lại gieo rime féminine (kết thúc bởi e câm: pluie, s’ennuie, pluie/peine, haine, peine). Chính sự lặp lại của các âm, các vần, đặc biệt là âm [r] tràn ngập đã tạo nên chất nhạc cho bài thơ, êm ái, du dương, đượm buồn man mác. Cái Tôi trữ tình của nhà thơ giao cảm với mưa theo kiểu “Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ.” Bài thơ có thể ví như một sự hòa quyện giữa mưa ngoài đời và mưa trong lòng tác giả. Mỗi từ ngân lên như một nốt nhạc hòa thành một khúc mưa buồn. Cũng dễ hiểu tại sao bài thơ lại được Christophe Bourdoiseau giữ nguyên vẹn phần lời và phổ nhạc thành bà ... năm cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. 4. ẢNH HƯỞNG CỦA THƠ TƯỢNG TRƯNG PHÁP ĐỐI VỚI PHONG TRÀO THƠ MỚI Ở VIỆT NAM THẾ KỶ XX Đầu thế kỷ XX, văn học Pháp du nhập vào Việt Nam với một khối lượng tác phẩm dịch tương đối đồ sộ. Các nhà văn, nhà thơ lớn thời kì này phần lớn được đào tạo từ các trường Pháp-Việt; một số du học từ Pháp trở về như Vũ Đình Liên, Hoàng Ngọc Phách, Chế Lan Viên, Khái Hưng, Nhất Linh, Nguyễn Mạnh Tường... Cùng với những bài thơ ngụ ngôn của La Fontaine, những vở kịch của Molière, tiểu thuyết của Alexandre Dumas, Victor Hugo, Honoré de Balzac, những thi phẩm nổi tiếng của các nhà thơ lãng mạn và tượng trưng Pháp cũng theo làn sóng tràn vào Việt Nam, tạo nên một sự khởi sắc cho phong trào Thơ Mới ở nước ta. Nếu như thơ Thế Lữ chịu ảnh hưởng của trường phái lãng mạn Pháp (Chateaubriand, Lamartine, Musset) thì nhiều nhà thơ như Xuân Diệu (1916-1985), Huy Cận (1919-2005), Chế Lan Viên (1920-1989), Hàn Mặc Tử (1912-1940), Bích Khê (1916-1946) ở các mức độ đậm nhạt khác nhau đều chịu ảnh hưởng của trường phái tượng trưng. 4.1. Ảnh hưởng về quan điểm mỹ học, thi ca và chủ đề sáng tác Quan niệm mỹ học và thi ca của các nhà thơ tượng trưng Pháp in dấu rất rõ trong các sáng tác của các nhà thơ mới Việt Nam. Dấu ấn về sự tương giao, tương hợp của vạn vật trong vũ trụ, của các giác quan trong Thơ Mới khá rõ nét Đó là sự hòa hợp giữa các loại cảm giác trong thơ của Bích Khê: Nàng hé môi ra. Bay điệu nhạc; Mát như xuân mà ngọt tựa hương (Hiện hình); Nàng bước tới như sông trăng chảy ngọc; Như nắng thơm hớp đặc cả nguồn hương (Nàng bước tới); Có gì uyển chuyển trong da thịt; Nức một đường thơm một điệu êm (Châu) Hòa hợp đến độ khó có thể tách bạch đâu là hương thơm, màu sắc, âm thanh bởi tất cả đã tạo thành một khối, dệt nên những hình ảnh, điệp ngữ, liên tưởng trùng phức đầy ám gợi và mê hoặc như trong Mộng cầm ca: “Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/ Của gương hồ im lặng tợ bài thơ/ Chân nhịp nhàng, lòng nghe hương nặng nặng/ Đây bài thơ không tiếng của đêm tơ/ Trăng gây vàng, vàng gây lên sắc trắng/ Của hồn thu đi lạc ở trong mơ.” Thế giới được gợi ra trong Thơ Mới là một thế giới bí ẩn, huyền diệu. Thế giới của âm nhạc, của màu sắc, của mùi hương. Không phải vô cớ mà Thơ Mới viết nhiều về đề tài âm nhạc như vậy. Bích Khê có tuyển tập Nhạc và Lệ với Mộng cầm ca, Tỳ bà, Nhạc, Thi vị còn Xuân Diệu lại vẽ lên thế giới của thơ và nhạc với Nhị hồ, Nguyệt cầm, Huyền diệu: “Hãy tự buông cho khúc nhạc hường Dẫn vào thế giới của Du