Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại

Trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam đương đại, sự xuất hiện ngày càng phong phú, đa hương sắc của một loạt cây bút nữ đã khiến cho nền văn học mang một diện mạo mới. Tiếng nói

của phụ nữ trong văn chương không chỉ phá vỡ thế “độc tôn” của

nam giới trong văn học mà thậm chí, khiến cho cả sáng tác của

nhiều nhà văn nam cũng mang đậm thiên tính nữ. Thiên tính nữ

- sự quan tâm đến số phận, tính cách, tâm hồn người phụ nữ, và

cách thức diễn tả, lý giải về thế giới từ góc nhìn giới tính được thể

hiện rất phong phú trên nhiều cấp độ đã khiến cho gương mặt văn

chương trở nên vừa sắc sảo, vừa khoan dung, nhân hậu và tinh tế.

Vì lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu đã dùng những cụm từ “gương mặt

nữ”, “Thiên tính nữ”, “âm hưởng nữ quyền” để định tính nền văn

học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích “Thiên tính nữ” và

góc nhìn giới tính như một hiện tượng thú vị và đặc sắc của văn

chương Việt Nam đương đại

pdf 6 trang kimcuc 4480
Bạn đang xem tài liệu "Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại

Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại
50
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
Trong quá trình vận động và phát triển của văn học Việt Nam đương đại, sự xuất hiện ngày càng phong phú, đa hương sắc của một loạt cây bút nữ đã khiến cho nền văn học mang một diện mạo mới. Tiếng nói 
của phụ nữ trong văn chương không chỉ phá vỡ thế “độc tôn” của 
nam giới trong văn học mà thậm chí, khiến cho cả sáng tác của 
nhiều nhà văn nam cũng mang đậm thiên tính nữ. Thiên tính nữ 
- sự quan tâm đến số phận, tính cách, tâm hồn người phụ nữ, và 
cách thức diễn tả, lý giải về thế giới từ góc nhìn giới tính được thể 
hiện rất phong phú trên nhiều cấp độ đã khiến cho gương mặt văn 
chương trở nên vừa sắc sảo, vừa khoan dung, nhân hậu và tinh tế. 
Vì lẽ đó, nhiều nhà nghiên cứu đã dùng những cụm từ “gương mặt 
nữ”, “Thiên tính nữ”, “âm hưởng nữ quyền” để định tính nền văn 
học. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ phân tích “Thiên tính nữ” và 
góc nhìn giới tính như một hiện tượng thú vị và đặc sắc của văn 
chương Việt Nam đương đại.
Vài nét về Chủ nghĩa nữ quyền và sáng tác của các cây bút nữ trong 
văn học Việt Nam đương đại
Chủ nghĩa nữ quyền (Feminism) là một trào lưu tư tưởng - xã 
hội chống lại chế độ nam quyền, đòi quyền bình đẳng cho phụ 
nữ, và văn học nữ quyền là sự lên tiếng của các nhà văn nữ với 
tư cách là những chủ thể trải nghiệm và chủ thể sáng tạo, chống 
lại sự kiềm toả, áp đặt của tư tưởng nam quyền về hình ảnh người 
phụ nữ qua các sáng tác văn chương. Cùng với sáng tác, phê bình 
văn học nữ quyền cũng ra đời gắn liền với những phong trào phụ 
nữ cuối thập niên 60, đầu 70 của thế kỷ XX. Lý thuyết về Chủ 
nghĩa nữ quyền được nêu và tổng kết trong một số công trình quan 
trọng của Robert Stoller, Barbara Johnson, Dale Spender, Mary 
Eagleton, Toril Moi, Julie Rivkin Michael Ryan, Judith Butler, 
Hélène Cixous Trong nghiên cứu và phê bình văn học, Annis 
Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính 
trong văn chương Việt Nam đương đại
Nguyễn Thị Năm Hoàng*
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội
Ngày nhận bài 12/11/2018; ngày chuyển phản biện 14/11/2018; ngày nhận phản biện 7/12/2018; ngày chấp nhận đăng 11/12/2018
Tóm tắt: 
Thiên tính nữ trong văn chương là đặc điểm, là thiên hướng tư duy nghệ thuật chi phối cách thức tổ chức tác phẩm 
mang bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất và giá trị của phụ nữ. Khuynh hướng này thể hiện một cách 
sâu rộng và phổ biến, tạo thành nét đặc sắc cho văn học Việt Nam đương đại. Bài viết vận dụng kết hợp phê bình Nữ 
quyền và các phương pháp nghiên cứu Văn hoá học, Thi pháp học, Tự sự học để mô tả và phân tích nguồn gốc của 
Thiên tính nữ, sự thể hiện của Thiên tính nữ và góc nhìn giới tính trong văn chương Việt Nam đương đại qua những 
