Thị trường bán lẻ cộng đồng kinh tế Asean: Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam
Sau ḥi ngḥ thượng đ̉nh ASEAN l̀n th́
27 đã mang ḷi nhìu thời cơ cũng như th́ch
th́c đ́i với lĩnh ṿc b́n lẻ nói chung v̀ cũng
như Vịt Nam nói riêng. Đ́i với Vịt Nam, ćc
r̀o c̉n v̀ thú quan, phi thú quan v̀ thụn
lợi thương ṃi mang ḷi cho Vịt Nam những
thời cơ nhằm nâng cao chất lượng cũng như
THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN:
THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM
Nguyễn Minh Đạt*
ǹn kinh t́ nước nh̀. Tuy nhiên, Vịt Nam
ḷi chưa tḥt ṣ ṭn dụng được những thời cơ
cũng như ćc doanh nghịp b́n lẻ nước ngòi
đang ồ ̣t đ̀u tư v̀o Vịt Nam đang đặt ra
những th́ch th́c cho Nh̀ nước cũng như ćc
doanh nghịp ṇi đ̣a
Bạn đang xem tài liệu "Thị trường bán lẻ cộng đồng kinh tế Asean: Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thị trường bán lẻ cộng đồng kinh tế Asean: Thời cơ và thách thức đối với Việt Nam
14 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật TÓM TẮT Sau ḥi ngḥ thượng đ̉nh ASEAN l̀n th́ 27 đã mang ḷi nhìu thời cơ cũng như th́ch th́c đ́i với lĩnh ṿc b́n lẻ nói chung v̀ cũng như Vịt Nam nói riêng. Đ́i với Vịt Nam, ćc r̀o c̉n v̀ thú quan, phi thú quan v̀ thụn lợi thương ṃi mang ḷi cho Vịt Nam những thời cơ nhằm nâng cao chất lượng cũng như THỊ TRƯỜNG BÁN LẺ CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN: THỜI CƠ VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI VIỆT NAM Nguyễn Minh Đạt* ǹn kinh t́ nước nh̀. Tuy nhiên, Vịt Nam ḷi chưa tḥt ṣ ṭn dụng được những thời cơ cũng như ćc doanh nghịp b́n lẻ nước ngòi đang ồ ̣t đ̀u tư v̀o Vịt Nam đang đặt ra những th́ch th́c cho Nh̀ nước cũng như ćc doanh nghịp ṇi đ̣a Từ khóa: ASEAN, thị trường bán lẻ. * Gỉng viên Khoa Qủn Tṛ, trường Đ̣i ḥc Lụt TPHCM. NCS. Ḥc vịn KHXH, Vịn H̀n lâm KHXM Vịt Nam THE ASEAN COMMERCIAL ECONOMIC COMMODITY MARKET: TIMING AND CHALLENGES FOR VIETNAM ABSTRACT After the Summit 27th ASEAN has brought a lot of opportunities as well as challenges for the retail sector in general and Vietnam particular. For Vietnam, barrier of tariff tax, non-tariff tax and trade facilitation gives Vietnam the opportunities to imporve the quality and also the country’s economy. However, Vietnam has not really take the advatanges and foreign retailers are massively investing in Vietnam are posing challenges for the State as well as local businesses. Keyword: ASEAN, retail market 1. THỊ TRƯỜNG CHUNG CỦA CỘNG ĐỒNG KINH TẾ ASEAN Ngày 22/11/2015 tại Hội nghị thượng đ̉nh ASEAN lần thứ 27, các nhà lãnh đạo ASEAN đã ký kết Tuyên bố Kuala Lumpur về việc thành lập Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) với 4 mục tiêu: hình thành một thị trường và cơ sở sản xuất chung, hình