Thêm một số nhận thức về Hồ Chí Minh

Đảng ta cho rằng, Hồ Chí Minh là “Người anh hùng dân tộc vĩ đại”. Tổ chức Giáo

dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhân

vật kiệt xuất đã để lại dấu ấn trong sự phát triển của nhân loại”, “anh hùng giải phóng

dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam

nhiều thế hệ gọi là “Bác Hồ”. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của dân tộc và của Đảng, đồng thời

là nhà tư tưởng. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh.

Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ khăng khít, một chỉnh thể

làm thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam.

pdf 7 trang kimcuc 9440
Bạn đang xem tài liệu "Thêm một số nhận thức về Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thêm một số nhận thức về Hồ Chí Minh

Thêm một số nhận thức về Hồ Chí Minh
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 33 
THEÂM MOÄT SOÁ NHAÄN THÖÙC VEÀ HOÀ CHÍ MINH 
Maïch Quang Thaéng 
Hoïc vieän Chính trò Quoác gia Hoà Chí Minh 
TÓM TẮT 
Đảng ta cho rằng, Hồ Chí Minh là “Người anh hùng dân tộc vĩ đại”. Tổ chức Giáo 
dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hiệp Quốc (UNESCO) cho rằng, Hồ Chí Minh là “nhân 
vật kiệt xuất đã để lại dấu ấn trong sự phát triển của nhân loại”, “anh hùng giải phóng 
dân tộc và là nhà văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. Hồ Chí Minh được nhân dân Việt Nam 
nhiều thế hệ gọi là “Bác Hồ”. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của dân tộc và của Đảng, đồng thời 
là nhà tư tưởng. Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở, là nguồn gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh có mối quan hệ khăng khít, một chỉnh thể 
làm thành nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam. 
Từ khóa: Hồ Chí Minh, lãnh tụ, dân tộc, Đảng Cộng sản 
* 
Cho đến nay, ở Việt Nam đã có rất nhiều 
sách, bài tạp chí viết về tư tưởng Hồ Chí 
Minh, trong đó có một số viết chưa chính 
xác. Bài viết này chỉ đề cập một số vấn đề để 
làm rõ thêm một số điểm về Hồ Chí Minh. 
 1. Đảng ta cho rằng, Hồ Chí 
Minh là “Người anh hùng dân tộc 
vĩ đại” 
Hồ Chí Minh qua đời lúc 9 giờ 47 phút 
ngày 2–9–1969 tại nhà số 67 trong Phủ 
Chủ tịch (Hà Nội), không xa nhà sàn là 
mấy của những ngày mưa dầm dề của 
tháng Ngâu
(1)
. Đó cũng là ngày kỷ niệm lần 
thứ 24 Quốc khánh nước Việt Nam Dân 
chủ Cộng hoà, Nhà nước mới của Việt 
Nam do chính Hồ Chí Minh thay mặt 
Chính phủ lâm thời đọc bản Tuyên ngôn 
độc lập bất hủ như là lời khai sinh. 
Sau những ngày mưa âm u, trời hửng 
nắng, ngày 9–9–1969, diễn ra Lễ truy điệu 
Hồ Chí Minh tại Quảng trường Ba Đình 
(Hà Nội). Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng Lao động Việt Nam có một Điếu văn 
do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc. Điếu văn 
khoảng 3.500 chữ, có nhiều đoạn đánh giá về 
Hồ Chí Minh rất cảm động và đã dùng cả 
những cụm từ cao quý nhất để đánh giá về 
Hồ Chí Minh. Đó là những từ "lãnh tụ thiên 
tài", "người thầy vĩ đại", "nhà yêu nước vĩ 
đại", chiến sĩ quốc tế "lỗi lạc", "xuất sắc".... 
Có đoạn tôi cho là đặc sắc hơn cả là: “Dân 
tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã 
sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc 
vĩ đại (tôi nhấn mạnh – MQT) và chính 
Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta 
và non sông đất nước ta”(2). 
Vậy là, lần đầu tiên trong một văn kiện 
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, 
chúng ta thấy Trung ương Đảng đánh giá 
Hồ Chí Minh là “Anh hùng dân tộc vĩ đại”. 