hiện tượng tiêu biểu, trên một số phương diện cơ bản.
Từ khóa: góc nhìn giới tính, thiên tính nữ, văn chương Việt Nam đương đại.
Chỉ số phân loại: 5.10
*Email: namhoangvh@gmail.com
Femininity and gender 
perspective in Vietnamese 
contemporary literature
Thi Nam Hoang Nguyen*
University of Social Sciences and Humanities,
 Vietnam National University, Hanoi
Received 12 November 2018; accepted 11 December 2018 
Abstract: 
Femininity in literature is a feature, a tendency for 
artistic thinking. It leads to the ways of arranging 
works with female identities or the praise for qualities 
and values of women. This tendency is expressed widely 
and popularly, and it become a feature of Vietnamese 
contemporary literature. This article describes and 
analyses the origins of Femininity, the representation 
of Femininity and the gender perspective in Vietnamese 
contemporary literature through typical phenomena, 
in some basic aspects. The author uses the Feminist 
criticism and the methods of Cultural studies, Poetics, 
and Narratology in this study.
Keywords: femininity, gender perspective, Vietnamese 
contemporary literature.
Classification number: 5.10
51
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
Pratt xác định mục tiêu cơ bản của các nhà nữ quyền luận là phát 
hiện tác phẩm của các tác giả nữ, phân tích đặc điểm hình thức 
văn bản của các tác phẩm đó, tìm hiểu quan hệ giữa nam giới 
và nữ giới trong các tác phẩm đó, và tìm hiểu sự phát triển của 
các yếu tố huyền thoại và tâm lý liên quan đến phụ nữ trong văn 
chương. Elaine Showalter có tham vọng xây dựng được một bộ 
khung lý thuyết và mỹ học riêng cho các nhà phê bình nữ để tiếp 
cận và giải mã tác phẩm của các nhà văn nữ nhằm vượt thoát khỏi 
hệ thống lý thuyết và mỹ học do các nhà phê bình nam giới xác 
lập nên Nhìn chung, lý thuyết Nữ quyền có ảnh hưởng sâu sắc 
đến hệ thống tri thức và văn hoá của thời đại, tạo nên những thay 
đổi đáng kể trong cách đọc văn bản, trong phê bình và trong tiếp 
nhận văn học nói chung. Sự vận dụng lý thuyết Nữ quyền trong 
nghiên cứu các hiện tượng văn học, các tác giả và các nền văn học 
đã được thực hiện với những cấp độ khác nhau trong nền văn học 
các nước và tạo ra những thành tựu quan trọng. Đặc biệt, cuốn 
sách của Simonde de Beauvoir: Le deuxième sexe (đã được dịch 
sang tiếng Việt dưới nhan đề Giới nữ, NXB Phụ nữ ấn hành năm 
1996) là một công trình có ảnh hưởng mạnh mẽ đến phê bình văn 
học từ lý thuyết về giới. 
Trong văn học Việt Nam, việc có hay không Chủ nghĩa nữ 
quyền trong sáng tác văn chương vẫn còn là vấn đề gây tranh cãi 
giữa các nhà phê bình, nhưng sự thể hiện của Thiên tính nữ với 
những cấp độ và sắc thái khác nhau, là điều đã được khẳng định, 
đồng thời tạo nên sự hấp dẫn đối với độc giả và giới nghiên cứu*. 
Thiên tính nữ, nữ tính (Femininity) trong văn chương là đặc điểm, 
là nguyên tắc tư duy nghệ thuật, cách thức tổ chức tác phẩm mang 
bản sắc phái nữ hoặc sự đề cao những phẩm chất và giá trị của phụ 
nữ. Đặc điểm này có thể có ở cả sáng tác của những nhà văn nam, 
không phải đặc điểm riêng có trong tác phẩm của các cây bút nữ. 
Vậy, Thiên tính nữ trong văn chương có nguồn gốc từ đâu trong 
đời sống văn hoá, lịch sử dân tộc?
Ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là một trong những tín 
ngưỡng quan trọng và phổ biến đối với đời sống tinh thần, tâm 
linh của người Việt. Một tôn giáo lớn là Phật giáo khi du nhập vào 
Việt Nam cũng đã có sự kết hợp với tín ngưỡng này mà biểu hiện 
rõ nét, dễ thấy là sự tồn tại đồng thời cả ban thờ Phật và ban thờ 
Mẫu trong các ngôi chùa. Sự tôn thờ Mẫu dưới những dạng thức 
khác nhau cùng với sự lưu hành, truyền tụng những thần thoại, 
truyền thuyết về sức mạnh khởi nguyên, kiến tạo vũ trụ, sản sinh 
nòi giống dân tộc của người phụ nữ như Nữ Oa đội đá vá trời, 
Lạc Long Quân - Âu Cơ, phải chăng ít nhiều đã trở thành một 
thứ tiềm thức, để người Việt luôn bảo tồn và gìn giữ cái nhìn trân 
trọng, thành kính đối với người phụ nữ. Và ở thời đại hiện nay, 