thành một khu ṿc kinh tế cạnh tranh, phát triển kinh tế cân bằng và hội nhập vào nền kinh tế toàn cầu. Từ 31/12/2015, AEC chính thức hình thành. AEC được ḍ kiến như là một thị trường và cơ sở sản xuất đơn nhất cho phép dòng chảy ṭ do của hàng hóa, dịch vụ, đầu tư và lao động của một cộng đồng kinh tế chung quy mô lớn và phát triển nĕng động. Các biện pháp chính mà ASEAN sẽ tḥc hiện để xây ḍng một thị trường chung bao gồm dỡ bỏ thuế quan và các hàng rào phi thuế quan; thuận lợi hóa thương mại, hài hòa hóa các tiêu chuẩn sản phẩm và quy chế, giải quyết nhanh chóng hơn các thủ tục hải quan và xuất nhập khẩu. Để ṭ do hoá thương mại hàng hoá, cho đến nay ASEAN đã giảm thuế quan cho các mặt hàng trong danh sách giảm thuế về mức từ 0 đến 5%, hình thành nên một thị 15 Thị trường bán lẻ cộng đồng ... trường mở không còn các rào cản thuế quan đối với hàng hóa. ASEAN đưa vào hoạt động Cơ chế hải quan một cửa ASEAN (ASEAN Single Window-ASW) và các quy định về áp dụng chứng nhận xuất xứ cho hàng hoá có nguồn gốc từ ASEAN để đủ điều kiện hưởng các ưu đãi về thuế quan, trong đó ASEAN đang nghiên cứu tiến tới việc cho phép các doanh nghiệp ṭ chứng nhận xuất xứ. Triển vọng mở rộng của thị trường AEC được ḍ báo là rất khả quan do các yếu tố sau: - Về dân số, với trên 630 triệu dân (nĕm 2015), 10 nước ASEAN là một thị trường hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng lớn thứ ba ở Châu Á (sau Trung Quốc với 1,37 tỷ dân và Ấn Độ với 1,31 tỷ dân). 60% dân số của AEC trẻ, dưới 35 tuổi, là nguồn nhân ḷc một mặt có khả nĕng tạo nên tĕng trưởng kinh tế nhanh, tĕng nĕng suất lao động và mặt khác cũng có sức mua tĕng nhanh. Theo một ḍ báo từ nay đến 2030, khoảng 1/3 lượng tĕng tiêu dùng sẽ do mức tĕng dân số, 2/3 còn lại do ṣ tĕng mức chi tiêu của dân cư1. - Về kinh tế, các nước AEC có tốc độ tĕng trưởng GDP cao hơn mức bình quân thế giới. Đến 2020, GDP của AEC ḍ kiến sẽ đạt 4.700 tỷ USD. Nhờ tĕng trưởng kinh tế nhanh, nhóm trung lưu trong dân số của AEC (quy ước là có mức chi tiêu mỗi ngày từ 16 tới 100 USD) sẽ tĕng từ 120 triệu người (28% dân số) nĕm 2012 lên tới 400 triệu người (55% dân số) nĕm 2020. Trong cùng thời gian đó, nhóm này ở Trung Quốc tĕng từ 800 triệu người (61%) lên 1 tỷ (71%), và ở Ấn Độ tĕng từ 210 triệu (17%) lên 540 triệu (39%). Theo nghiên cứu của Công ty Nielson chuyên nghiên cứu thị trường toàn cầu, người tiêu dùng ASEAN là một trong số những khách tiêu dùng có Ch̉ số niềm tin người tiêu dùng toàn cầu (the Global Consumer Conidence Index) cao nhất trên thế giới, phản ánh ṣ lạc quan tiêu dùng ASEAN 2. - Bên trong AEC, giữa các nước có ṣ đa dạng và khác biệt lớn về điều kiện sống, vĕn hóa tiêu dùng nên sức mua, loại nhu cầu về hàng tiêu dùng cũng rất phong phú