Thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược – Một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới
Từ năm 1986, cùng với việc thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta thực hiện đường
lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
trong cộng đồng thế giới Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc Đổi mới (1986-2014), nước ta đã
giành được thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Cùng với thắng lợi của công cuộc Đổi mới nói chung, lĩnh vực
đối ngoại cũng giành được những thành tựu rất to lớn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ xin được
trình bày một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới - Đó là
Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước.
Bạn đang xem tài liệu "Thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược – Một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược – Một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới
TAÏP CHÍ KHOA HOÏC ÑAÏI HOÏC SAØI GOØN Soá 4(29) - Thaùng 6/2015 17 Thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược – Một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới Establishing strategic partnerships – One of the remarkable achievements in foreign policyduring the period of “Doi Moi” in Vietnam PGS.TS. Nguyễn Cảnh Huệ Trường Đại học Sư phạm TP.HCM Assoc.Prof.,Ph.D. Nguyen Canh Hue Ho Chi Minh City University of Pedagogy Tóm tắt Từ năm 1986, cùng với việc thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc Đổi mới (1986-2014), nước ta đã giành được thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Cùng với thắng lợi của công cuộc Đổi mới nói chung, lĩnh vực đối ngoại cũng giành được những thành tựu rất to lớn. Trong phạm vi bài viết này, tác giả chỉ xin được trình bày một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới - Đó là Việt Nam đã thiết lập được quan hệ đối tác chiến lược với nhiều nước. Từ khóa: đối tác chiến lược, thành tựu nổi bật, Việt Nam, Đổi mới Abstract Since 1986, with the implementation of the innovation the country overall, the Party hasrealized a foreign policy of diversification and multilateral international relations, Vietnam wants to be friends of all countries in the World Community... After nearly 30 years of implementation of the innovative task (1986-2014), the country has won significant historical victories. Along with the success of the innovation in general, the external sector also gained tremendous achievements. Within the scope of this article, the author will present one of the outstanding achievements of Vietnam foreign policy in the innovative period: Vietnam has established strategic partnership relations to many countries. Keywords: strategic partnerships, the remarkableachievements, Vietnam, Doi Moi Thắng lợi vĩ đại của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước năm 1975 đã mở ra một kỷ nguyên mới đối với lịch sử dân tộc: Kỷ nguyên cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội.Trong 10 năm đầu của kỷ nguyên mới này (1975-1985), mặc dù nước ta đạt được nhiều thành tựu trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế - xã hội 18 Nhưng, do những nguyên nhân khách quan và chủ quan, đất nước lâm vào cuộc khủng hoảng kinh tế-xã hội trầm trọng. Trước tình hình đó, do những yêu cầu bức thiết của đất