Dương Ngừng hơi thở lại, xem trong ấy Hiển hiện hoa và phảng phất hương...” (Huyền diệu - Xuân Diệu) Trong cái thế giới ấy, Thi sĩ, bằng trực giác tinh tế của mình cảm nhận đến tận cùng sự giao hòa của vũ trụ, của vạn vật để rồi đôi lúc lại thấy cô đơn, lạc lõng giữa cuộc đời. Về điểm này, xin được trích lời đề tựa của Chế Lan Viên cho tập thơ Điêu tàn của ông: “Hàn Mặc Tử nói: Làm thơ tức là điên. Tôi thêm: Làm thơ là sự phi thường. Thi sĩ không phải là Người. Nó là Người Mơ, Người Say, Người Điên. Nó là Tiên, là Ma, là Quỷ, là Tỉnh, là Yêu. Nó thoát Hiện Tại. Nó xối trộn Dĩ Vãng. Nó ôm trùm Tương Lai.” Chúng ta có thể thấy tuy sống cách xa nhau một thế kỉ và thuộc hai dân tộc khác nhau nhưng trên bối cảnh xã hội có phần tương đồng nên các nhà thơ tượng trưng Pháp và các nhà thơ mới Việt Nam mang tâm trạng giống nhau. Đó là tâm trạng của những người trí thức tiểu tư sản trước những biến đổi lớn lao của xã hội, cảm thấy mình bất lực chán nản trước thời cuộc. Dễ dàng thấy sắc màu thơ tượng trưng Pháp trong chủ đề sáng tác của Thơ Mới: Chế Lan Viên với tập thơ Điêu tàn ngập tràn Trăng, Mộng, Cái sọ người, Mồ không, Những nấm mồ, Xương khô, Đám ma, Đầu rơi, Xương vỡ máu trào, Hồn trôi, Bóng tối, Đêm tàn, Đêm xuân sầu, Mơ trăng, Tắm trăng, Ngủ trong sao; Hàn Mặc Tử với tập thơ Hương thơm, 53KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v Mật đắng, Máu cuồng và hồn điên; Huy Cận với Buồn, Buồn đêm mưa, Chiều xưa, Chết, Bi ca, Tràng Giang Xuân Diệu có Buồn trăng, Bến đêm biếc, Chiều, Chiều đầu thu, Thu, Đây mùa thu tới, Ý thu, Huyền Diệu, Anh đã giết em còn Bích Khê nổi tiếng với tập thơ Tinh huyết đầy rẫy Sọ người , Nấm mộ, Giờ trút linh hồn, Hiện hình, Mộng, Xuân tượng trưng, Mơ tiên 4.2. Ảnh hưởng trên bình diện nghệ thuật Cùng với sự tiếp thu quan điểm mỹ học của trường phái tượng trưng, các nhà thơ của phong trào Thơ Mới Việt Nam thiên về sử dụng phép ẩn dụ, gợi nhiều hơn tả. Nếu như ảnh hưởng của thơ tượng trưng trong Đây mùa thu tới của Xuân Diệu là sự “thức nhọn giác quan” để cảm nhận cái bước chuyển mùa rất cụ thể, sinh động với “Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang/ Tóc buồn buông xuống lệ ngàn hàng. Đây mùa thu tới, mùa thu tới./ Với áo mơ phai dệt lá vàng.” thì trong Tỳ bà, Bích Khê lại đi vào phía tiềm ẩn của mùa thu, tiến đến một biểu tượng “vàng” trực giác bằng ý niệm: “Ô hay buồn vương cây ngô đồng Vàng rơi! Vàng rơi! Thu mênh mông”. Bức tranh thu ở đây không được vẽ bằng hình ảnh cụ thể nào mà được gợi lên bằng một khối vàng bao trùm lên hết thảy, nhuốm chìm cả “cây ngô đồng” trong nỗi “buồn vương”. Đó không phải là nàng thu với vóc hình cụ thể mà là nàng thu mơ hồ trong ý niệm: “Thu mênh mông”. Đều chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng nhưng thu của Xuân Diệu được cảm nhận bằng trực cảm, nhấn vào sự tương hợp của các giác quan còn thu trong thơ Bích Khê là thu của trực giác, thu trong ý niệm, mơ hồ, huyền ảo. Rồi cùng là tả màu xanh, trong khi Hàn Mặc Tử ví“Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc” (Đây thôn Vĩ Dạ) hay Xuân Diệu tả “Đổ trời xanh ngọc qua muôn lá” (Thơ duyên) thì Bích Khê