cái nhìn ấy hơn lúc nào hết được thể hiện rộng rãi trong đời sống, 
đồng thời khúc xạ vào tư duy nghệ thuật của các nghệ sĩ, một cách 
mạnh mẽ, sâu sắc và vô cùng phong phú.
Trong văn học trung đại, mặc dù dưới sức ép của Nho giáo với 
tư tưởng trọng nam khinh nữ, nền văn học dân tộc, cho dẫu là hi 
hữu, vẫn có những tác giả nữ ghi dấu ấn một cách mạnh mẽ. Đoàn 
Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Bà huyện Thanh Quan là những hiện 
tượng tiêu biểu. Bên cạnh đó, sự quan tâm đến thân phận và ngợi 
ca vẻ đẹp của người phụ nữ - trên cả hai phương diện thân và tâm, 
cũng đã trở thành một đề tài, chủ đề quan trọng trong sáng tác của 
các tác giả nam, tạo nên những thành tựu rực rỡ cho nền văn học 
trung đại, đặc biệt là cuối thời trung đại. Tinh thần nhân đạo, nhân 
văn của Đặng Trần Côn, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn 
Du, Nguyễn Đình Chiểu, Trần Tế Xương, Tản Đà đã kiến tạo 
nên những hình tượng có sức sống lâu bền, dệt nên những tác 
phẩm đạt đến giá trị mang tính cổ điển mà sức ảnh hưởng, sự lan 
toả còn kéo dài đến văn học hiện đại. Đó là những tiền đề quan 
trọng cho sự xuất hiện ngày càng đỡ thưa thớt hơn của người phụ 
nữ trong văn chương Việt Nam thế kỷ XX, ở cả đội ngũ sáng tác 
lẫn thế giới nhân vật.
Sau khi chế độ phong kiến với hệ tư tưởng Nho giáo đề cao 
nam quyền chính thức kết thúc vào năm 1945, đất nước Việt Nam 
lại trải qua 30 năm với điều kiện đặc biệt của chiến tranh - một 
điều kiện xã hội mà nam giới chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng. 
Phải đợi đến thời kỳ đương đại từ sau năm 1975, và đặc biệt là từ 
thời kỳ Đổi mới (1986 đến nay), người phụ nữ mới thực sự được 
giải phóng về mọi mặt và có điều kiện tham dự vào hầu hết các 
phương diện của đời sống xã hội. Trong lĩnh vực văn chương nghệ 
thuật, sự xuất hiện với số lượng lớn và ngày càng thành công của 
các cây bút nữ là một hiện tượng đặc sắc về đội ngũ sáng tác giai 
đoạn này. Hội Nhà văn Việt Nam - tổ chức chính thống lớn nhất 
của những người làm văn chương, có hơn 200 hội viên nữ hoạt 
động trong các lĩnh vực văn xuôi, thơ và nghiên cứu, phê bình. 
Nhiều thế hệ nhà văn nữ đã ghi dấu tên tuổi của mình với sáng tác 
ở tất cả các thể loại: từ những nhà văn trưởng thành trong chiến 
tranh như Lê Minh Khuê, Nguyễn Thị Hồng Ngát, Nguyễn Thị 
Ngọc Tú, qua những nhà văn xuất hiện ngay sau cuộc chiến như 
Phạm Thị Hoài, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần 
Thuỳ Mai, qua những nhà văn của thời kỳ Đổi mới như Nguyễn 
Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Y Ban, Dạ Ngân, Võ Thị Xuân 
Hà, đến một loạt nhà văn trẻ thế hệ 7X, 8X như Phan Huyền Thư, 
Vi Thuỳ Linh, Ly Hoàng Ly, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý, 
Võ Diệu Thanh, Nguyễn Thị Châu Giang, Phong Điệp, Trang Hạ, 
DiLi, và cả nhiều cây bút trẻ mới vào nghề. 
Trước sự góp mặt ngày càng đông đảo và mạnh mẽ của các 
cây bút nữ đối với quá trình vận động và phát triển của văn học 
nước nhà, năm 2015, Nhà xuất bản Hội Nhà văn đã cho ra mắt bộ 
*Cuối năm 1996, nhà nghiên cứu Phương Lựu có bài viết “Suy nghĩ về đặc 
điểm của nữ văn sĩ” trên Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật; Bích Thu viết về 
“Văn xuôi của phái đẹp” trên Tạp chí Sông Hương, số 3/2001. Một loạt tuyển 
tập truyện ngắn của các nhà văn nữ được xuất bản vào đầu thế kỷ XXI. Sáng 
tác của các nhà văn nữ hải ngoại cũng được chú ý: Nhà xuất bản Phụ nữ giới 
thiệu 25 truyện ngắn của 21 tác giả nữ hải ngoại trong tuyển tập Khung trời bỏ 
lại. Năm 2012, Viện Văn học tổ chức tọa đàm Văn xuôi nữ trong bối cảnh văn 
học Việt Nam đương đại với sự tham gia của gần 30 tham luận. Bàn về nhà văn 
Nguyễn Huy Thiệp - một trong những cây bút truyện ngắn xuất sắc nhất của 
văn học Việt Nam đương đại trong bài Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi 
gió, nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến (2001) đã phân tích Thiên tính nữ như 
“sự hiện thân của nguyên tắc tư tưởng tạo ra cảm hứng chủ đạo”, “điểm tựa 