Đây là sự tôn vinh chính thức, rất có ý 
nghĩa của một tổ chức là Ban Chấp hành 
Trung ương Đảng khi đánh giá cuộc đời và 
sự nghiệp của Hồ Chí Minh. 
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV 
của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 34 
năm 1976 diễn ra sau khi cuộc chống Mỹ 
xâm lược kết thúc thắng lợi, đất nước được 
thống nhất. Khi tổng kết lại giai đoạn 
chống Mỹ, cứu nước, trong văn kiện của 
Đại hội có đoạn: “Thắng lợi to lớn của sự 
nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như 
những trang sử chói lọi của cách mạng Việt 
Nam ngót nửa thế kỷ nay mãi mãi gắn liền 
với tên tuổi của Chủ tịch Hồ Chí Minh, ng-
ười sáng lập và rèn luyện Đảng ta, người 
khai sinh nền Cộng hoà Dân chủ Việt Nam, 
người vun trồng khối đại đoàn kết dân tộc 
và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, 
vị lãnh tụ thiên tài của giai cấp công nhân 
và nhân dân ta, người anh hùng dân tộc vĩ 
đại (Tôi nhấn mạnh – MQT), người chiến 
sĩ lỗi lạc của phong trào cộng sản và công 
nhân quốc tế”(3). 
Như vậy, không có gì khác trước trong 
đánh giá về Hồ Chí Minh. Cũng đánh giá 
Hồ Chí Minh là “Người anh hùng dân tộc vĩ 
đại”, nhưng năm 1969 sự đánh giá như vậy 
là ở “tầm” của Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng, còn lần này, cuối năm 1976, sự đánh 
giá về Hồ Chí Minh là ở “tầm” Đại hội đại 
biểu toàn quốc của Đảng – “cơ quan lãnh 
đạo cao nhất của Đảng” như tất cả Điều lệ 
Đảng được các Đại hội đại biểu toàn quốc 
của Đảng nhất quán thông qua, ghi rõ. 
2. Tổ chức Giáo dục, Khoa học 
và Văn hóa Liên Hiệp Quốc cho 
rằng, Hồ Chí Minh là “Nhân vật 
kiệt xuất đã để lại dấu ấn trong 
sự phát triển của nhân loại”, “Anh 
hùng giải phóng dân tộc và là nhà 
văn hóa kiệt xuất của Việt Nam”. 
Khóa họp lần thứ 18 tại Pari (thủ đô 
nước Cộng hòa Pháp) từ ngày 17–10 đến 
ngày 23–11–1974, Đại Hội đồng của Tổ 
chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của 
Liên hợp quốc (viết tắt tiếng Anh: United 
Nations Educational Scientific and Cultural 
Organization – UNESCO) đã ra Nghị quyết 
khung số 18C/4.351 trong đó nêu rõ "mong 
muốn thực hiện tổ chức lễ kỷ niệm các 
nhân vật kiệt xuất và sự kiện lớn tại các 
quốc gia thành viên nhằm góp phần làm 
cho mọi người biết đến tên của các nhân 
vật này và các sự kiện đã để lại dấu ấn 
trong sự phát triển của nhân loại"(4). Do 
vậy, Đại Hội đồng UNESCO cho phép ông 
Tổng Giám đốc yêu cầu các Ủy ban 
UNESCO quốc gia đệ trình danh sách đã 
lựa chọn các ngày lễ kỷ niệm (một trăm 
năm chẵn hoặc nhiều trăm năm) của các 
nhân vật kiệt xuất và các sự kiện lớn trong 
trong lĩnh vực giáo dục, khoa học, văn hóa 
và truyền thông mà các Ủy ban quốc gia sẽ 
tổ chức kỷ niệm. 
Thực hiện Nghị quyết khung số 
18C/4.351 trên đây, gần 13 năm sau, tức là 
ngày 14–4–1987, nước Cộng hòa Xã hội 
chủ nghĩa Việt Nam đã có văn bản đệ trình 
đề nghị Đại Hội đồng UNESCO trong 
Khóa họp lần thứ 24 tại Pari thông qua 
Nghị quyết Kỷ niệm lần thứ 100 ngày sinh 
của Hồ Chí Minh. Trong Khóa họp 24 đó 
từ ngày 20–10 đến ngày 20–11–1987, 
UNESCO đã thông qua Nghị quyết số 18.6 
về các ngày lễ kỷ niệm, có thông qua 6 
"nhân vật kiệt xuất" để các quốc gia thành 
viên tổ chức kỷ niệm theo năm chẵn (chẵn 
trăm năm, hàng trăm năm). Một trong 6 
nhân vật kiệt xuất đó trong Nghị quyết số 
18.6 được đặt ở Mục 18.6.5. là Kỷ niệm 
100 Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh 
đã được thông qua với số phiếu tuyệt đối 
tán thành
(5)
. 
