Thể loại Monogatari trong thế giới văn chương tự sự

Theo nghĩa rộng, tự sự là trình bày một nội dung bằng cách kết nối, xâu chuỗi các sự

kiện để truyền đạt đến độc giả hoặc khán thính giả, nên tự sự có thể được thực hiện bằng

nhiều loại chất liệu như ngôn ngữ, hình ảnh, động tác biểu diễn, âm thanh. Trong đời sống,

hình thức và nội dung tự sự được thể hiện đa dạng, từ ghi chép lịch sử, truyện kể dân gian

đến diễn văn, phim ảnh, nhạc kịch. Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ “tự sự”

trong phạm vi nghệ thuật ngôn từ, tức là văn chương tự sự dưới dạng ngôn ngữ nói hoặc

ngôn ngữ viết.

Kể và biểu đạt cảm xúc là hai con đường cơ bản của nghệ thuật văn chương, xuất

hiện từ điểm khởi đầu và tồn tại, phát triển trong suốt hành trình của nền văn học thế giới.

Văn chương tự sự, do đó, có một bề dày lịch sử gồm nhiều giai đoạn, và sự phong phú với

nhiều thể loại khác nhau. Trong phạm vi tìm hiểu còn nhiều hạn chế về tư liệu cũng như

khả năng nghiên cứu, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược về các thể loại đánh dấu các giai

đoạn chính trong tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự nói chung trên thế giới, qua khảo

sát một số nền văn học được biết đến tương đối rộng rãi ở phương Đông và phương Tây,

dựa vào đó để nhìn nhận, miêu tả quy luật phát triển của hình thức tự sự trong nghệ thuật

ngôn từ.

pdf 15 trang kimcuc 3300
Bạn đang xem tài liệu "Thể loại Monogatari trong thế giới văn chương tự sự", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thể loại Monogatari trong thế giới văn chương tự sự