chỉ gợi lên một màu của trực giác, mang tính biểu tượng trong bài Hoàng hoa: “màu lưng chừng trời”, “màu phơi nơi nơi”. Tóm lại là một loại màu tượng trưng, tinh tế, huyền diệu không thể vẽ lại bằng hội họa. Rõ ràng sắc thái ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở các nhà thơ mới có những nét khác biệt trong tương đồng. “Xuân Diệu đứng cả hai chân vững vàng ở bờ lãng mạn với tay hái những chùm tượng trưng, Hàn Mặc Tử thì cả hai chân cũng đứng vững trên nền của chủ nghĩa lãng mạn, nhưng hai chân cứ nhún nhảy [] một cách điệu nghệ với tượng trưng, siêu thực [] Còn Bích Khê thì một chân trụ vững ở bờ chủ nghĩa lãng mạn nhưng một chân kia đã đưa sang và gần chạm đến bờ tượng trưng chủ nghĩa một cách có chủ ý, ngay từ đầu cầm bút.” (Mai Bá Ấn, 2011) Một điểm tương đồng nữa trong thơ tượng trưng Pháp và Thơ Mới, đó là tính nhạc. Xin được dẫn bài Hoàng hoa của Bích Khê làm minh chứng: Ở Hoàng hoa, cũng như Tỳ bà, chất nhạc bao trùm lên toàn bài thơ ba khổ sáu câu, bảy chữ toàn vần bằng. Nhạc tính ở đây còn được Bích Khê “kí âm” bằng kiểu lặp ngữ, lặp từ, lặp vần thường thấy trong âm nhạc (“Đây mùa hoàng hoa, mùa hoàng hoa”, rồi “Ngàn khơi, ngàn khơi, ta, ngàn khơi”) hoặc những câu đầy âm vang (“Làm mây theo chàng lên yên nhung”, “Non yên tên bay ngang muôn đầu”, “Ai xây mồ hoa chôn đời tươi”)... Cách ngắt nhịp trong toàn bài thơ cũng góp phần làm đậm thêm chất nhạc: Lấy nhịp 2/2/3 làm “tiết tấu” chủ đạo (chủ âm) ở ngay khúc dạo đầu; xen kẽ một vài tiết tấu lạ nhịp 4/3, 2/2/1/2, 2/5 rồi lại trở về hợp âm chính theo nguyên tắc của nhạc. Đọc bài thơ mà ngỡ như đang hát. Muốn hát nhưng đó lại là thơ. Ấy chính là thơ tượng trưng. Cuối cùng, không thể không kể đến những đóng góp của phong trào Thơ Mới trong việc cách tân thi ca, từ việc đi khai phá những chủ đề mới lạ với một nhãn quan mới lạ đến việc giải phóng ngòi bút cho ra đời những tứ thơ cũng không kém phần mới lạ. Chịu ảnh hưởng của Mallarmé về cú pháp, với ý thức cách tân, Bích Khê không thôi tìm tòi và sáng tạo, đưa ngôn ngữ thơ lại gần hơn những bộ môn nghệ thuật khác. “Đường kiến trúc nhịp nhàng theo điệu mới Của lời thơ lóng đẹp. Hạt châu trong Hạt châu trong ngời nhỏ giọt vô lòng Tràn âm hưởng như chiều thu sóng nắng” (Duy Tân) Ngoài kiến trúc là là mỹ thuật: “Hỡi hội họa đến muôn đời nức nở.”; là điêu khắc: “Chữ điêu khắc, tỉa nghệ thuật sâu câm - Đầy thẩm mỹ như một pho thần tượng”; là âm nhạc: “Ròng âm nhạc của lòng trai ấp mái”; là vũ đạo: “Múa song song khiêu vũ dưới đêm hồng”; là nhiếp ảnh: “Đường nhiếp ảnh sắc khua màu”. Cũng trong Duy tân, Bích Khê đã tạo sự phá cách về lối trình bày thơ với những khoảng trống phảng phất chất Mallarmé trong bài thơ May rủi. 54 KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 v VĂN HÓA - VĂN HỌC “Mộng? Thiên tài? Trên hỗn độn khỏa thân. Đẹp tỷ mỷ, hỡi rung động truyền thần.” Sự sáng tạo về ngôn từ, cú pháp của các nhà thơ mới mang dấu ấn thơ tượng trưng Pháp khá rõ nét. Ở Xuân Diệu, đó là việc Việt hóa những cấu trúc, những cách diễn đạt phương Tây “plus d’un/une” (hơn một), “voilà” (này đây), voici (này kia), “c’est” (đó là/đây là): “Hơn một