nước và để phù hợp với xu thế thời đại, từ năm 1986, cùng với việc thực hiện công cuộc Đổi mới toàn diện đất nước, Đảng ta thực hiện đường lối đối ngoại đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới Qua gần 30 năm thực hiện công cuộc Đổi mới (1986-2014), nước ta đã giành được thắng lợi có ý nghĩa lịch sử. Cùng với thắng lợi của công cuộc Đổi mới nói chung, lĩnh vực đối ngoại cũng giành được những thành tựu rất to lớn. Việc thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược có thể coi là một trong những thành tựu nổi bật của đối ngoại Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Bài viết này sẽ cố gắng tập trung làm rõ vấn đề này. 1. Đối tác chiến lược là gì? Về khái niệm này, có nhiều ý kiến khác nhau. Theo PGS.TS. Đinh Công Tuấn, Viện Nghiên cứu châu Âu thì, thuật ngữ “đối tác chiến lược” lần đầu được sử dụng vào khoảng những năm 1990, 1991 để chỉ quan hệ giữa Mỹ và Trung Quốc. Từ đó, thuật ngữ này được sử dụng rộng rãi. Theo quan niệm của GS.Va-lê-ri Lót-xkin (Nga), “Đối tác chiến lược” phải bao gồm những nội dung sau: không tấn công lẫn nhau; không liên minh chống lại các nước khác; không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau; phải có lòng tin lẫn nhau. Đối với Mỹ, đối tác chiến lược phải bao gồm hợp tác chặt chẽ về quân sự, an ninh(1). Theo chúng tôi, “Quan hệ chiến lược” hay “Đối tác chiến lược”, là mối quan hệ quan trọng, có sự gắn kết cao, có tính chất lâu dài đối với hai bên. Về mức độ quan trọng và tính vững chắc, có thể “Quan hệ chiến lược” hay “Đối tác chiến lược” không bằng “Quan hệ đồng minh” hay “Quan hệ đặc biệt”. Kể từ năm 2001, khi đầu tiên thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nước Nga, đến cuối 2013, Việt Nam đã thiết lập được 14 quan hệ đối tác chiến lược - Đó là với Nga, Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Tây Ban Nha, Hà Lan, Anh, Đức, Ý, Pháp, Inđônêxia, Thái Lan, Singapore. Trong đó, có đối tác chiến lược toàn diện (với Nga, Trung Quốc), đối tác chiến lược từng phần (với Hà Lan) và số còn lại là đối tác chiến lược. 2. Thiết lập các quan hệ đối tác chiến lược Để dễ theo dõi, chúng tôi xin được phân chia các đối tác chiến lược theo châu lục và trong mỗi châu lục, được trình bày theo trình tự thời gian ( trước-sau) thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với nước ta. 2.1. Châu Á 2.1.1. Quan hệ Việt Nam-Ấn Độ Cộng hòa Ấn Độ là một quốc gia lớn- có diện tích là 3.287,590 km2, đứng thứ 7 thế giới, với dân số đông hàng thứ hai thế giới - hơn 1095, 351 triệu người (số liệu năm 2006), có lịch sử lâu đời. Từ khi giành được độc lập (8- 1947) đến nay, với đường lối xây dựng đất nước độc lập, tự chủ và sáng tạo, với ý chí tự cường mạnh mẽ, Cộng hoà Ấn Độ đã thu được nhiều thành tựu to lớn trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ngày nay, Ấn Độ được xếp vào một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới, có nhiều ngành khoa học-công nghệ ngang hàng với các nước công nghiệp phát triển, như: nghiên cứu vũ trụ, năng lượng hạt nhân, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin Nhiều dự báo cho rằng, trong những thập niên đầu thế kỷ XXI, Ấn Độ sẽ có khả năng trở thành một trong bốn nền kinh tế lớn nhất thế giới Ấn Độ đang vận động để trở thành Ủy viên thường trực HĐBA LHQ khi tổ chức này mở rộng. Việt Nam và Ấn Độ có mối quan