và đa dạng. Bản thân ṣ đa dạng về tôn giáo, vĕn hóa, phong tục tập quán, nhiều nhóm sắc tộc trong dân cư của các nước trong AEC cũng đã tạo nên thói quen và hành vi tiêu dùng rất khác nhau. Với mức thu nhập của người dân liên tục tĕng, nhu cầu về các sản phẩm chất lượng tốt hơn cũng đang tĕng lên. Đối với tầng lớp trung lưu yếu tố chất lượng và mẫu mã hàng hóa ngày càng chiếm ưu thế hơn giá cả, trong khi phần đông người tiêu dùng bình dân vẫn có xu hướng ḷa chọn hàng hóa có giá thấp hơn và chấp nhận chất lượng ở mức nhất định. Bản thân nhu cầu tiêu dùng của tầng lớp trung lưu các nước có trình độ phát triển kinh tế chênh lệch nhau cũng có ṣ khác biệt lớn. Cơ cấu tiêu dùng ở các nước có mức sống cao như Brunei, Singapore khác so với các nước có mức sống trung bình loại cao như Malaixia, Thái Lan, và càng khác so với các nước có mức sống trung bình thấp như Inđônêxia, Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanma3. (Bảng 1) 1 McKinsey & Company (2016). Urban World: The Global Consumers to Watch. McKinsey Global Institute. 2 Nielson (2014). ASEAN 2015: Seeing around the corner in a new Asian landscape. The Nielson Company. 3 Theo phân loại của Ngân hàng thế giới, nước có mức sống cao là khi có GNI trên đầu người trên 12.476USD, mức thu nhập trung bình cao là từ 4036 USD đến 12.475 USD, mức thu nhập trung bình thấp là từ 1026 USD đến 4035 USD, mức thu nhập thấp là từ 1025 USD và thấp hơn. 16 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Bảng 1: Tổng thu nḥp qúc dân trên đ̀u người (GNI) c̉a ćc nước ASEAN nĕm 2015 (USD) Nước Tính theo phương pháp Atlas Tính theo phương pháp sức mua tương đương (PPP) Singapore 52,090 81,190 Malaixia 10,570 26,140 Thái Lan 5,620 15,210 Inđônêxia 3,440 10,680 Philipin 3,540 8,900 Việt Nam 1,980 5,690 Lào 1,730 5,380 Campuchia 1,070 3,290 Myanma 1,280 - Nguồn: Ngân h̀ng Th́ giới. World Development Indicators database 2015. (1) 2. SỰ PHÁT TRIỂN NHANH CHÓNG CỦA THƯƠNG MẠI BÁN LẺ Ở AEC Đối lập với ṣ trì trệ của ngành bán lẻ ở các nước phát triển trong bối cảnh khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu mấy nĕm gần đây, hoạt động của ngành bán lẻ ở các nước ASEAN không ngừng mở rộng về quy mô và nâng cấp cơ cấu chất lượng theo hướng tĕng các loại hình bán hàng hiện đại. Số liệu của Công ty Euromonitor International ước tính giá trị hàng hóa tiêu dùng lưu thông trên các thị trường bán lẻ 5 nước chiếm phần lớn dân ASEAN nĕm 2016 vào khoảng 800 tỷ USD, bằng khoảng ¼ thị trường Trung Quốc; trong đó: Inđônêxia 353,8 tỷ USD, Malaixia 95,5 tỷ USD, Thái Lan 117,3 tỷ USD, Philipin 142,1 tỷ USD và Việt Nam 88,4 tỷ USD(1). Những nước có trình đ̣ ph́t trỉn cao hơn thì ḿc đ̣ mở ṛng doanh ś b́n lẻ đ̣t đ̣ bão hòa cao hơn v̀ vì ṿy t́c đ̣ tĕng doanh ś cḥm hơn. B̉ng 2 cho thấy sắp x́p t́c đ̣ tĕng doanh ś b́n lẻ theo hình thức cửa hàng (tức là chưa tính bán lẻ qua mạng Internet) theo thứ ṭ từ đến thấp đến cao là: Malaixia, Inđônêxia, Thái Lan, Philipin và Việt Nam. Bảng 2: Ḍ t́nh t́c đ̣ tĕng doanh ś b́n lẻ qua hình th́c cửa h̀ng ở ṃt ś nước ASEAN trong thời gian 2016-2020 (%) Nước Bình quân 1 nĕm Tổng 5 nĕm Inđônêxia 2,5 13,3 Malaixia 1,0 5,0 Philipin 4,2 22,8 Thái Lan 3,2 16,8 Việt Nam 4,5 24,7 Nguồn: Euromonitor International. 17 Thị trường bán lẻ cộng đồng ... Trong khi ở Philipin, Inđônêxia và Việt Nam hoạt động bán lẻ diễn ra chủ yếu ở khu ṿc phi chính thức, với các chợ và cửa hàng nhỏ, thì ở những nước có tỷ lệ đô thị hóa cao, các hình thức bán lẻ hiện đại hơn như siêu thị, các nhà hàng lớn, đại siêu thị ngày càng mở rộng và chiếm tỷ lệ cao hơn. Các công ty thương mại nước ngoài lớn như AEON (Nhật Bản), Tesco (Anh), Dairy Farm (Hồng Công), Lotte, E-Mart (Hàn Quốc), Auchan (Pháp) ồ ạt đầu tư các siêu thị và cửa hàng lớn. Trong khi đó cũng đồng thời diễn ra các thương vụ mua bán, đầu tư của các nhà kinh doanh thương mại lớn của Singapore, Thái Lan, Philipin nhằm chiếm lĩnh thị phần bán lẻ ở các nước láng giềng ASEAN như Việt Nam, Campuchia, Lào, Myanma. Ở Thái Lan, mặc dù có các công ty thương mại lớn trong nước phát triển, song các công ty nước ngoài lớn, đặc biệt là Big C (Pháp), Tesco Lotus (Anh) và Takashimaya (Nhật Bản) có mặt ở tất cả các đô thị lớn. Ở Malaixia, chính phủ có chủ trương giới hạn thành phần nước ngoài trong hệ thống bán lẻ, bằng cách yêu cầu các công ty nước ngoài phải giành 30% cổ phần của đại siêu thị (hypermarket có diện tích mặt bằng trên 5000m2) cho các nhà đầu tư người Mã Lai (Bumiputera). Người nước ngoài không được phép kinh doanh siêu thị tḥc phẩm (super- market); trong khi các hình thức khác như cửa hàng lớn (super-store từ 3000 đến 4999 m2, department store, cửa hàng chuyên doanh một loại nhóm mặt hàng – specialty store) thì cho phép đầu tư kinh doanh 100% vốn nước ngoài. AEON và Tesco chiếm thị phần áp đảo trong hình thức hypermarket và superstore ở Malaixia. Philipin cũng có chính sách hạn chế các công ty bán lẻ lớn nước ngoài hoạt động bằng cách không cho phép chúng sở hữu đất đai. Công ty bán lẻ nước ngoài cũng phải có quy mô đầu tư ít nhất 2,5 triệu USD và trong vòng 8 nĕm hoạt động phải bán ít nhất 1/3 tổng số cổ phần cho nhà đầu tư trong nước. Mặc dù hiện nay thương mại điện tử (qua mạng Internet) mới ch̉ chiếm khoảng 2% tổng doanh số bán lẻ của 5 nước, song hình thức thương mại này cũng đang và sẽ tĕng trưởng với tốc độ cao (Bảng 3). Bảng 3: Ḍ t́nh t́c đ̣ tĕng doanh ś b́n lẻ qua hình th́c ṃng địn tử ở ṃt ś nước ASEAN trong thời gian 2016-2020 (%) Nước Bình quân 1 nĕm Tổng 5 nĕm Inđônêxia 38,0 400,0 Malaixia 11,0 68,5 Philipin 7,5 43,4 Thái Lan 14,1 93,4 Việt Nam 25,4 210,2 Nguồn: Euromonitor International. Tuy nhiên, nếu so với các nước có nền kinh tế phát triển như Mỹ và Trung Quốc thì các ch̉ số về thương mại điện tử của các nước ASEAN còn rất thấp (Bảng 4). 