loài hoa đã rụng cành Trong vườn sắc đỏ rũa màu xanh” (Đây mùa thu tới) “Của ong bướm này đây tuần trăng mật; Này đây hoa của đồng nội xanh rì; Này đây lá của cành tơ phơ phất; Của yến anh này đây khúc tình si. Và này đây ánh sáng chớp hàng mi; Mỗi sáng sớm, thần vui hằng gõ cửa;” (Vội vàng) Là người tiếp thu nhuần nhuyễn phép tương giao của lối thơ tượng trưng Pháp, Xuân Diệu đã phát huy triệt để sự tương giao về cảm giác để cảm nhận và mô tả thế giới bằng đầy đủ các giác quan. Những tứ thơ lạ ra đời từ đó: “Mùi tháng năm đều rớm vị chia phôi”, “Tháng Giêng ngon như một cặp môi gần”, “Này lắng nghe em khúc nhạc thơm/ Say người như rượu tối tân hôn;”,“Ta muốn ôm/ Cả sự sống mới bắt đầu mơn mởn;/ Ta muốn riết mây đưa và gió lượn,/ Ta muốn say cánh bướm với tình yêu,/ Ta muốn thâu trong một cái hôn nhiều/ Và non nước, và cây, và cỏ rạng,/ Cho chếnh choáng mùi thơm, cho đã đầy ánh sáng/ Cho no nê thanh sắc của thời tươi;/ - Hỡi xuân hồng, ta muốn cắn vào ngươi!” Nhiều tứ thơ của Beaudelaire cũng truyền cảm hứng cho các nhà thơ mới Việt Nam. Bài Đi giữa đường thơm của Huy Cận chẳng phải đã mượn tứ thơ của Beaudelaire đó sao: “Đường trong làng: hoa dại với mùi rơm.../ Người cùng tôi đi dạo giữa đường thơm,/ Lòng giắt sẵn ít hương hoa tưởng tượng./ [] Lên bề cao hay đi xuống bề sâu?/ Không biết nữa - Có chút gì làm ngợp/ Trong không khí... hương với màu hòa hợp...” (Les parfums, les couleurs et les sons se répondent.) Hình ảnh hoa nở như đỉnh hương của Beaudelaire (Chaque fleur s’évapore ainsi qu’un encensoir) đã được Bích Khê vận dụng một cách tài tình trong Xuân tượng trưng: “Hồn tôi như đỉnh hương Bốc lên mình thánh giá! Ý xuân mát đến xương Ngậm tuyết phun lã chã.” Tiếp thu quan niệm mới mẻ của Beaudelaire cho rằng cái đẹp không ở trong một thế giới riêng mà nằm ngay trong những điều tầm thường nhất, thậm chí ngay trong cái Ác, cái Xấu, Bích Khê đã biến Sọ người thành: “Ôi khối mộng của hồn thơ chếnh choáng! Ôi buồng xuân hơ hớ cánh đào sương! Ôi bình vàng! ôi chén ngọc đầy hương! Ôi hồ nguyệt đọng nhiều trăng lấp loáng! Ôi thần tình! Người chứa một trời thương.” Người đọc như thả hồn trong thế giới Sọ người của Bích Khê với “khối mộng”, “hồn thơ”, “buồng xuân”, “cánh đào sương”, “bình vàng”, “chén ngọc”, “hồ nguyệt” Tất cả gợi lên bóng dáng của một thế giới thần tiên, đầy “một trời thương”, xua tan mọi cảm giác sợ hãi về sự vật được miêu tả. Sự “vay mượn” này cũng dễ hiễu khi trong bài thơ Ăn mày, Bích Khê đã gọi tên Charles Baudelaire với sự ngưỡng vọng và niềm tôn kính sâu xa: Baudelaire! Người là Vua Thi Sĩ! Cho xin trụm bao nhiêu mùi thi vị, Phả hơi lên, truyền nhiễm thấu trần ai Sức ảnh hưởng của các nhà thơ tượng trưng Pháp cũng đi vào thơ Xuân Diệu trong bài Tình trai: “Tôi nhớ Rimbaud với Verlaine Hai chàng thi sĩ choáng hơi men Say thơ xa lạ, mê tình bạn Khinh rẻ khuôn mòn, bỏ lối quen.” Có thể nói, thơ tượng trưng Pháp là nguồn mạch quan trọng góp phần làm đổi mới thơ ca Việt Nam hiện đại trong những thập niên đầu thế kỷ XX, đặc biệt là phong trào Thơ Mới. Tuy nhiên, TS. Trần Huyền Sâm phát hiện: “Mỗi nhà thơ chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa tượng trưng ở mỗi phương diện khác nhau, phù hợp với quan điểm thẩm mỹ của mình. Và ngay trong mỗi nhà thơ, tính chất lãng mạn và tượng trưng luôn giao thoa cùng nhau. Xuân Diệu tìm thấy ở chủ nghĩa tượng trưng một bản nhạc huyền diệu giữa ánh sáng, hương thơm và màu sắc. Vũ Hoàng Chương và Bích Khê tìm thấy một thế giới âm nhạc mênh mông, hư ảo. Hàn Mạc Tử tìm trong thế giới vô thức, siêu thực, bí ẩn.” (Trần Huyền Sâm, 2002) 55KHOA HỌC NGOẠI NGỮ QUÂN SỰSố 4 - 11/2016 VĂN HÓA - VĂN HỌC v Nghiên cứu thơ tượng trưng Pháp, kết hợp đối chiếu với thơ ca Việt Nam những năm đầu thế kỷ XX không chỉ giúp chúng ta hiểu thêm những nét đặc trưng về nội dung và nghệ thuật của trường phái thơ hiện đại này mà còn thấy được những nét giao thoa về ngôn ngữ, văn hóa của hai quốc gia, hai dân tộc. Sức mạnh của thi ca có thể làm “mềm” đi những bất đồng, làm cho những trái tim xích lại gần nhau hơn trên con đường tìm kiếm những giá trị Chân, Thiện, Mỹ./. Tài liệu tham khảo: 1. BARTHES R. (1973), Le plaisir du texte, Le Seuil. 2. BEAUDELAIRE C. (1857), Les Fleurs du Mal, Auguste Poulet-Malassis. 3. CHRISTOPHE B. (2008), L’édition originale d’Une Saison en enfer d’Arthur Rimbaud, Revue d’histoire litté raire de la France, Vol 108, p.651-665. 4. DURAND P. (2008), Mallarmé. Du sens des formes au sens des formalités, Le Seuil. 5. DOUMIC R. (1901), Les oeuvres complètes de Paul Verlaine, Revue des Deux Mondes, 5è période, tome 1. 6. HÀ Văn Lượng, Những ảnh hưởng của văn học phương Tây đối với văn học Việt Nam hiện đại, Tạp chí Sông Hương số 141 (Tháng 11). 7. HOÀNG Nhân (1998), Phác thảo quan hệ Văn học Pháp với Văn học Việt Nam hiện đại, NXB Mũi Cà Mau. 8. LEPAGE M. (1995), Le Symbolisme, Revue bimestrielle no 372, Broché. 9. MAI Bá Ấn (2011), Bích Khê và chủ nghĩa tượng trưng, PhongDiep.net. 10. NGUYỄN Thanh Mừng (1992), Bích Khê - Tinh hoa và Tinh huyết, NXB Hội Nhà văn. 11. TRẦN Huyền Sâm (2002), Tiếng nói thơ ca, NXB Văn học. 12. RINCÉ D., LECHERBONNIER B. (1986), Littérature du XIXè textes et documents, Nathan. FRENCH SYMBOLIC POETRY: CHARACTERISTICS AND INFLUENCES ON NEW POETRY MOVEMENT IN VIETNAM NGUYEN THI THU HOA Abstract: Symbolist poetry represents a modern school of poetry first launched in France in 1886. Symbolist poet emphasize the correspondence between the senses, perceiving the world intuitively; prefer using symbols and metaphors to inspire emotions to applying concrete description. Therefore, symbolist poetry is verbal creativity, rich in music and always contains mysterious elements of an unseen world. Ideology and style of French symbolists poets has blown a new wind into the New Poetry Movement in Vietnam. The study of the French symbolist poetry and her influence on modern Vietnamese poetry in the first years of the twentieth century helps people who learn two languages, two cultures to have an overview of symbolist poetry, of cross- culture and cross-language of Vietnam and France in a turning point in the history flow. Keywords: Symbolism, Frech symbolic poetry.
File đính kèm:
- tho_tuong_trung_phap_dac_diem_va_anh_huong_doi_voi_phong_tra.pdf