Thể loại Monogatari trong thế giới văn chương tự sự
 TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH 
TẠP CHÍ KHOA HỌC 
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
ISSN: 
1859-3100 
KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN 
Tập 16, Số 5 (2019): 19-33 
SOCIAL SCIENCES AND HUMANITIES
Vol. 16, No. 5 (2019): 19-33
 Email: tapchikhoahoc@hcmue.edu.vn; Website:  
19 
THỂ LOẠI MONOGATARI TRONG THẾ GIỚI VĂN CHƯƠNG TỰ SỰ 
Nguyễn Thị Lam Anh 
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn – ĐHQG TPHCM 
Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Lam Anh – Email: ronin499@gmail.com 
Ngày nhận bài: 05-3-2019; ngày nhận bài sửa: 27-3-2019; ngày duyệt đăng: 15-4-2019 
TÓM TẮT 
Monogatari là một thể loại xuất hiện từ rất sớm và có tiến trình phát triển lâu dài, liên tục 
trong lịch sử văn học Nhật Bản, bắt đầu từ những truyện kể rất gần với thế giới thần thoại và 
truyền thuyết cổ xưa và kéo dài cho đến lúc hòa mình vào dòng chảy của tiểu thuyết Nhật Bản hiện 
đại. Bài viết này giới thiệu đến độc giả Việt Nam thể loại monogatari như một bộ phận của văn học 
Nhật Bản được nhìn nhận trong tiến trình phát triển chung của văn chương tự sự trên thế giới. 
Từ khóa: monogatari, văn học Nhật Bản, thể loại tự sự. 
1. Văn chương tự sự gắn với lịch sử và thế giới quan con người thời cổ đại 
Theo nghĩa rộng, tự sự là trình bày một nội dung bằng cách kết nối, xâu chuỗi các sự 
kiện để truyền đạt đến độc giả hoặc khán thính giả, nên tự sự có thể được thực hiện bằng 
nhiều loại chất liệu như ngôn ngữ, hình ảnh, động tác biểu diễn, âm thanh. Trong đời sống, 
hình thức và nội dung tự sự được thể hiện đa dạng, từ ghi chép lịch sử, truyện kể dân gian 
đến diễn văn, phim ảnh, nhạc kịch... Nhưng ở đây, chúng tôi chỉ sử dụng thuật ngữ “tự sự” 
trong phạm vi nghệ thuật ngôn từ, tức là văn chương tự sự dưới dạng ngôn ngữ nói hoặc 
ngôn ngữ viết. 
Kể và biểu đạt cảm xúc là hai con đường cơ bản của nghệ thuật văn chương, xuất 
hiện từ điểm khởi đầu và tồn tại, phát triển trong suốt hành trình của nền văn học thế giới. 
Văn chương tự sự, do đó, có một bề dày lịch sử gồm nhiều giai đoạn, và sự phong phú với 
nhiều thể loại khác nhau. Trong phạm vi tìm hiểu còn nhiều hạn chế về tư liệu cũng như 
khả năng nghiên cứu, chúng tôi chỉ trình bày sơ lược về các thể loại đánh dấu các giai 
đoạn chính trong tiến trình phát triển của văn xuôi tự sự nói chung trên thế giới, qua khảo 
sát một số nền văn học được biết đến tương đối rộng rãi ở phương Đông và phương Tây, 
dựa vào đó để nhìn nhận, miêu tả quy luật phát triển của hình thức tự sự trong nghệ thuật 
ngôn từ. 
Như đã được trình bày trong nhiều công trình nghiên cứu về lịch sử văn học, văn 
chương tự sự đã xuất hiện trong thời kì văn học dân gian ở nhiều cộng đồng người khác 
nhau trên thế giới. Trong giai đoạn đầu tiên, khi con người còn cảm nhận thế giới tự nhiên 
như thế lực linh thiêng, huyền bí và đáng sợ nhưng lại là thiết yếu với sự sinh tồn, phát 
triển của cộng đồng, thì con người dùng trí tưởng tượng kết hợp với tư duy còn hạn chế 
của mình để sáng tạo nên những câu chuyện về vũ trụ, thần linh, hay để “kể” về sự hình 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 19-33 
20 
thành của cộng đồng và vùng lãnh thổ mà cộng đồng ấy đang sinh sống. Kết quả của hoạt 
động sáng tạo này là các loại thần thoại, truyền thuyết và các loại truyện cổ tích có yếu tố 
siêu nhiên, hoang đường như các truyện kể về thần tiên, quái vật, người khổng lồ... 
Trong thế giới truyện cổ đa dạng và đầy thú vị này, chúng ta có thể thấy nhiều mảng 
nội dung khác nhau, thể hiện những khía cạnh thu hút sự quan tâm và kích thích óc tưởng 
tượng của con người thời cổ đại, mà nổi bật và phổ biến là các nội dung như: tổ chức và 
hoạt động của thế giới thần linh; các vị thần gắn với nguồn gốc và sự hình thành quốc gia/ 
dân tộc; giải thích về các hiện tượng thiên nhiên phổ quát và có ảnh hưởng lớn đến đời 