hệ hữu nghị lâu đời, bước sang thời kỳ hiện đại được các nhà lãnh tụ: Chủ tịch Hồ Chí Minh, M. Gandi, J. Nêru cùng các nhà lãnh 19 đạo và nhân dân hai nước dày công vun đắp đã không ngừng phát triển. Năm 1956, hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Tổng lãnh sự và đến năm 1972, trong khi Việt Nam đang ở giai đoạn của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ác liệt, hai nước đã thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ. Đến 2007, hai nước quyết định nâng cấp quan hệ lên tầm cao mới: quan hệ đối tác chiến lược. Ấn Độ là người bạn thủy chung, tin cậy của Việt Nam. Mối quan hệ Việt Nam – Ấn Độ đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng nói: trong xanh như bầu trời không một gợn mây. 2.1.2.Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc Trung Quốc là nước lớn, có diện tích: 9,6 triệu km2, dân số: hơn 1,3 tỷ người, có bề dày lịch sử trên 5000 năm, là nước láng giềng sát nách và có quan hệ lâu đời với nước ta. Trung Quốc là nước xã hội chủ nghĩa, Ủy viên thường trực HĐBA LHQ, là nền kinh tế lớn thứ 2 thế giới và đang phát triển mạnh mẽ, có thể trở thành nền kinh tế lớn nhất thế giới trong tương lai không xa, có vai trò quan trọng trong việc giải quyết những vấn đề khu vực và toàn cầu. Trung Quốc là nước thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức sớm nhất với Việt Nam (năm 1950) và trong thời kỳ hai nước đấu tranh giành độc lập dân tộc, hai bên đã ủng hộ, giúp đỡ lẫn nhau. Trong thời kỳ Việt Nam tiến hành cuộc kháng chiến trường kỳ chống Pháp, Mỹ giành độc lập và thống nhất đất nước, Trung Quốc đã ủng hộ và giúp đỡ to lớn, hiệu quả; quan hệ hai nước có những giai đoạn rất tốt đẹp “vừa là đồng chí, vừa là anh em”. Nhưng, từ sau khi nước ta giành độc lập, thống nhất năm 1975, quan hệ hai nước chuyển biến theo chiều hướng xấu mà đỉnh cao là Trung Quốc đem quân sang xâm lược các tỉnh biên giới phía bắc Việt Nam vào đầu năm 1979. Từ năm 1991, khi hai nước Việt Nam, Trung Quốc bình thường hóa ngoại giao, quan hệ hai nước phát triển nhanh chóng trên các mặt và đạt được nhiều thành tựu. Trong 3 vấn đề lớn do lịch sử để lại, hai nước đã giải quyết được 2 vấn đề, đó là biên giới trên bộ và phân định Vịnh Bắc Bộ, chỉ còn lại vấn đề biển Đông. Tháng 6/2008, Lãnh đạo cấp cao hai nước nhất trí phát triển quan hệ đối tác hợp tác chiến lược toàn diện Việt Nam-Trung Quốc(2). Trung Quốc hiện nay là một trong những đối tác thương mại, du lịch hàng đầu của Việt Nam. 2.1.3. Quan hệ Việt Nam - Nhật Bản Nhật Bản nằm ở Đông Bắc Á, có diện tích là 372.313 km 2 , dân số hơn 127,336 triệu người, GDP: 5000 tỷ USD (số liệu năm 2013); là quốc gia nghèo tài nguyên, đất chật, người đông, kinh tế bị tàn phá kiệt quệ trong chiến tranh thế giới thứ II. Nhờ có các chính sách phù hợp và sự nỗ lực to lớn của một dân tộc đầy nghị lực và kiên cường, nền kinh tế Nhật Bản đã nhanh chóng phục hồi và phát triển mạnh mẽ. Trong nhiều năm, Nhật Bản là cường quốc kinh tế thứ 2 thế giới và hiện nay là cường quốc kinh tế thứ 3 thế giới(3). Nhật Bản là nước có nền khoa học - công nghệ, giáo dục - đào tạo rất phát triển. Nhật Bản có vai trò quan trọng ở khu vực và trên thế giới, đang vận động để trở thành Ủy viên thường trực HĐBA LHQ khi tổ chức này mở rộng. Việt Nam, Nhật Bản có quan hệ từ lâu đời và trải qua những bước thăng