18 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật Bảng 4: So śnh thương ṃi địn tử nĕm 2015 ở 5 nước ASEAN với Mỹ v̀ Trung Qúc Nước Doanh số bán lẻ qua mạng tính trên đầu người (USD) Tỷ lệ bán qua mạng trong tổng doanh số bán lẻ (%) Inđônêxia 6,7 0,5 Malaixia 17,0 0,6 Philipin 3,5 0,3 Thái Lan 20,9 1,2 Việt Nam 7,6 0,8 Trung Quốc 214,4 9,6 Mỹ 842,5 7,2 Nguồn: Euromonitor International. Mặc dù ở các nước ASEAN cũng đã có những thương hiệu thương mại điện tử khá phổ biến, như Lelong.my ở Malaixia, Matahari Mall ở Inđônêxia, Vật giá.com ở Việt Nam, v.v. song các “đại gia” thương mại điện tử như Amazon, Lazada, Alibaba vẫn chiếm một thị phần không nhỏ và ngày càng bành trướng. Tương ṭ như ở hình thức bán lẻ qua cửa hàng, trong thương mại điện tử cũng đang diễn ra quyết liệt ṣ xâm chiếm thị phần của các thương nhân nước ngoài. Lazada là trường hợp điển hình về việc một công ty bên ngoài AEC xâm nhập thị trường này bằng cách mua lại cổ phần kiểm soát (Hộp 1). Hộp 1: Trường hợp Lazada Trang web Lazada được “đại gia” thương mại điện tử Rocket Internet thành lập vào tháng 3/2012 và hoạt động tại Thái Lan, Việt Nam, Malaysia, Philippines và Indonesia. Khi mới thành lập, Lazada bày bán các sản phẩm điện tử tiêu dùng, song trang web này đã nhanh chóng mở rộng phạm vi sang đồ gia dụng, quần áo, vật dụng cho trẻ em, sách, voucher dịch vụ, v.v. Lazada chấp nhận phương thức trả tiền bằng thẻ tín dụng và cả phương thức trả tiền khi giao hàng – một điểm mạnh đáng chú ý tại các quốc gia có t̉ lệ sử dụng thẻ tín dụng và tài khoản ngân hàng thấp. Ch̉ sau 4 nĕm, Lazada đã được ví như “trang Amazon của Đông Nam Á” với mức định giá khoảng 1,55 tỷ USD. Nĕm 2016, “ông trùm” Alibaba của Trung Quốc cho biết đã đầu tư 1 tỷ USD vào công ty Lazada, theo đó, Alibaba sẽ chi 500 triệu cho các cổ phiếu mới phát hành của Lazada, đồng thời mua cổ phần từ các cổ đông hiện nay để chiếm lĩnh thị phần bán lẻ qua mạng của Lazada vốn đang có ưu thế ở tất cả các nước ASEAN. 3. CƠ HỘI VÀ THÁCH THỨC ĐỐI VỚI NGÀNH BÁN LẺ VIỆT NAM Ṣ hình thành thị trường chung AEC và việc ký kết hàng loạt hiệp định khu ṿc mậu dịch ṭ do với các nước và khu ṿc tạo ra cơ hội và cũng đặt ra nhiều thách thức đối với ngành bán lẻ Việt Nam. Cơ hội là ở chỗ các nhà sản xuất và thương mại Việt Nam có thể tiếp cận với điều kiện ưu đãi đối với thị trường rộng lớn không ch̉ của các nước ASEAN mà còn cả rất nhiều quốc gia trên thế giới. Việc cắt giảm