sống con người; các vật tổ trong tín ngưỡng vật linh; các bậc siêu phàm có công thành lập 
quốc gia, bảo vệ dân tộc, chỉ dạy sinh kế cho người dân hoặc sáng lập các hình thức tín 
ngưỡng, tôn giáo... Từ các nội dung trên, có thể thấy ba yếu tố trụ cột tạo nên thế giới sơ 
khai, huyền ảo của các truyện cổ này là tự nhiên, thần linh và tôn giáo, trong mối quan hệ 
với con người thời cổ đại. 
Trong khi những nội dung nói trên có một giới hạn tương đối trong một giai đoạn sơ 
khai của nhận thức thì xã hội con người không ngừng phát triển, đời sống của cộng đồng 
cũng như của cá nhân mỗi người ngày càng phong phú. Hình ảnh con người ngày càng 
xuất hiện nhiều hơn và có vị trí quan trọng hơn trong văn chương tự sự, khi con người 
ngày càng say mê khám phá đồng thời nảy sinh nhiều mong ước, ưu tư về môi trường xã 
hội và chính bản thân mình. Do đó, bên cạnh thần thoại nói về ý chí, quyền lực hay hành 
động của thần linh thì truyền thuyết là thể loại truyện kể có trọng tâm là hành động của con 
người. Rộng hơn nữa, cổ tích là hình thức tự sự có chủ đề và nội dung phong phú, bao gồm 
cả những truyện kể gần giống như thần thoại hay truyền thuyết và một bộ phận không nhỏ 
có khuynh hướng gắn với đời sống con người, chẳng hạn nhiều câu chuyện phản ánh quan 
niệm đạo đức hoặc những ước mơ, quan hệ trong gia đình, xã hội. 
Nếu như bầu không khí thần linh, huyễn ảo đậm đặc trong thần thoại và trong những 
truyện kể có tính chất giao thoa giữa các thể loại thần thoại, truyền thuyết và cổ tích thì 
trong thể loại sử thi, không khí này được pha loãng bởi hành động của con người và những 
sự kiện, mối quan hệ của xã hội loài người. Những người anh hùng, nhân vật trung tâm của 
các sử thi, là một kiểu hình tượng dung hợp giữa con người và thần thánh, nhưng tinh thần 
chủ đạo của sử thi là ngợi ca những chiến tích có ý nghĩa trong đời sống văn hóa của con 
người, thay vì thể hiện sự sùng bái thần linh hay thiên nhiên huyền bí. Cũng là một thể loại 
tự sự xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử văn học nhưng sử thi mang dấu ấn của mỗi quốc 
gia, cộng đồng hay mỗi nền văn hóa rõ rệt hơn các thể loại truyền thuyết, cổ tích hay thần 
thoại. 
Các tác phẩm sử thi trong mỗi nền văn học cũng có sự khác biệt tương đối lớn trên 
nhiều phương diện như thời điểm ra đời, quy mô tác phẩm, đề tài câu chuyện, hình thức 
tồn tại và lưu truyền... Vì vậy nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì sử thi là một phạm trù 
phức tạp và tương đối mơ hồ. Theo nghĩa hẹp của từ “epic” trong tiếng Anh (Oxford 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lam Anh 
21 
University Press, 2015, tr.501) thì sử thi là loại thơ tự sự về chiến công, kì tích hoặc những 
sự kiện xoay quanh nhân vật chính là những người anh hùng, có ý nghĩa quan trọng đối với 
một quốc gia hay một nền văn hóa dân tộc. Nếu hiểu theo nghĩa này thì thể loại sử thi chỉ 
bao gồm những trường ca được sáng tác vào thời kì cổ đại của các nền văn học mà tiêu 
biểu là các đại sử thi được biết đến trên toàn thế giới như sử thi Gigamesh của văn học 
Lưỡng Hà, Mahabharata và Ramayana của Ấn Độ, Iliad và Odyssey của văn học Hi Lạp, 
Pharsalia của văn học La Mã, Beowulf của vùng văn hóa Scandinavia, Pentaur của văn 
học Ai Cập... 
Là một thể loại quan trọng trên con đường phát triển của văn chương tự sự, sử thi có 
hai vấn đề cần lưu ý như sau: 
Một là, trong khi thần thoại, cổ tích và truyền thuyết đều là sản phẩm của cộng đồng 
thì một bộ phận trong thể loại sử thi là các công trình có tác giả cụ thể, chẳng hạn 
Mahabharata của Veda Vyasa, Ramayana của Valmiki, Iliad và Odyssey của Homer, 
Công việc và ngày của Hesiod, Pharsalia của Lucan... Tuy có những trường hợp tác giả 
chỉ là “được gán cho” và những thông tin về tác giả ấy cũng chưa được xác định rõ ràng, 
nhưng ý thức về tác giả, dù chỉ được thể hiện qua quan niệm hay sự gán ghép của cộng 
đồng, cũng thể hiện một bước phát triển của văn chương tự sự. 