tinh thần” của tác giả trong các truyện ngắn. Một loạt bài viết, luận văn, luận án 
cũng vận dụng lý thuyết Nữ quyền và góc nhìn về giới để soi chiếu một số hiện 
tượng văn học Việt Nam đương đại. Năm 2015, Trường Đại học Sư phạm Hà 
Nội tổ chức hội thảo khoa học Nữ quyền - những vấn đề lý luận và thực tiễn với 
nhiều tham luận về nữ tính, nữ quyền trong văn chương Việt Nam đương đại.
52
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
sách Phái đẹp, Cuộc đời và Cây bút, tập hợp sáng tác của gần 100 
nữ sĩ trong các lĩnh vực thơ, văn xuôi và lý luận phê bình văn học. 
Không chỉ ở trong nước, có những cây bút nữ người Việt đang 
định cư ở nước ngoài cũng thường xuyên xuất bản tác phẩm tại 
Việt Nam mà trường hợp điển hình là Thuận và Đỗ Hoàng Diệu 
Sự đa dạng về bút pháp, phong cách của đội ngũ các nhà văn nữ 
đã làm nên một vườn hoa nhiều hương sắc cho văn học Việt Nam 
đương đại. Tất nhiên, nói đến thành tựu văn học giai đoạn này, 
cũng không thể không nhắc tới tên tuổi của rất nhiều nhà văn nam 
xuất sắc như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn 
Quang Thiều, Tạ Duy Anh, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Việt 
Hà, tuy nhiên, số lượng và chất lượng của các nhà văn nữ, như 
chúng tôi vừa mô tả, đã đem lại cho đội ngũ sáng tác một nét nữ 
tính rất đặc biệt, nét riêng của thời đương đại. Nhưng đó mới chỉ 
là sự phác thảo trên bề mặt, Thiên tính nữ của văn chương Việt 
Nam đương đại được thể hiện rõ nét trên các phương diện khác 
nhau của thế giới nghệ thuật. 
Thiên tính nữ và một số phương diện của chủ nghĩa nữ quyền trong 
văn chương Việt Nam đương đại
Từ sự mở rộng phạm vi phản ánh về thế giới phụ nữ
Mặc dù số phận, cuộc sống của người phụ nữ là một đề tài 
vô cùng quen thuộc trong văn học Việt Nam, thậm chí đã từng 
đem lại thành tựu lớn cho nhiều tác phẩm văn học thời trung đại, 
cũng như văn học hiện đại trước năm 1975, nhưng chưa bao giờ, 
nó được quan tâm thể hiện một cách phong phú như trong văn 
chương đương đại. Không chỉ là sự đồng cảm, xót thương của 
các nhà văn với những kiếp người bé nhỏ, tội nghiệp trong xã 
hội, văn chương đương đại đã phản ánh cuộc sống của người phụ 
nữ trong tính toàn vẹn, chân thực, đa dạng sắc thái thẩm mỹ bao 
gồm cả cái đẹp và cái xấu, hạnh phúc và khổ đau; và tâm hồn họ 
cũng phức tạp với cả mặt cao thượng và thấp hèn, cả sự tự tin, chủ 
động, mạnh mẽ lẫn yếu đuối, trì trệ, lệ thuộc, và đặc biệt là tinh 
thần phản tư - tự đối diện và đấu tranh với chính mình. Có những 
người phụ nữ là nạn nhân của hoàn cảnh, của chiến tranh với một 
số phận bi kịch như Thuỳ Châu trong Vũ điệu địa ngục của Võ Thị 
Hảo, các nhân vật nữ trong Nhiệt đới gió mùa của Lê Minh Khuê. 
Trước sự khắc nghiệt của hoàn cảnh, với những phẩm chất truyền 
thống như nhẫn nại, hy sinh, chung thuỷ, có những nhân vật đã trở 
thành trung tâm của thế giới, trở thành biểu tượng cho cái Đẹp, cái 
Thiện cuối cùng còn sót lại của thế gian, là điểm tựa để con người 
còn giữ được niềm tin, sự lạc quan trước sự tha hoá khôn lường 
của tính cách như ở Trăng nơi đáy giếng của Trần Thuỳ Mai. 
Bên cạnh đó, nhiều tác giả nữ đã sáng tạo nên những nhân vật 
phụ nữ vượt lên trên ràng buộc của hoàn cảnh, tự tạo ra những 
bước ngoặt để đưa cuộc đời mình chủ động rẽ sang một hướng 
khác như Thảo trong Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo, 
người vợ trong Tân cảng của Nguyễn Thị Thu Huệ. Người phụ nữ 
dám sống hết mình, dấn thân, cuồng si trong tình yêu, trong những 
niềm tin, những nguyên tắc riêng cực đoan, khờ dại của tuổi thanh 
xuân, cho dù những đam mê ấy có thể phải trả những cái giá rất 
đắt như những cô gái trẻ trong Yêu, Khi người ta trẻ của Phan Thị 
Vàng Anh. Thơ Vi Thuỳ Linh ở nhiều bài bộc lộ tâm tư của người 
con gái chủ động bày tỏ tình yêu, khát vọng kiếm tìm hạnh phúc 
cá nhân, tự dấn thân vào tình yêu - ngay cả khi tình yêu gắn với 
nỗi buồn và cô đơn tột độ: Em lầm lũi lại đến trước nhà anh/Nhặt 
xác nỗi buồn/Đốt lên thành lửa/Rồi đi/Sau lưng em ngày nắng tắt 