thuế, dỡ bỏ bớt các hàng rào thủ tục vận tải, giao nhận và buôn bán làm cho sức cạnh tranh của hàng hóa có khả nĕng tĕng lên. Tuy nhiên, cho đến nay Việt Nam hầu như chưa tận dụng được cơ hội 19 Thị trường bán lẻ cộng đồng ... này vì chưa tham gia được vào các chuỗi sản xuất – kinh doanh toàn cầu. Các nhà sản xuất và các công ty thương mại chưa kết hợp chặt chẽ với nhau để đưa hàng hóa Việt Nam ra thị trường thế giới. Các công ty thương mại Việt Nam hầu như chưa có các cửa hàng bán lẻ ở nước ngoài. Ngoài Trung tâm thương mại Hà Nội – Mátxcơva khai trương tháng 12/2015 ở Nga với tổng diện tích gần 40.000 m2 là quần thể thương mại và dịch vụ đạt chuẩn quốc tế, có xúc tiến bán hàng Việt, thì một số trung tâm thương mại do người Việt sở hữu hoặc điều hành ở nước ngoài vẫn hoạt động dưới hình thức “chợ” cho thuê chỗ bán, ít có quan hệ kết nối với sản xuất trong nước thành chuỗi. Nhìn từ góc độ chiếm giữ thị phần bán lẻ trong nước và kích thích sản xuất, tiêu dùng hàng Việt, thì thách thức đối với Việt Nam hiện rất lớn. Việt Nam có thị trường bán lẻ đầy hấp dẫn đối với các nhà kinh doanh nước ngoài. Với nền kinh tế có triển vọng tĕng trưởng khá, dân số đông thứ hai trong ASEAN, nhu cầu tiêu dùng trong những nĕm sắp tới sẽ mở rộng và ngày càng đa dạng. Các hình thức bán lẻ hiện đại ở Việt Nam đang ở giai đoạn phát triển ban đầu, cộng với mức độ đô thị hóa cũng tĕng nhanh, tạo ra nhiều cơ hội để phát triển bùng nổ bán lẻ hiện đại tại các thành phố. Về mặt thể chế, Việt Nam đã mở cửa hoàn toàn thị trường bán lẻ kể từ 11/1/2015. Việt Nam cho phép nước ngoài đầu tư 100% vốn trong lĩnh ṿc bán lẻ (ngoại trừ một số rất ít mặt hàng không cho phép nước ngoài kinh doanh). Hơn thế nữa, chính quyền nhiều địa phương có chủ trương ưu đãi các nhà đầu tư nước ngoài xây ḍng và vận hành các cơ sở bán lẻ hiện đại lớn (như dễ dàng cấp đất ở những địa điểm thuận lợi, miễn giảm thuế, v.v). Công cụ ENT - Kiểm tra nhu cầu kinh tế (Economic Need Test), tức là việc cơ quan có thẩm quyền cĕn cứ vào tình hình tḥc tế để xem xét có cấp phép mở từng cơ sở bán lẻ cho doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hay không trừ cơ sở bán lẻ thứ nhất – đã hầu như chưa được sử dụng. Đây chính là quy định dùng để kiểm soát và hạn chế ṣ xâm nhập của các nhà đầu tư nước ngoài vào lĩnh ṿc bán lẻ, mà Việt Nam xem như một điều kiện mở cửa thị trường bán lẻ của mình khi gia nhập WTO nĕm 2007. Những điều kiện thuận lợi đó đã thúc đẩy ṣ bùng nổ đầu tư của các thương gia nước ngoài trong lĩnh ṿc bán lẻ ở Việt Nam. Nhiều tập đoàn bán lẻ quốc tế đã ồ ạt tham gia thị trường, đặc biệt là họ dùng phương thức xâm nhập một cách nhanh chóng bằng việc mua bán, sáp nhập của doanh nghiệp ngoại với các hệ thống bán lẻ trong