Nghị quyết có đoạn: "Ghi nhận năm 
1990 sẽ đánh dấu 100 năm Kỷ niệm Ngày 
sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng 
giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 35 
xuất của Việt Nam Chủ tịch Hồ Chí 
Minh, một biểu tượng kiệt xuất về sự tự 
khẳng định dân tộc, đã cống hiến trọn đời 
mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của 
nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc 
đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa 
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ 
xã hội Nhận thấy những đóng góp quan 
trọng và nhiều mặt của Chủ tịch Hồ Chí 
Minh trên các lĩnh vực văn hóa, giáo dục 
và nghệ thuật chính là sự kết tinh của 
truyền thống văn hóa hàng ngàn năm của 
dân tộc Việt Nam, và những tư tưởng của 
Người là hiện thân của những khát vọng 
của các dân tộc mong muốn được khẳng 
định bản sắc văn hóa của mình và mong 
muốn tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau 
giữa các dân tộc"(6). 
Ở đây cần nói rõ hơn, đính chính một 
số điều mà nhiều người hay viết về Hồ Chí 
Minh liên quan đến sự kiện này. Một số 
người cho rằng, Hồ Chí Minh được 
UNESCO phong là Anh hùng giải phóng 
dân tộc và là Danh nhân văn hóa thế giới. 
Tôi cho rằng, Hồ Chí Minh không phải 
được “phong” gì cả mà được ghi nhận 
trong một nghị quyết để kỷ niệm lần thứ 
100 ngày sinh của Người với nhiều lời 
đánh giá rất tốt đẹp, trong đó có câu cho 
rằng, Hồ Chí Minh là “Anh hùng giải 
phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất 
của Việt Nam”, chứ không phải là Danh 
nhân văn hóa thế giới. Nghị quyết về kỷ 
niệm 100 năm Ngày sinh của Hồ Chí Minh 
nằm trong Nghị quyết khung kỷ niệm 
những nhân vật kiệt xuất đã để lại dấu 
ấn trong sự phát triển của nhân loại, do 
vậy nếu nói ở tầm thế giới thì Hồ Chí 
Minh chính là nhân vật kiệt xuất đó. Toàn 
bộ chi tiết của vấn đề này đã được phản 
ánh trong cuốn sách UNESCO với sự kiện 
tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng 
giải phóng dân tộc, Nhà văn hóa kiệt xuất 
do GS.TS. Mạch Quang Thắng, PG.TS. 
Bùi Đình Phong, TS. Chu Đức Tính đồng 
chủ biên, NXB Chính trị quốc gia ấn hành 
quý I năm 2014. Một trong những điều 
đáng chú ý nhất trong cuốn sách này là lần 
đầu tiên ở Việt Nam với sự giúp đỡ của 
Bảo tàng Hồ Chí Minh, biên bản gốc bằng 
6 ngôn ngữ chính thức mà UNESCO sử 
dụng cho Tổ chức của mình là Pháp, Anh, 
A Rập, Tây Ban Nha, Trung Quốc, Nga 
của Khóa họp lần thứ 24 Đại Hội đồng 
UNESCO đã được công bố. 
3. Hồ Chí Minh được nhân dân 
Việt Nam nhiều thế hệ gọi là “Bác 
Hồ” 
 Không thể đơn thuần xét về mặt văn 
bản. Có một điều đặc biệt nếu nhìn ra thế 
giới thì có lẽ không một dân tộc – quốc gia 
nào có như ở Việt Nam có hai người được 
nhân dân nhiều thế hệ gọi là "Bác": Đó là 
"Bác Hồ" và "Bác Tôn" (Hồ Chí Minh và 
Tôn Đức Thắng). Lòng người quả là khó 
đo. Nhưng, hai tiếng “Bác Hồ” là sự tôn 
vinh đặc biệt của lòng dân Việt Nam yêu 
nước nhiều thế hệ đối với Hồ Chí Minh. 