(Từ phía ngày nắng tắt); Anh yêu của em/ Em yêu anh cuồng điên/
Yêu đến tan cả em/ào tung ký ức/Ngày dài hơn mùa/Em mong 
mỏi/Em (có lúc) như một tội đồ nông nổi (Người dệt tầm gai) 
Với tư cách là những con người ý thức cao về phẩm giá của 
bản thân và có cái nhìn thấu thị về đời sống, có những nhân vật nữ 
trở thành người phán xử hiện thực như cô con gái phát hiện những 
lỗi lầm của cha mình trong Kịch câm của Phan Thị Vàng Anh. Và 
nhiều nhân vật nữ đã tự nhìn ngắm tâm hồn mình để suy ngẫm, 
tự phản biện, tự đối thoại, tự phán xét để trưởng thành như cô 
con gái trong Còn lại một vầng trăng, My trong Thiếu phụ  ... ởng mà còn qua cấu trúc hình thức tác phẩm. 
Xét trên phương diện nghệ thuật xây dựng nhân vật, Thiên 
tính nữ trong văn học Việt Nam đương đại được thể hiện ở sự 
quan tâm đến thế giới cảm xúc, cảm giác, tâm tư, tiềm thức của 
nhân vật. Để phơi bày tâm lý nhân vật, nhiều kỹ thuật khác nhau 
đã được sử dụng. Có khi nhà văn để cho nhân vật trực tiếp bộc 
bạch, tâm sự về mình với một nhân vật khác. Người phụ nữ trong 
Chuyện bếp núc của Lê Minh Khuê đã tìm đến với anh họa sĩ để 
bộc lộ những trăn trở, suy nghĩ thầm kín của mình từ khi người em 
chồng xuất hiện trong nhà mình, và tâm sự của chị đã giúp người 
đọc thấy được những vấn đề sâu sắc về nhân sinh, thế sự.
Cũng là một cách để cho nhân vật tự giãi bày tâm tư tình cảm 
của mình, nhưng thay vì đối thoại trực tiếp, trong nhiều truyện, 
các tác giả đã xây dựng những cuộc đối thoại tưởng tượng giữa 
nhân vật trung tâm với một nhân vật khác. Nhân vật cô gái cũng 
là người kể chuyện trong Bức thư gửi mẹ Âu Cơ đã khẩn thiết bộc 
bạch tấm lòng mình với Mẹ: “Mẹ ơi, từ bấy đến nay hai mẹ con ta 
cùng mang nỗi đau. Mẹ mang nỗi đau của người mẹ, nỗi đau có 
đứa con hư hỏng. Con đau nỗi đau của con, và cũng là nỗi đau của 
người mẹ” [3]. Từ câu chuyện và nỗi đau đớn, xót xa của cô gái 
trót một lần dại dột để rồi mãi mãi sống trong nỗi ám ảnh và mặc 
cảm tội lỗi, cô đã đối thoại với mẹ Âu Cơ, với những xác tín ngàn 
đời làm nên nỗi đau cho những người con, người mẹ, và khẩn cầu 
một sự thấu hiểu: “Mẹ ơi, mẹ hãy quan tâm đến chúng con, đến 
nỗi đau của những cô gái, những bà mẹ. Mẹ kính yêu ơi! Xin mẹ 
hãy tha thứ cho con”. Cũng là đối thoại tưởng tượng, sau khi phải 
trả giá quá đắt cho lối sống buông thả, xô bồ bằng sự ruồng rẫy, 
chối bỏ của người yêu, Hoài trong Xin hãy tin em của Nguyễn Thị 
Thu Huệ đã cay đắng thốt lên: “Bố mẹ ơi, sao bố mẹ không dạy 
con rằng mọi chuyện đều xảy ra có một lần trong đời. Mọi chuyện 
qua đi không lấy lại được. Sao bố mẹ chỉ nhăm nhăm gửi tiền cho 
con mà không ở bên con mỗi sáng mỗi chiều cho con bớt cô đơn? 
Học mà làm cái gì khi trong đầu con rỗng tuếch, chẳng có tí kiến 
54
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
thức nào ngoài sự lo toan cho cuộc sống sắp tới”. Đó phải chăng 
là tiếng gọi chới với của một trái tim khao khát một tình yêu đích 
thực, một tâm hồn khao khát trở về với sự trong trắng nguyên sơ, 
một ước vọng níu giữ chút niềm tin dẫu mong manh mà đẹp đẽ 
cho cuộc đời. Như vậy, đối thoại tưởng tượng thực chất chính là 
một cách để nhân vật đối diện với chính mình, nhìn nhận rõ hơn 
bản thân mình. Nhờ đó, nhân vật giải tỏa những ẩn ức về tâm lý bị 
dồn nén trong đáy sâu tâm hồn mình, để hóa giải nỗi đau, nỗi cô 
đơn đang bủa vây cuộc sống của mình. Đó cũng là cách để nhân 
vật chiến thắng những trở ngại của hoàn cảnh bằng chính sức 
mạnh tinh thần của bản thân.
Để diễn tả thành công thế giới tâm lý phức tạp, không ngừng 
vận động của các nhân vật nữ, có một hiện tượng thường gặp 
trong nhiều tác phẩm, đó là câu văn nửa trực tiếp, là sự thay đổi 
về ngôi kể và điểm nhìn trần thuật, ở đó chủ thể của phát ngôn 
có sự dịch chuyển từ người kể chuyện sang nhân vật một cách 
thầm lặng và tinh vi. Trong Tình yêu ơi, ở đâu?, cuộc gặp gỡ 
giữa Quyên với chàng thi sĩ nát rượu và thô bỉ đã kết thúc trong 
những câu văn nửa kể, nửa giãi bày: “Đó là buổi chiều cuối cùng 