trầm.Hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao từ năm 1973. Sau Chiến tranh lạnh, với những thuận lợi mới của tình hình thế giới và sự điều chỉnh chính sách đối ngoại của mỗi nước, quan hệ Việt Nam- Nhật Bản phát triển mạnh mẽ. Năm 2009, hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á. Đến nay, quan hệ Việt Nam - Nhật Bản rất tốt đẹp, có sự tin cậy cao về chính trị, Nhật Bản trở thành đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam về các lĩnh vực thương mại, đầu tư, ODA 2.1.4. Quan hệ Việt Nam-Hàn Quốc 20 Đại Hàn Dân Quốc (Hàn Quốc) nằm trên bán đảo Triều Tiên, có diện tích là 99.720 km 2 , dân số: 49,04 triệu người (số liệu tháng 3/2014) với lịch sử lâu đời - khoảng 5000 năm. Hàn Quốc hiện nay có GDP:1221,8 tỷ USD và GDP bình quân đầu người: 24 329 USD /năm, là quốc gia có nền kinh tế đứng thứ 4 ở châu Á và thứ 15 thế giới (4). Quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc có từ lâu đời và trải qua những bước thăng trầm. So với các nước khác, Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao chính thức với Hàn Quốc chưa lâu, nhưng đây là một trong những mối quan hệ quốc tế phát triển nhanh nhất của Việt Nam trong thời kỳ Đổi mới. Hiện nay, hai nước có sự tin cậy cao về mặt chính trị và Hàn Quốc là một trong đối tác quan trọng của Việt Nam về thương mại, đầu tư, hợp tác lao động, du lịch 2.1.5. Quan hệ Việt Nam-Indonesia Indonesia là một quần đảo lớn nhất thế giới với khoảng 17.500 hòn đảo, có diện tích phần đất rộng 1,9. triệu km2 và phần nước rộng 9,9 triệu km2 là quốc gia lớn nhất Đông Nam Á về diện tích, dân số: 220 triệu người, đông thứ tư thế giới (số liệu năm 2004)(5), quy mô kinh tế (trên 1.000 tỷ USD vào năm 2012), có vai trò quan trọng trong ASEAN. Indonesia còn là quốc gia Hồi giáo lớn nhất thế giới. Việt Nam và Indonesia thiết lập quan hệ ở cấp Tổng lãnh sự quán tháng 12/1955 và nâng lên cấp đại sứ ngày 15/8/1964 Trong ASEAN, Indonesia là nước thiết lập quan hệ ngoại giao sớm nhất và có quan hệ hữu nghị nhất với Việt Nam. Năm 2003, hai nước thiết lập quan hệ khuôn khổ đối tác hữu nghị và toàn diện bước vào thế kỷ 21 và ngày 28/6/2013, hai nước đã chính thức quyết định thiết lập quan hệ đối tác chiến lược(6). 2.1.6. Quan hệ Việt Nam-Singapore Singapore vốn là một phần của lãnh thổ Malaixia, năm 1965 đã tách ra và trở thành một nước độc lập. Singapore là một quốc đảo ở Đông Nam Á, có diện tích: 692,7 km 2 , dân số: 4,83 triệu (tính đến hết năm 2008). Mặc dù nghèo nàn về tài nguyên thiên hiên, nhưng biết tận dụng vị trí thuận lợi và có chính sách xây dựng đất nước phù hợp, Singapore đã phát triển rất nhanh chóng.Singapore là một nước phát triển nhất ở Đông Nam Á, được coi là một hình mẫu về xây dựng và phát triển kinh tế và là một trong những quốc gia sạch nhất thế giới. Việt Nam và Singapore thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 01/8/1973.Sau khi Việt Nam tham gia Hiệp ước Bali (7/1992) và trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN tháng 7/1995, quan hệ hai nước chuyển sang một giai đoạn phát triển mới về chất. Singapore rất coi trọng phát triển quan hệ hợp tác với Việt Nam và Việt Nam trở thành một trong những thị trường chính về hợp tác thương mại, đầu tư của Singapore ở Đông Nam Á.Tháng 3/2004, hai bên đã ký "Tuyên bố chung về khuôn khổ hợp tác toàn diện trong thế kỷ 21", tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác nhiều mặt giữa hai nước(7). Tháng 9/2013, hai bên nhất trí thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Quan hệ hai nước hiện nay phát triển rất tốt đẹp, Singapore trở thành một trong những đối tác kinh tế hàng đầu của Việt Nam về thương mại, đầu tư (8). 