Hai là, loại sử thi hiểu theo nghĩa hẹp nói trên xuất hiện nhiều và có các tác phẩm 
lớn, điển hình trong văn học phương Tây, Ấn Độ, Ả-rập, Lưỡng Hà, Ai Cập, nhưng lại ít 
được ghi nhận trong các nền văn học Đông Á. Ngoài Jewang ungi của Triều Tiên là tác 
phẩm thơ kể chuyện lịch sử đất nước từ thời vua Dangun huyền thoại đến thời vua 
Chungnyeol ở thế kỉ XIII, truyện Reamker ở Campuchia mô phỏng sử thi Ramayana và 
các sử thi nói về cội nguồn dân tộc của các tộc người thiểu số ở Trung Quốc, Việt Nam và 
các nước khác ở Đông Nam Á, thể loại sử thi ở khu vực này hầu như chỉ gồm những 
truyện kể lịch sử bằng thơ hoặc văn xuôi. 
Nội dung của các truyện này thường kể về các vị vua hiền minh, có công lớn trong 
việc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, về các bậc tiền bối đã dạy người dân trong 
nước làm nông nghiệp hay có công trong việc khai sinh và phát triển các ngành nghề. Loại 
truyện kể này có thể xem là một hình thức pha trộn giữa truyền thuyết và lịch sử, có thời 
điểm xuất hiện và lịch sử phát triển khác nhau trong mỗi nền văn học nhưng thường thuộc 
về giai đoạn từ cổ đại sang trung cổ. Đặc biệt ở một nền văn học lớn và lâu đời như văn 
học Trung Quốc, thì truyện kể huyền sử là cả một thế giới phong phú, từ các truyền thuyết 
về Thần Nông, Bàn Cổ đến Sử kí của Tư Mã Thiên hay Tả truyện. Và ở một số phương 
diện, các truyện kể này còn được tiếp tục phát triển trong hình thức tiểu thuyết chương hồi 
về lịch sử. Ở Nhật Bản thì thể loại này chủ yếu là những truyện kể mang màu sắc huyền 
thoại được tập hợp trong Kojiki (Cổ sự kí), như một phần nối tiếp của những thần thoại về 
sự hình thành quốc gia, dân tộc, với số lượng không nhiều và cũng không có những pho 
truyện trường thiên có quy mô lớn. Ở Triều Tiên cũng có hình thức xen lẫn từ thần thoại, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 19-33 
22 
truyền thuyết đến truyện kể lịch sử trong tập Samguk Yusa (Tam quốc di sự), kể về lịch sử 
Triều Tiên trong thời kì tồn tại ba vương quốc. Nếu quan niệm sử thi chỉ đơn giản là 
“truyện kể lịch sử” thì có thể kể thêm vào thể loại này Heike monogatari (Truyện Heike) 
của Nhật Bản, là truyện kể trường thiên ở dạng văn xuôi về cuộc xung đột của hai dòng họ 
quý tộc lớn, xảy ra vào cuối thế kỉ XII. Truyện thơ không có tầm vóc của lịch sử dân tộc 
mà chỉ nói về một nhân vật nào đó của cộng đồng, hoặc là truyện thơ về tôn giáo và được 
truyền miệng trong dân gian thì xuất hiện khá nhiều ở Việt Nam và cũng có mặt ở một số 
nền văn học Đông Nam Á. 
Từ những nội dung trên, có thể thấy rằng ở dòng văn chương tự sự về lịch sử các dân 
tộc, về những nhân vật có công lao to lớn và được cộng đồng ngưỡng mộ, tôn thờ, dấu ấn 
của các nền văn hóa ở các khu vực khác nhau trên thế giới bắt đầu được thể hiện tương đối 
rõ. Ở những vùng thường xảy ra các cuộc chiến tranh tôn giáo hay chiến tranh giữa các 
cộng đồng người, hoặc đã từng có những cuộc di cư ồ ạt với quy mô lớn thì những điều 
này được phản ánh vào các đại sử thi, với tinh thần ngợi ca chiến tích của các anh hùng, 
vua chúa trong đời sống tôn giáo hay thế tục. Trong khi đó, ở khu vực mà cư dân chủ yếu 
sống bằng kinh tế nông nghiệp và có đời sống ổn định, ít di chuyển thì khó hình thành nên 
các đại sử thi mà chỉ có những truyện kể lịch sử phản ánh niềm tin, sự tôn kính của người 
dân đối với các nhân vật lịch sử hay các vị tổ nghề đã giúp đỡ cộng đồng về sinh kế. 
Sự khác biệt về đời sống, văn hóa các dân tộc dẫn đến phân hóa đa dạng các hình 
thức của văn chương tự sự thể hiện rõ rệt hơn khi sáng tác văn chương ngày càng đi sâu 
hơn vào cuộc sống con người, và tâm thức sùng bái tự nhiên hay niềm tin tôn giáo chỉ còn 
là những đường nét, dấu ấn nhất định trong nội dung tác phẩm. Đó là hiện thực về sự phát 
triển của văn xuôi tự sự mang tính thế tục, chủ yếu thuộc về thời kì trung đại trong các nền 
văn học của các nước trên thế giới, cho đến khi có sự ra đời của tiểu thuyết hiện đại như 