nàng gặp chàng. Một thần tượng thi ca sụp đổ trong lòng nàng. 
Nàng yêu những vần thơ của chàng nhưng không thể yêu chàng 
- người đã viết nên những vần thơ đó. Thôi, đành xếp vào góc 
cuộc đời một cuộc tình và chỉ nên đọc những bài thơ chàng in trên 
báo” [4]. Đó không chỉ là lời của người trần thuật câu chuyện một 
cách khách quan mà còn đan xen nỗi lòng chua xót, đắng cay của 
Quyên sau một lần thất vọng vì tình yêu. Trong Con chó và vụ ly 
hôn của Dạ Ngân, khi tòa yêu cầu trình bày rõ hơn lý do của việc 
xin ly hôn, tình cảnh của Đoan được diễn tả qua những câu văn 
vừa như kể, vừa như độc thoại, vừa như căn vặn: “Chị nói gì nữa 
bây giờ? Toàn những chi tiết thuộc về cảm giác. Bà chánh án đó, 
trang trọng trong chiếc áo bà ba bằng soie trắng, trông bà cổ kính 
như một quá khứ đáng tôn thờ. Chắc là bà may mắn có ông chồng 
hợp ý và yên ấm, bà yên phận. Bà có hiểu được nhu cầu tình cảm 
của những chị em trẻ hơn bà, còn ham muốn hoàn thiện cuộc sống 
mình? Còn cô thư ký trẻ, da ngăm ngăm, môi tô màu cam đỏ, tóc 
uốn xù theo mốt, quần chẽn và áo sọc ca rô, cô ta thuộc về niên 
đại mới, quá mới, mới đến mức sẵn sàng “gút-bai” cái người cản 
trở ý thích của cô ta hoặc ngược lại, sẵn sàng mỉm cười khi người 
đó chào tay trái với cô nhưng chắc cô ta chưa chồng, cô xa lạ với 
loại cảm giác mà chị buộc phải kể ra” [5]. Ở đây, chủ thể của lời 
kể chuyện vẫn là một người kể hàm ẩn, tức là câu chuyện vẫn 
được kể từ ngôi thứ ba, nhưng nội dung của lời kể lại là những 
cảm nhận, tâm trạng mang tính chủ quan - là thế giới bên trong 
nội tâm nhân vật. Nói cách khác, bản chất của trần thuật từ chỗ 
tái hiện một câu chuyện về người khác đã ngầm chuyển thành tự 
giãi bày nội tâm của bản thân mình, qua đó, những phân tích của 
chính nhân vật về cảnh ngộ và tâm tư của mình được thực hiện.
Hướng vào biểu thị đời sống nội tâm nhân vật, trật tự niên 
biểu của cốt truyện thường bị phá vỡ, câu chuyện được tái hiện 
theo quy luật tâm lý của nhân vật hơn là theo diễn tiến thông 
thường của thời gian vật lý. Dòng ý thức, đồng hiện, lắp ghép là 
những thủ pháp quen thuộc trong nghệ thuật tâm lý của các nhà 
văn. Ở tầng sâu nhất của nội tâm, tiềm thức, vô thức, trực giác, 
tâm linh của con người cũng đã được khai phá trong nhiều truyện 
ngắn. Giấc mơ là một chi tiết, thậm chí, một biểu tượng nghệ thuật 
được nhiều tác giả vận dụng để biểu hiện những khát vọng, những 
mong ước, những ám ảnh, những ẩn ức nằm trong vùng khuất lấp 
của tâm hồn người phụ nữ. Những ám ảnh về quá khứ, về thực tại 
thường trực trong tâm trí, trong nỗi băn khoăn của nhân vật được 
diễn tả thông qua các giấc mơ với Ám ảnh, Phù thủy của Nguyễn 
Thị Thu Huệ, Người sót lại của rừng cười của Võ Thị Hảo. Những 
ẩn ức tâm lý và sinh lý của nhân vật nữ trong Bóng đè của Đỗ 
Hoàng Diệu cứ chập chờn ẩn hiện, quằn quại, mãnh liệt trong 
những giấc mơ. Và giấc mơ hay thế giới tâm linh, tín ngưỡng là 
nơi để các nhân vật hiện thực hóa khát vọng của mình về một thế 
giới bình yên, đẹp đẽ, thuần khiết, đối lập với hiện thực nhiều 
đau buồn trong Người đi tìm giấc mơ của Nguyễn Thị Thu Huệ, 
Trăng nơi đáy giếng của Trần Thuỳ Mai. Khi logic của lý trí tỉnh 
táo không đủ để giải tỏa tâm tư, giấc mơ, tiềm thức chính là một 
phương thức hữu hiệu để các tác giả giúp cho nhân vật nữ phơi 
bày thế giới bí ẩn, phức tạp bên trong của mình.
Đối thoại trực tiếp, đối thoại tưởng tượng, độc thoại nội tâm, 
những ám ảnh tiềm thức và các thủ pháp trong nghệ thuật trần 
thuật đã giúp cho các nhà văn thể hiện tối đa năng lực phân tích 
tâm lý nhân vật của mình, từ đó người đọc có thể tiếp cận và am 
hiểu nhân vật trong chiều sâu của tính cách, trong cả những phần 
sâu kín tưởng như khuất lấp, khó giải mã nhất của tâm hồn.
Bên cạnh phương diện xây dựng nhân vật, Thiên tính nữ còn 
được thể hiện trong sự linh hoạt, đa dạng của các hình thức kết cấu 
tác phẩm. Truyện ngắn, tiểu thuyết đương đại thường sử dụng các 
hình thức kết cấu gắn liền với logic tâm lý của nhân vật, cùng với 