Thực ra, người đầu tiên gọi Hồ Chí Minh là 
"Bác" chính là Tổng Bí thư Trường Chinh 
khi Hồ Chí Minh mới về nước. Lâu ngày, 
từ "Bác" trở thành phổ biến. 
Đã từ lâu, và ở nhiều thế hệ kế tiếp 
nhau, những người Việt Nam yêu nước đều 
coi Hồ Chí Minh là bậc danh nhân, là anh 
hùng dân tộc vĩ đại như những vị anh hùng 
dân tộc khác: Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, 
Nguyễn Trãi, Quang Trung, v.v. Và, giá trị 
tư tưởng, đạo đức của Hồ Chí Minh đã trở 
thành giá trị văn hoá dân tộc, như là nguồn 
văn hoá dân gian (folklore) tự nhiên truyền 
từ thế hệ này đến thế hệ khác, như nguồn 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 36 
sữa mẹ nuôi dưỡng cuộc sống, tâm hồn của 
người Việt Nam yêu nước, như lớp lớp phù 
sa bồi đắp cho sự phì nhiêu của đời sống 
văn hoá dân tộc. Đây quyết không phải là 
kết quả từ sự sùng bái cá nhân như không ít 
người nước ngoài viết về Hồ Chí Minh mà 
chính là sự tôn vinh từ tâm khảm một cách 
tự giác của người Việt Nam yêu nước. 
Giá trị nhân văn trong cuộc đời và sự 
nghiệp của Hồ Chí Minh mang tính đặc biệt 
tới mức là đã đi vào đời sống tâm linh của 
người Việt Nam. Trên nhiều ban thờ của 
người Việt Nam thờ tổ tiên và những người 
đã khuất của gia đình mình, còn đặt cả ảnh 
thờ Hồ Chí Minh. Nhiều nơi trên đất nước 
Việt Nam, nhân dân đã tự động lập đền thờ 
Hồ Chí Minh. Có đền thờ Hồ Chí Minh mới 
được xây dựng trong những năm cuối thế kỷ 
XX ở ngoài bắc. Chẳng hạn như đền thờ Hồ 
Chí Minh trên núi cao Tản Viên, còn nhánh 
đường bên cạnh là nhánh đường lên đền thờ 
Sơn Tinh (Thánh Tản Viên). Còn vùng Nam 
Bộ thì đền thờ hoặc phủ thờ Hồ Chí Minh 
khá nhiều. Lạ thay, một địa phương có nhiều 
đền thờ Hồ Chí Minh nhất nước là tỉnh Cà 
Mau, tỉnh chóp mũi của dải đất cong cong 
hình chữ S Việt Nam. Theo một thống kê 
chưa đầy đủ thì số phủ thờ Hồ Chí Minh ở 
đây đã trên tới con số 20. Đó là một hiện 
tượng văn hoá thật đặc biệt ứng với văn hoá 
tâm linh truyền thống của người Việt Nam: 
nhân dân tôn thờ những người có công với 
nước, với làng, những người để lại những 
tấm gương tốt cho hậu thế noi theo. Việc 
nhân dân lập đền thờ Hồ Chí Minh cũng là lẽ 
tự nhiên trong tín ngưỡng đa thần, tựa như 
nhân dân Việt Nam đã lập đền thờ các vị 
thành hoàng và các vị tiền bối có công với 
nước như Hai Bà Trưng, Trần Hưng Đạo, Lê 
Lợi, Quang Trung... Đây là biểu hiện tự 
nhiên của lòng dân chứ nhất quyết không từ 
một chỉ thị, nghị quyết nào cả. 