nước. Họ cũng đẩy mạnh phát triển mạng lưới riêng của mình trên cả nước bằng cách mở mới hàng trĕm điểm bán mới. Các nhà bán lẻ ngoại xâm nhập thị trường Việt Nam đều là những doanh nghiệp mạnh về vốn và có kinh nghiệm quản trị dày dạn. Họ cung cấp thêm nhiều ḷa chọn cho người tiêu dùng, nhưng đồng thời cũng khiến thị trường bán lẻ tĕng thêm mức độ cạnh tranh, tạo áp ḷc lớn lên các nhà sản xuất và bán lẻ nội địa. Tháng 3 - 4/2016, ngay sau khi chuỗi 19 siêu thị Metro và 32 siêu thị Big C ở Việt Nam được chuyển quyền sở hữu sang tay người Thái Lan, họ đòi tĕng chiết khấu thêm 4,25% - 5,5%, lên mức 17% - 25%, gây khó khĕn cho doanh nghiệp cung cấp hàng nội địa, khiến nhiều doanh nghiệp thủy sản buộc rút hàng ra khỏi hệ thống này. Các cơ sở bán lẻ ngoại cũng đóng vai trò là nơi tṛc tiếp đưa hàng ngoại vào thị trường nội địa. Hệ thống AEON của Nhật chủ trương áp dụng tỷ lệ 1/3 – 1/3 hàng hóa từ Nhật, 1/3 của Việt Nam và còn lại 1/3 là nhập của các quốc gia khác. Các nhà bán lẻ hàng đầu Hàn Quốc không hề giấu ý định xuất khẩu hàng hóa từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ Hàn Quốc vào Việt Nam thông qua hệ thống bán lẻ của 20 Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật họ tại Việt Nam. Trong chuỗi Big C và Metro, hàng Thái Lan đa dạng về chủng loại và có giá cả cạnh tranh được ưu tiên bày bán trên những kệ hàng có vị trí đắc địa nhất. Trong khi doanh nghiệp ngoại tích c̣c xâm nhập chiếm lĩnh thị phần, khối doanh nghiệp bán lẻ nội dường như đang lúng túng và ở vào thế yếu trong cuộc đua tranh chiếm giữ thị phần ngày càng khốc liệt. Điểm yếu lớn nhất là khả nĕng liên kết thành chuỗi và mạng còn kém và chưa có nhiều kinh nghiệm quản trị theo kiểu hiện đại. Hiện tại, đứng trên ngưỡng cửa của AEC, thị trường bán lẻ của Việt Nam còn ở giai đoạn phát triển ban đầu, với kênh bán lẻ hiện đại (các siêu thị, trung tâm thương mại) mới chiếm 20%, còn bán lẻ truyền thống (chợ, cửa hàng tạp hóa, cửa hàng tiện ích) chiếm 80% còn lại. Quá trình hiện đại hóa và cơ cấu lại ngành bán lẻ đòi hỏi phải có tầm nhìn chiến lược dài hạn, ṣ can thiệp hữu hiệu của Chính phủ bằng các công cụ hành chính và kinh tế hợp pháp và hợp lý, ṣ cố gắng “vượt lên chính mình” của các doanh nghiệp nội để cạnh tranh giành thị phần lớn hơn./. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Euromonitor International. Market Research Reports. [2]. McKinsey & Company (2016). Urban World: The Global Consumers to Watch. McKinsey Global Institute. [3]. Nielson (2014). ASEAN 2015: Seeing around the corner in a new Asian landscape. The Nielson Company. [4]. Các bài báo liên quan tới Thị trường bán lẻ trên mạng Internet.
File đính kèm:
- thi_truong_ban_le_cong_dong_kinh_te_asean_thoi_co_va_thach_t.pdf