đó là các kiểu kết cấu mang tư duy đương đại, mang cảm quan hậu 
hiện đại như kết cấu phân mảnh, lắp ghép, kết cấu xoắn kép, kết 
cấu tầng bậc, kết cấu liên hoàn. Truyện ngắn Hậu thiên đường của 
Nguyễn Thị Thu Huệ được cấu trúc bởi ba lớp truyện, gắn với ba 
ngôi kể và điểm nhìn khác nhau: lớp truyện về những suy tư, trăn 
trở đầy trải nghiệm của người mẹ; lớp truyện về thế giới ngập tràn 
cảm xúc yêu đương - vừa bỡ ngỡ, ngượng ngập, vừa nồng nàn, 
si mê, vừa băn khoăn của cô con gái 16 tuổi trong cuốn nhật ký; 
và lớp truyện ngắn gọn, khô khốc của người kể chuyện hàm ẩn ở 
những dòng cuối tác phẩm. Cấu trúc tầng bậc đã giúp câu chuyện 
được soi rọi từ nhiều góc độ khác nhau và người đọc có thể vừa 
quan sát, vừa đồng cảm với từng nhân vật. Paris 11 tháng 8 của 
nhà văn Thuận là một tiểu thuyết có kết cấu xoắn kép giữa câu 
chuyện của Liên, của Mai Lan, của những người bạn khác trong 
khu ổ chuột Paris, với câu chuyện chung về Paris, về nước Pháp 
trong niềm hổ thẹn sâu kín của một xã hội hậu tư bản viên mãn 
nhưng đầy lúng túng và bất lực trước thiên tai: trận nắng nóng 
khủng khiếp ngày 11 tháng 8. 22 chương là 22 mảnh hư cấu xoắn 
kép với 22 bài báo được tác giả trích dẫn ở đầu mỗi chương tạo 
cho tác phẩm một sự song chiếu giữa cái riêng với cái chung, giữa 
cái chủ quan với cái khách quan, giữa những thân phận, những 
cuộc đời cụ thể với bối cảnh xã hội, giữa dạt dào suy tư, tâm trạng 
với cái nhìn khách quan có tính tổng kết của báo chí. Tiểu thuyết 
Trò chơi huỷ diệt cảm xúc của Y Ban với 10 chương dài ngắn khác 
nhau là những mảnh ghép về cuộc sống đương đại. Ở đó, sự phát 
55
Khoa học Xã hội và Nhân văn
61(4) 4.2019
triển mạnh mẽ của công nghệ giúp con người có thêm phương tiện 
khám phá thế giới và tự khám phá nội tâm mình trong một cuộc 
phiêu lưu không cùng, và đồng thời cũng có thể khiến con người 
bị lệ thuộc và đi đến sự huỷ diệt cảm xúc. Thái Phan Vàng Anh 
(2017) [6] đã phân tích các thủ pháp của tiểu thuyết đầu thế kỷ 
XXI như mặt nạ tác giả, liên văn bản, giễu nhại, tự sự đa chủ thể, 
đa điểm nhìn trần thuật như là những yếu tố thuộc về “Trò chơi 
và lối viết”. Kết cấu phân mảnh, lắp ghép, xoắn kép, với những 
thủ pháp kỹ thuật hiện đại đã khiến cho các tác phẩm tự sự nói 
chung trở nên phóng khoáng, linh hoạt, đầy sức hấp dẫn, và kiến 
tạo nên chúng có một phần không nhỏ của các nhà văn nữ. Tình 
hình cũng tương tự như với thơ. Bàn về Nỗ lực đổi mới trong thơ 
nữ đương đại, Bích Thu (2015) [7] đánh giá: “Từ sau thời kỳ đổi 
mới, nhất là trong những năm đầu của thế kỷ XXI, thơ của những 
cây bút nữ đã thực sự làm nóng thi đàn với sự ra đời của hàng loạt 
tác phẩm, với sự xuất hiện của các hiện tượng, các hoạt động thơ 
tạo sự chú ý của công chúng và dư luận. Trên mặt bằng chung, 
bên cạnh các cây bút nam giới, những người nữ làm thơ đã nỗ lực 
tìm tòi, thể hiện theo thi pháp truyền thống hay hiện đại đều góp 
phần làm cho đời sống thi ca được vận hành, cọ xát, va đập, không 
chịu bằng lòng với những gì đã có, trở thành kích thích tố cho sự 
đổi mới thể loại trữ tình”. Trong bài viết Đôi nét về thơ nữ đương 
đại, Lưu Khánh Thơ (2017) [8] nhận định: “Sự xuất hiện của một 
số cây bút nữ trên thi đàn Việt Nam hiện đại đã tạo được ấn tượng 
trong tâm lý tiếp nhận của người đọc. Từ sau 1986 đội ngũ các cây 
bút nữ xuất hiện ngày càng đông đảo với hàng loạt tên tuổi như: 
Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng, Giáng Vân, Tuyết Nga, 
Phạm Thị Ngọc Liên, Đinh Thị Như Thuỳ... Trong đó có những 
hiện tượng như Vi Thuỳ Linh, Phan Huyền Thư, Ly Hoàng Ly, 
Trương Quế Chi, Trần Lê Sơn Ý những cây viết trẻ đã gây nên 
những luồng dư luận khác nhau trong giới cầm bút. Qua sáng tác 
của các cây bút nữ mới đã tạo được những dấu ấn riêng, chúng ta 
bước đầu có thể rút ra nhận xét về những đặc điểm chính trong 
thơ của họ. Những đặc điểm đó phần nào cũng là điểm chung cho 
những người làm thơ hôm nay”. Các nhà thơ nữ trẻ thường hướng 
tới tự do hoá hình thức văn bản thơ của mình thông qua việc sử 