2.1.7. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan Thái Lan nằm ở trung tâm của Đông Nam Á có diện tích 513.115 km2, dân số: 63,04 triệu người (số liệu năm 2007), là một nước có lịch sử lâu đời(9). Thái Lan là một nước công nghiệp mới, quy mô kinh tế khá lớn, có nền kinh tế phát triển khá nhanh và hiện nay nằm ở top 5 trong ASEAN. Việt Nam và Thái Lan vừa là láng giềng của nhau, vừa là cùng thành viên của ASEAN. Hai nước có quan hệ từ lâu đời và trải qua không ít thăng trầm và chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 6/8/1976. 21 Trong những năm 80 của thế kỷ 20, do sự chi phối của vấn đề Campuchia, quan hệ Việt Nam - Thái Lan ở trong tình trạng căng thẳng. Từ năm 1991 trở đi, quan hệ hai nước dần được cải thiện và phát triển mạnh, nhất là sau khi Việt Nam chính thức gia nhập ASEAN. Thái Lan là một trong những đối tác hàng đầu của Việt Nam trong ASEAN về thương mại, đầu tư. Tháng 6 năm 2013, hai nước đã quyết định đưa quan hệ hai nước lên đối tác chiến lược(10). 2.2. Với châu Âu 2.2.1. Quan hệ Việt Nam-CHLB Nga Nga là nước có diện tích lớn nhất thế giới thế giới - 17.075.400 km2, dân số: 142,9 triệu người, theo Tổng điều tra dân số 2010(11); là cường quốc về quân sự- chính trị, Ủy viên thường trực HĐBA LHQ, kế thừa vai trò của Liên Xô. Việt Nam và Liên Xô thiết lập quan hệ ngoại giao từ sớm và trong thời kỳ Chiến tranh lạnh, Liên Xô (mà nòng cốt là CHXHCN Xô viết Nga) là chỗ dựa vững chắc và đã ủng hộ, giúp đỡ to lớn, hiệu quả sự nghiệp đấu tranh gìanh độc lập của nhân dân ta. Những năm đầu sau Chiến tranh lạnh, quan hệ Việt Nam-Nga tuy có một thời gian gặp khó khăn, nhưng đã vượt qua và nhìn chung, phát triển theo chiều hướng ngày càng tốt đẹp. Năm 2001, hai nước thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và Nga là nước đầu tiên thiết lập quan hệ chiến lược với nước ta, là một trong hai nước mà nước ta thiết lập quan hệ chiến lược toàn diện. Quan hệ hai nước ngày càng phát triển, nhất là về chính trị, quân sự, khoa học-công nghệ, năng lượng Nga là người bạn tin cậy, đối tác hàng đầu của nước ta. 2.2.2. Quan hệ Việt Nam-Anh Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ailen (gọi tắt là Vương quốc Anh hay nước Anh) là một quốc đảo nằm ở phía Tây Bắc Châu Âu, có diện tích là 243.610 km2, là nền kinh tế lớn thứ 7 thế giới (thứ 2 trong EU sau Đức) với GDP đạt 2.481 tỷ USD, GDP trên đầu người là 35.900 USD (năm 2011). Anh là Ủy viên thường trực HĐBA LQ, là thành viên quan trọng của EU. Giữa Việt Nam với Vương quốc Anh đã có những mối liên hệ từ nhiều thế kỷ trước. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 11/9/1973. Sau Chiến tranh lạnh, quan hệ hai nước phát triển thuận lợi. Tháng 9/2010, hai nước ký Tuyên bố chung chính thức nâng cấp quan hệ lên đối tác chiến lược(12). Hiện nay, Anh là đối tác quan trọng của Việt Nam trong EU về quan hệ thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển và cũng là một trong những đối tác quan trọng của nước ta ở trên thế giới. 2.2.3. Quan hệ Việt Nam-CHLB Đức CHLB Đức nằm ở trung tâm châu Âu, có diện tích: 357.021 km2, dân số: 80,22 triệu người. GDP: 3593, 238 tỷ USD (đứng thứ 4 thế giới) và GDP bình quân đầu người 43.952 USD (số liệu năm 2013). Hiện nay, Đức là thành viên tích cực và có vai trò quan trọng trong EU, NATO, OECD, LHQ, thành viên của G.8.... Việt Nam và CHLB Đức thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 23/9/1975. Từ đó đến nay, quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa hai nước ngày càng phát triển tích cực, sâu rộng, hiệu quả và toàn diện. Từ nhiều năm nay Đức là một trong những đối tác quan trọng nhất của ta ở châu Âu. Sự tin cậy và hiểu biết lẫn nhau giữa hai nước ngày càng được tăng cường. Tháng 10/2011, hai nước đã ký Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược. Về thương mại, Đức là đối tác lớn nhất của Việt Nam ở Châu Âu, chiếm 19% xuất khẩu của nước ta sang EU (bằng cả Anh và Pháp cộng lại); và cũng là cửa ngõ trung chuyển quan trọng của hàng hoá Việt Nam sang các thị trường khác ở châu Âu. Với sự phục hồi nhanh của nền kinh tế Đức, trao đổi thương mại song phương năm 2013 tăng mạnh bất chấp tác động tiêu 22 cực của khủng hoảng nợ châu Âu, đạt 7,1 tỷ USD. Về đầu tư, tính đến tháng 12/2013, Đức có 215 dự án còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1,16 tỷ USD, đứng thứ 22 trên tổng số 101 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư tại Việt Nam. Về hợp tác phát triển, Đức là một trong những nước viện trợ nhiều và thường xuyên ODA cho Việt Nam. Từ năm 1990 đến nay, Đức đã cung cấp khoảng 1,5 tỷ USD cho các dự án ODA tại Việt Nam thông qua hợp tác kỹ thuật và hợp tác tài chính(13). 2.2.4. Quan hệ Việt Nam-Pháp Pháp có diện tích là 551.602 km2, dân số: 64.102.000 (số liệu năm 2007), đứng thứ 2 trong EU. Nước Pháp là nước có lịch sử lâu đời ở châu Âu; là thành viên của EU, G.8, Ủy viên thường trực HĐBA LHQ, là cường quốc kinh tế thứ 5 thế giới. Việt Nam và Pháp có quan hệ lâu đời và có những bước thăng trầm. Hai nước chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao ở cấp Đại sứ ngày 12/4/1973. Trong những năm 80 (thế kỷ XX), quan hệ hai nước bị ngưng đọng do vấn đề Campuchia. Từ năm 1989 trở đi, quan hệ hai nước được cải thiện trở lại. Pháp đã đi đầu các nước phương Tây trong việc khai thông quan hệ với Việt Nam, xoá nợ cho Việt Nam Về quan hệ kinh tế, Pháp là bạn hàng châu Âu thứ 3 của Việt Nam (sau Đức và Anh). Trao đổi thương mại hai chiều năm 2007 đạt 2,04 tỷ USD, năm 2008 đạt 1,8 tỷ USD, năm 2009 đạt gần 1,872 tỷ USD.Về đầu tư, Pháp đứng đầu các nước châu Âu và đứng thứ 13 trong tổng số nước và lãnh thổ đầu tư ở Việt Nam. Đầu tư trực tiếp của Pháp có mặt tại Việt Nam từ năm 1988. Tính đến 31/8/2009, Pháp đầu tư vào Việt Nam với tổng số vốn cam kết khoảng 3,03 tỷ đô-la cho 216 dự án còn hiệu lực. Về viện trợ phát triển (ODA), Việt Nam đứng thứ 7 trong số các nước hưởng ODA của Pháp. Pháp hiện là nhà tài trợ ODA thứ hai cho Việt Nam, sau Nhật Bản. Việt Nam đứng thứ 7 trong số các nước hưởng ODA của Pháp. Đến nay, Pháp đã cấp cho Việt Nam vay ưu đãi trên 2 tỷ euro cho các dự án. Việt Nam cũng nằm trong số các nước hợp tác ưu tiên của Pháp về hợp tác khoa học và công nghệ, hợp tác về giáo dục và đào tạo(14). Ngoài ra, Việt Nam cũng đã thiết lập với 3 nước châu Âu nữa là: Tây Ban Nha vào tháng 12 năm 2009; Hà Lan vào tháng 10/2010 về việc Ứng phó với biến đổi khí hậu và Quản lý nước; Italia vào tháng 1/2013. 