4. Hồ Chí Minh là lãnh tụ của 
dân tộc và của Đảng, đồng thời là 
Nhà tư tưởng 
Hồ Chí Minh là người khai lập hoặc là 
người tham gia sáng lập nhiều tổ chức chính 
trị – xã hội. Người đã khai sinh nước Việt 
Nam Dân chủ Cộng hòa, Nhà nước do nhân 
dân làm chủ; là người khai sinh mặt trận dân 
tộc thống nhất; là người cha thân yêu của các 
lực lượng vũ trang nhân dân; là nguyên thủ 
quốc gia 24 năm (1945–1969). Hồ Chí Minh 
là đại biểu thuộc địa dự Đại hội XVIII Đảng 
Xã hội Pháp tháng 12–1920 bỏ phiếu tán 
thành gia nhập Quốc tế Cộng sản và hơn 4 
tiếng đồng hồ sau đó cùng những người vừa 
bỏ phiếu tán thành Quốc tế Cộng sản tuyên 
bố thành lập Phân bộ Pháp của Quốc tế Cộng 
sản – tức Đảng Cộng sản Pháp (Section Fran-
caise de L' Internationale Communiste, viết 
tắt là S.F.I.C.); là người thay mặt Quốc tế 
Cộng sản tổ chức thành công Hội nghị thành 
lập Đảng Cộng sản Việt Nam đầu năm 1930; 
là Chủ tịch Đảng từ năm 1951 đến khi qua 
đời năm 1969. Không phải cứ sáng lập tổ 
chức chính trị, giữ nhiều chức vụ cao và quan 
trọng thì cứ thế nghiễm nhiên được gọi là lãnh 
tụ. Nhưng, ở Hồ Chí Minh có cả nhiều cái 
trong một: vừa là người sáng lập các tổ chức 
chính trị – xã hội, vừa là người giữ các chức 
vụ cao nhất của dân tộc – quốc gia và của 
Đảng Cộng sản, lại vừa là người trên thực tế 
chứng tỏ được tư chất lãnh tụ của mình và 
thực sự được toàn dân yêu nước và toàn Đảng 
Cộng sản Việt Nam tôn vinh là lãnh tụ. 
Lãnh tụ là một chuyện, còn người lãnh 
tụ đó có phải là nhà tư tưởng hay không lại 
là một chuyện khác. 
Đã là một con người bình thường thì ai 
cũng có tư tưởng, với nghĩa là ý tưởng, 
thậm chí cao hơn là quan điểm. Nhưng, để 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 37 
được gọi là “Nhà tư tưởng” thì người đó 
phải đạt được một tổ hợp gồm những tiêu 
chí sau đây: (i) Có được một hệ thống quan 
điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề 
chính trị – xã hội đối với một cộng đồng 
quốc gia – dân tộc hoặc đối với cả cộng 
đồng quốc tế; (ii) Hệ thống quan điểm toàn 
diện và sâu sắc về những vấn đề chính trị – 
xã hội đó mang tính khoa học và cách 
mạng, khả thi, có ý nghĩa dẫn đường cho xã 
hội phát triển theo hướng văn minh, tiến 
bộ; (iii) Người đó phải dấn thân vào cuộc 
sống thực tế, trở thành một nhân vật cốt 
yếu nhất thực thi một cách tích cực nhất, có 
hiệu quả nhất những quan điểm của mình 
đã nêu ra; (iv) Hệ thống quan điểm của 
người đó trên thực tế được cộng đồng thừa 
nhận và tổ chức thực hiện với tư cách là cơ 
sở tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động. 
Đối chiếu với những yêu cầu trên đây 
thì Hồ Chí Minh xứng đáng được gọi là 
“Nhà tư tưởng”, và với ý nghĩa như vậy thì 
hoàn toàn đúng khi nhiều người đặt tên và 
Đảng Cộng sản Việt Nam ghi vào văn kiện 
của mình cụm từ “Tư tưởng Hồ Chí Minh” 
và lấy tư tưởng Hồ Chí Minh, cùng với chủ 
nghĩa Mác – Lênin, làm thành nền tảng tư 
tưởng và kim chỉ nam cho hành động. Như 
vậy, trên thực tế, có “Tư tưởng Hồ Chí 
Minh” chứ không phải là không có, thậm 
chí một số người cho rằng, phải gọi là “Học 
thuyết Hồ Chí Minh”, với nghĩa “học 
thuyết” thì lớn hơn “tư tưởng”. 