dụng linh hoạt thơ tự do. Thể thơ tự do giúp cho mạch cảm xúc, 
mạch tư duy và trường liên tưởng trong thơ uyển chuyển, phóng 
khoáng hơn, phù hợp với thế giới tâm hồn phong phú, phức tạp 
của người phụ nữ.
Trên phương diện ngôn ngữ, có thể thấy các sáng tác mang 
Thiên tính nữ đều mang dấu ấn rất riêng của phái tính, của cá nhân 
các tác giả gắn với hệ sinh thái tự nhiên và tinh thần của họ - điều 
mà các nhà phê bình sinh thái nữ quyền gọi là mối liên hệ chặt chẽ 
giữa môi trường (môi trường tự nhiên, môi trường xã hội), phụ 
nữ và văn chương [9]. Đó có thể là ngôn ngữ ngắn gọn, lạnh lùng 
của Phan Thị Vàng Anh, là ngôn ngữ giàu trải nghiệm, suy tư của 
người phụ nữ đô thị trong thời kỳ mở cửa như trong văn Nguyễn 
Thị Thu Huệ, là ngôn từ sắc sảo mặn mà của Y Ban, là giọng văn 
trang nhã của Dạ Ngân, là sự trong trẻo hồn hậu trong ngôn ngữ 
Đỗ Bích Thuý, là chất Nam Bộ đậm đặc trong văn Nguyễn Ngọc 
Tư, là ngôn ngữ hiện đại khoẻ khoắn của DiLi, là nét trầm tĩnh 
khoan dung của ngôn ngữ truyện Lê Minh Khuê, là Thuận với sự 
pha trộn giữa nét cá tính mạnh mẽ và sự duyên dáng, quyến rũ 
trong từng câu chữ, hay ngôn ngữ thơ mang màu sắc tượng trưng 
của Vi Thuỳ Linh và sự từng trải pha chút giễu nhại trong thơ 
Phan Huyền Thư Song với tất cả những sắc thái trên, điểm gặp 
gỡ của ngôn ngữ văn chương của các tác giả nữ là sự hàm súc, 
tinh tế và đằm thắm trên cả cấp độ từ vựng và cấp độ ngữ pháp. 
Cái Thiên tính nữ, sự tinh tế, giàu cảm xúc khi biểu đạt cuộc sống 
và thế giới tâm hồn của các nhân vật nữ, đôi khi còn lan sang cả 
sáng tác của các nhà văn nam. Ngôn ngữ Nguyễn Quang Thiều, 
Hồ Anh Thái là những trường hợp điển hình.
kết luận
Qua khảo sát những trường hợp tiêu biểu, trên một số phương 
diện cơ bản, có thể thấy Thiên tính nữ là một yếu tố, một đặc điểm 
đáng chú ý của văn chương Việt Nam đương đại. Đặc điểm ấy 
được thể hiện cả ở sự mở rộng phạm vi phản ánh về hình tượng 
người phụ nữ, cả ở sự đa dạng hoá và biệt sắc phái tính trong kỹ 
thuật văn chương. Thiên tính nữ tuy có nguồn gốc sâu xa trong 
cội rễ văn hoá Việt Nam và đã xuất hiện rải rác trong văn học Việt 
Nam các giai đoạn trước, nhưng chỉ nở rộ với những biểu hiện 
đồng đều, sâu sắc trên hầu khắp các bộ phận, các thể loại của nền 
văn học như một điểm đặc sắc trong giai đoạn đương đại. Sự tiếp 
tục nghiên cứu về sự thể hiện của yếu tố này một cách cụ thể, chi 
tiết trong từng thể loại, trong các đề tài, chủ đề, trong hệ thống 
hình tượng, biểu tượng văn học, và nghiên cứu so sánh yếu tố 
này trong nền văn chương đương đại Việt Nam với các nền văn 
chương trong khu vực có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn 
hoá, là cần thiết, để soi rọi vấn đề một cách sâu rộng và toàn diện 
hơn.
lỜi Cảm ƠN
Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Hà Nội 
thông qua đề tài mã số QG.18.52. Tác giả xin trân trọng cảm ơn.
Tài liệu Tham khảo
[1] L. Tyson (2006), “Feminist criticism”, Critical theory today: a user - 
friendly guide, New York, Oxon.
[2] Bùi Việt Thắng (2006), “Một vườn hoa nhiều hương sắc”, Mùa thu 
vàng rực rỡ, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, tr.5-7.
[3] Y Ban (2005), Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Nhà xuất bản Thanh niên.
[4] Nguyễn Thị Thu Huệ (2018), Của để dành, Nhà xuất bản Trẻ.
[5] Dạ Ngân (1989), Con chó và vụ ly hôn, Nhà xuất bản Tác phẩm mới.
[6] Thái Phan Vàng Anh (2017), Tiểu thuyết Việt Nam đầu thế kỷ XXI - lạ 
hoá một cuộc chơi, Nhà xuất bản Đại học Huế.
[7] Bích Thu (2015), Văn học Việt Nam hiện đại - sáng tạo và tiếp nhận, 
Nhà xuất bản Văn học.
[8] Lưu Khánh Thơ (2017), “Đôi nét về thơ nữ đương đại”, 30 năm đổi 
mới nghiên cứu văn học nghệ thuật và Hán Nôm: Thành tựu - Vấn đề - Triển 
vọng, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, tr.449-458.
[9] D.A. Vakoch (ed) (2014), Feminist ecocriticism: environment, 
woman, and literature, Lexington Books, Maryland. 

File đính kèm:

  • pdfthien_tinh_nu_va_goc_nhin_gioi_tinh_trong_van_chuong_viet_na.pdf