3. Một vài nhận xét 3.1. Như vậy, trong thời kỳ Đổi mới, cụ thể là từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Việt Nam đã thiết lập được 14 mối quan hệ đối tác chiến lược ở châu Á và châu Âu. Trong số đó, có nhiều nước giữ vai trò quan trọng về nhiều mặt trên thế giới: 4/5 nước là Ủy viên thường trực HĐBA LHQ; 6/8 nước thuộc G.8 là Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Nga; nhiều cường quốc kinh tế thế giới như: Trung Quốc, Nhật, Anh, Pháp, Đức, Ý, Nga, Ấn Độ. Cũng trong số đó, có nhiều đối tác quan trọng của nước ta về chính trị như:Nga, Ấn Độ, Nhật Bản; về kinh tế như: Nhật Bản (thương mại, đầu tư, ODA, du lịch), Trung Quốc (thương mại, du lịch), Hàn Quốc (thương mại, đầu tư, hợp tác lao động, Singapore (thương mại, đầu tư), Anh (thương mại, đầu tư, viện trợ phát triển), Pháp (thương mại, đầu tư), Đức (thương mại, đầu tư) 3.2. Quan hệ đối tác chiến lược với các đối tác quan trọng làm gia tăng xu hướng hợp tác và cam kết chính trị ở các cấp cao nhất tôn trọng lựa chọn thể chế chính trị của Việt Nam. Việt Nam với các nước đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, có nhiều cơ hội để tăng cường hợp tác, phát triển hiểu biết, thu hẹp và kiềm tỏa khác biệt. Các khuôn khổ quan hệ mới thiết lập đã làm gia tăng xu hướng đối thoại, giúp làm rõ những khác biệt, qua đó giảm thiểu những căn nguyên hiểu lầm 23 chiến lược. Lòng tin với các đối tác chiến lược và độ tin cậy với các đối tác toàn diện được củng cố và nâng lên. Trong khuôn khổ quan hệ mới, việc xích lại gần nhau hơn là tiền đề cho việc tăng cường gặp gỡ, trao đổi và tiếp xúc cấp cao (15). 3.3. Quan hệ với các đối tác chiến lược đã góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế Đúng như PTT, Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Bình Minh nhận xét: Việt Nam đã nâng tầm vị thế của mình trong quan hệ bình đẳng với các đối tác này, cộng đồng quốc tế đã nhìn nhận Việt Nam với vai trò và ảnh hưởng nhất định trong khu vực. Trong khuôn khổ chính sách đối ngoại của các nước đối tác chiến lược và đối tác toàn diện, Việt Nam đã được đặt ở vị trí quan trọng trong chính sách của các nước đối với châu Á – Thái Bình Dương, Liên hợp quốc và các tổ chức liên chính phủ (16). 3.4. Quan hệ với các đối tác chiến lược đã góp phần tăng thêm thế và lực về kinh tế, chính tri - quân sự - ngoại giao, giúp nước ta giữ vững môi trường hòa bình để xây dựng và bảo vệ đất nước. Về kinh tế, với việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược với số nước trên, Việt Nam đã có khuôn khổ quan hệ ở mức cao với 3,5 tỷ người và gắn với thị trường của tổng GDP đạt 33.489 tỷ USD, gấp hơn 200 lần GDP của Việt Nam. Tổng kim ngạch thương mại của ta với 13 đối tác chiến lược 9 tháng đầu năm 2013 đạt 148 tỷ USD, chiếm 76,7% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam. Đáng chú ý, kim ngạch thương mại của Việt Nam với các đối tác chiến lược đều tăng từ 1,3 tới 6 lần so với thời điểm trước khi lập quan hệ đối tác chiến lược(17). Đây là con số không lồ về thị trường thương mại, đầu tư, du lịch Và chắc chắn đây là điều kiện to lớn tạo nên sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam trong thời gian qua. Về chính trị - ngoại giao, nước ta được rộng rãi các nước