5. Mối quan hệ khăng khít, một 
chỉnh thể làm thành nền tảng tư 
tưởng và kim chỉ nam cho hành 
động của Đảng Cộng sản Việt Nam 
Chủ nghĩa Mác – Lênin là cơ sở/nguồn 
gốc của tư tưởng Hồ Chí Minh. Và như 
vậy, tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa 
Mác – Lênin có quan hệ cực kỳ khăng khít 
với nhau. Không có yếu tố “Chủ nghĩa Mác 
– Lênin” thì không thể có “Tư tưởng Hồ 
Chí Minh”. Nói một cách khác, nếu Hồ Chí 
Minh không tiếp thu được chủ nghĩa Mác – 
Lênin thì không có tư tưởng Hồ Chí Minh. 
Cần khẳng định một cách chắc chắn điều 
này bởi vì có một số người muốn đem tư 
tưởng Hồ Chí Minh tách rời, thậm chí đối 
lập, với chủ nghĩa Mác – Lênin. Nếu tách 
rời hoặc đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với 
chủ nghĩa Mác – Lênin thì hoàn toàn không 
đúng về mặt lý luận và cả về mặt thực tế. 
Một số ý kiến cho rằng, ở Việt Nam, 
chỉ cần nêu tư tưởng Hồ Chí Minh là đủ. 
Hay có một số người cho rằng, tư tưởng Hồ 
Chí Minh là chủ nghĩa Mác – Lênin ở Việt 
Nam. Đành rằng, Hồ Chí Minh là người 
vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa 
Mác – Lênin vào hoàn cảnh cụ thể của Việt 
Nam trong các thời kỳ cách mạng, nhưng 
như thế không có nghĩa là “Việt Nam hóa 
chủ nghĩa Mác – Lênin”. Chỉnh thể làm nên 
hệ tư tưởng của cách mạng Việt Nam chính 
xác phải là cả hai: Chủ nghĩa Mác – Lênin 
và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác 
– Lênin không thể là tất cả chủ thuyết của 
cách mạng Việt Nam và chỉ riêng tư tưởng 
Hồ Chí Minh thôi cũng thế. Hai yếu 
tố/thành phần này là không thể thiếu và 
quan hệ chặt chẽ với nhau. 
Cũng giống như chủ nghĩa Mác – 
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh không nên 
được vận dụng một cách giáo điều, mà vẫn 
rất cần được vận dụng một cách sáng tạo và 
phát triển. Cái còn lại vĩnh viễn của tư 
tưởng Hồ Chí Minh là ở phương pháp, ở 
bản chất vấn đề chứ không nằm trong hành 
vi, bởi vì hành vi chỉ là cái cụ thể trong một 
hoàn cảnh cụ thể, nó có thể đúng lúc này 
mà không đúng ở lúc khác. Cũng như bản 
thân C.Mác, Ph.Ăngghen nhiều lần tự cho 
Journal of Thu Dau Mot University, No 6 (19) – 2014 
 38 
rằng, những luận điểm của các ông nêu ra 
không phải là học thuyết (với nghĩa là đừng 
giáo điều) mà chính là nằm ở phương pháp 
biện chứng duy vật. Chỉ có trên cơ sở nắm 
vững phép biện chứng duy vật này thì mới 
có những hành động đúng ứng với mọi biến 
đổi nhanh chóng của thời gian. Chính vì 
vậy, chủ nghĩa Mác – Lênin là lý luận mở, 
bởi vì luôn luôn nhận/nạp năng lượng mới 
từ cuộc sống. 
Bản chất của tư tưởng Hồ Chí Minh 
cũng giống như bản thân Hồ Chí Minh 
quan niệm trong hành động là phải phù hợp 
với từng lúc, từng nơi, là Dĩ bất biến ứng 
vạn biến. Đó cũng là biện chứng mácxít mà 
tôi thấy rất rõ trong di sản mà Hồ Chí Minh 
để lại cho các thế hệ cách mạng Việt Nam 
về sau. Con đường hình thành những quan 
điểm của Hồ Chí Minh (mà tập hợp một 
cách có hệ thống những quan điểm đó lại 
với nhau hình thành nên tư tưởng Hồ Chí 
Minh) là từ những hành vi. Thí dụ: Hồ Chí 
Minh đi dép lốp cao su, mặc thì chỉ có hai 
bộ quần áo chính, ăn thì thanh đạm, đi thăm 
địa phương thì có lúc lội ruộng, tát nước, 
cấy lúa, v.v. Những hành vi cụ thể đó hình 
thành nên quan điểm/tư tưởng giản dị, tiết 
kiệm, gần dân (cần kiệm liêm chính). 
Nhưng, bây giờ học tập đạo đức, tác phong 
Hồ Chí Minh thì không thể trở lại con 
đường theo hành vi; không phải trở lại học 
(thậm chí là làm theo một cách máy móc) là 
cán bộ chủ chốt cấp cao nhất cũng đi dép 
lốp, chỉ có hai bộ quần áo chính, đi thăm địa 
phương cũng mang cơm nắm đi, đến với bà 
con cũng đi lội ruộng, tát nước, v.v. Nếu 
như thế thì không đúng tinh thần biện chứng 
của Hồ Chí Minh là phải vận dụng vào cho 
phù hợp với từng lúc, từng nơi. Cái chính là 
thể hiện được đạo đức, tác phong giản dị, 
cần kiệm liêm chính, chí công vô tư ứng với 
mọi lúc mọi nơi, ứng với muôn vàn cái thay 
đổi cho phù hợp với hoàn cảnh. 
* 
MORE THOUGHTS ABOUT HO CHI MINH 
Mach Quang Thang 
Ho Chi Minh National Academy of Politics 
ABSTRACT 
 Our Party said that Ho Chi Minh was "the greatest national hero". The United Nations 
Educational, Scientific and Cultural Organization (UNESCO) said that Ho Chi Minh was an 
"outstanding character who has left his mark in the development of mankind", "Hero of national 
liberation and an outstanding culturist of Vietnam ". Ho Chi Minh has been called "Uncle Ho" by 
many generations of Vietnam. Ho Chi Minh City was the leader of the nation and the Party, and 
a thinker. Marxism – Leninism is the basis/origin of Ho Chi Minh's thoughts. Marxism – 
Leninism and Ho Chi Minh's thoughts have a close relationship, which adjusted the ideological 
foundation and guideline for the action of the Communist Party of Vietnam. 
CHÚ THÍCH 
(1) Lúc đó, Đảng ta công bố Hồ Chí Minh qua đời ngày 3 – 9 – 1969. Lý do tại sao lại như vậy thì trong 
Thông báo của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI, số 151/TB – TW, ngày 19–
8–1989, về một số vấn đề liên quan đến Di chúc và ngày qua đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nêu 
một số điểm. Trong Thông báo này, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VI thông 
báo thời gian mất của Hồ Chí Minh là ngày 2–9–1969 chứ không phải là ngày 3–9–1969. 
Tạp chí Đại học Thủ Dầu Một, số 6 (19) – 2014 
 39 
(2) Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.12, NXB Chính trị quốc gia, 1996, tr. 516. 
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng Toàn tập, T.37, NXB Chính trị Quốc gia, 2004, tr. 
474. 
(4) Xem: GS.TS. Mạch Quang Thắng, PGS.TS. Bùi Đình Phong, TS. Chu Đức Tính (đồng chủ 
biên), UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà 
văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị Quốc gia, 2014, tr.40. 
(5) Sáu nhân vật đó là: (i) Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Nhà văn Phya Anuman Rajadhon (Thái 
Lan); (ii) Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Nhà văn và Nhà sư phạm Anton Semionovitch 
Makarenko (Liên Xô); (iii) Kỷ niệm 500 năm Ngày sinh của Nhà cải cách, Nhà thuyết giáo tiến 
bộ Thomas Munzer (Đức); (iv) Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh 
hùng giải phóng dân tộc và Nhà văn hóa kiệt xuất (Việt Nam); (v) Kỷ niệm 100 năm Ngày sinh 
của Nhà vô địch vĩ đại của các phong trào giải phóng và đoàn kết quốc tế Jawaharlal Nehru (Ấn 
Độ); (vi) Kỷ niệm 400 năm Ngày mất của Kiến trúc sư Sinan (Thổ Nhĩ Kỳ). 
(6) Xem: GS.TS. Mạch Quang Thắng, PGS.TS. Bùi Đình Phong, TS. Chu Đức Tính (đồng chủ 
biên), UNESCO với sự kiện tôn vinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà 
văn hóa kiệt xuất, NXB Chính trị Quốc gia, 2014, tr.73 – 74. 

File đính kèm:

  • pdfthem_mot_so_nhan_thuc_ve_ho_chi_minh.pdf