trên thế giới ủng hộ trong việc ứng cử vào vị trí Ủy viên không thường trực HĐBA LHQ hay nhiều tổ chức khác của quốc tế, trong việc đăng ký để thế giới công nhận là các di sản thế giới hay như sự kiện gần đây như nhiều nước lên án Trung Quốc trong việc hạ đặt trái phép dàn khoan HD 981 trong vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam vào giữa năm 2014 là những ví dụ cho nhận định trên. 3.5. Quan hệ đối tác chiến lược với các nước tạo cho đất nước một hệ thống các đối tác gần gũi, gắn kết, lợi ích đan xen trên mọi tầng nấc láng giềng, khu vực Đông Nam Á, châu Á và rộng lớn hơn ở tầm toàn cầu. Trong tất cả nội hàm của quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam, mục tiêu là hợp tác vì hòa bình, ổn định để phát triển và đóng góp vào hòa bình, phồn thịnh của khu vực, vì phát triển của các dân tộc trên thế giới... Đó là thông điệp về những nguyên tắc đối ngoại của Việt Nam và cũng khẳng định sự công nhận và ủng hộ vững chắc của các nước đối với đường lối đối ngoại hòa bình cao cả của đất nước ta (18). 3.6. Việc thiết lập quan hệ đối tác chiến lược và kết quả nó đưa lại thể hiện sự đúng đắn của đường lối đối ngoại của Đảng ta: độc lập, tự chủ, sáng tạo; đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế, Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước Đó cũng là cơ hội để nước ta quảng bá hình ảnh đất nước ra bên ngoài và là sự đóng góp tích cực của Việt Nam vào sự nghiệp hòa bình, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới. 3.7. Chúng tôi nghĩ rằng, chúng ta cũng cần quan tâm đến vấn đề: làm thế nào để xây dựng, phát triển các mối quan hệ chiến lược cho xứng tầm “chiến lược” hoặc thành lập bao nhiêu đối tác chiến lược là vừa để tránh khả năng “lạm phát” đối tác chiến lược. Vì nếu thành lập quá nhiều đối tác chiến lược thì có thể sẽ không còn là “Đối tác chiến lược” nữa mà thành “Đối tác bình thường”. 24 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Xem: Đinh Công Tuấn, Vài nét về quan hệ đối tác chiến lược, 2. Tuyên bố chung Việt Nam-Trung Quốc, ngày 2/6/2008, 3. Tài liệu cơ bản về nước Nhật Bản và quan hệ Việt Nam - Nhật Bản, ngày 08-07-2014, 4. Tài liệu cơ bản về Hàn Quốc và quan hệ Việt Nam - Hàn Quốc, ngày 04-07-2014, 5. Thông tin cơ bản về indonesia và quan hệ với Việt Nam, indonesia.org/vi 6. Tuyên bố chung giữa CHXHCN Việt Nam và nước CH Indonesia ngày 28/6/2013, 7. Thông tin cơ bản về nước Cộng hòa Sigapore và quan hệ với Việt Nam, ngày 31-12-2009, 8. Tuyên bố chung về việc thiết lập quan hệ đối tác Chiến lược giữa Việt Nam với Cộng hòa Singapore, ngày 12-09-2013, 9. Thông tin cơ bản về Thái Lan và quan hệ Thái Lan - Việt Nam, ngày 30-12-2009, 10. Tuyên bố chung hai nước Việt Nam và Thái Lan, ngày 27-06-2013, 11. Theo tài liệu cơ bản về CHLB, Nga và quan hệ Việt Nam - Nga, 04-10-2012, 12. Thông tin cơ bản về nước Anh và quan hệ Việt Nam - Anh, 26-05-2014, 7-05-2014 13. Tài liệu cơ bản Cộng hoà Liên bang Đức và quan hệ Việt Nam - Đức, ngày 7-05-2014, 14. Tài liệu cơ bản về nước Pháp và quan hệ Việt Nam - Pháp, ngày 13-12-2010, 15-18. Phạm Bình Minh, Triển khai quan hệ đối tác chiến lược, đối tác toàn diện của Việt Nam, truy cập ngày 2/4/2015, Ngày nhận bài: 30/3/2015 Biên tập xong: 20/6/2015 Duyệt đăng: 25/6/2015
File đính kèm:
- thiet_lap_cac_quan_he_doi_tac_chien_luoc_mot_trong_nhung_tha.pdf