một thể loại tự sự nòng cốt của văn tự sự ngày nay. 
2. Văn chương tự sự phản ánh hiện thực đời sống con người 
Khi văn chương tự sự gần như thoát khỏi bầu không khí huyền thoại và tách biệt với 
những ghi chép lịch sử thuần túy, thì hình thức này phát triển theo nhiều hướng, nhiều kiểu 
và tạo ra nhiều thể loại khác nhau trong các nền văn học. Cụ thể ở châu Âu có thể loại 
romance, chủ yếu gồm tiểu thuyết hiệp sĩ và tiểu thuyết về tình yêu lãng mạn của giới quý 
tộc cung đình, phổ biến trong thời trung cổ và thời Phục hưng. Ở Trung Quốc thì có nhiều 
loại truyện kể, chủ yếu là loại truyện kể dật sự, được gọi chung là “tiểu thuyết” – tức tiểu 
thuyết cổ điển, gồm cả hai nhánh là tiểu thuyết bạch thoại và tiểu thuyết văn ngôn – được 
ghi chép hoặc sáng tác từ thời Đường đến trước Cách mạng Tân Hợi, đặc biệt là tiểu thuyết 
chương hồi thời Minh – Thanh. Ngoài ra còn có một thế giới đa dạng các thể loại tự sự hư 
cấu và phi hư cấu, phản ánh nhiều phương diện của đời sống con người đồng thời bày tỏ 
những quan điểm, cảm nghĩ của người viết trong nhiều chủ đề khác nhau, xuất hiện trong 
các nền văn học ở khắp nơi trên thế giới. Đặc điểm chung của văn chương tự sự kiểu này là 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lam Anh 
23 
sự phản ánh con người và xã hội ở nhiều khía cạnh, nhiều quan điểm. Dù có nhiều tác 
phẩm lấy cảm hứng hay cốt truyện từ thần thoại, truyền thuyết, nhiều tác phẩm kể về 
những biến cố lịch sử hay nhiều câu chuyện miêu tả yêu quái, thần ma thì tinh thần chủ 
đạo, hay mục đích tối thượng của tác phẩm tự sự ở giai đoạn này vẫn là trình bày những 
vấn đề của đời sống con người và cách nhìn, cách đánh giá của người kể về những vấn đề 
được trình bày, cũng như về con người và xã hội nói chung. Trong các tác phẩm thuộc loại 
tiểu thuyết hiệp sĩ của phương Tây và tiểu thuyết giảng sử, tiểu thuyết anh hùng của Trung 
Quốc, nhân vật chính vẫn là những người anh hùng thực hiện được những kì tích đáng 
khâm phục, thậm chí là những chiến công phi thường. Nhưng khác với nhân vật anh hùng 
trong sử thi, nhân vật anh hùng trong tiểu thuyết trung đại được miêu tả như những con 
người cụ thể chứ không phải là cá nhân đại diện mang ý chí và những ước vọng của cả một 
cộng đồng, hay phải thực hiện những sứ mệnh có liên quan mật thiết đến sự tồn vong của 
cộng đồng, dân tộc ấy. Cho nên, nhân vật đó được đánh giá qua tính cách và hành động cá 
nhân, và có thể được miêu tả qua cái nhìn nghiêm túc hay hài hước, chứ không nhất thiết 
phải là hình tượng được tôn kính và ngưỡng vọng. 
Tất nhiên không có thể loại tự sự nào, kể cả tiểu thuyết hiện đại, lại có một khuôn 
mẫu chặt chẽ về hình thức tác phẩm, theo kiểu như thể thức trình bày của một loại văn bản 
hành chính. Và cũng không có thể loại nào là một lát cắt dứt khoát, hoàn chỉnh của một 
giai đoạn phát triển nhất định trong lịch sử văn chương tự sự. Điều đó một mặt gây trở ngại 
cho những ai muốn trình bày lịch sử phát triển của hình thức tự sự một cách khúc chiết, 
rành mạch với những phân đoạn và những dạng thức tự sự rõ ràng, cụ thể. Nhưng mặt 
khác, thực tế này lại giúp chúng ta thấy được, qua một thể loại hoặc một giai đoạn nào đó 
của lịch sử văn học, những biểu hiện của sự phát triển thể loại ấy và sự phát triển của hình 
thức văn tự sự nói chung. Từ đó, nếu quan sát nhiều thể loại qua các giai đoạn khác nhau 
của tiến trình văn chương tự sự, có thể rút ra một số nội dung có giá trị phổ quát trong lịch 
sử phát triển của hình thức tự sự ở các nền văn học trên toàn thế giới như sau: 
Từ thầ ... đồng thời cũng là những tác phẩm có nội dung 
phong phú và giá trị nghệ thuật cao. Đó là những tác phẩm như Genji monogatari, Eiga 
monogatari (Truyện vinh hoa), Hamamatsu Chunagon monogatari (Truyện về quan 
Chunagon ở Hamamatsu). Trong số đó, Genji monogatari là tác phẩm đồ sộ nhất và thể 
hiện trình độ tư duy nghệ thuật cao nhất, có thể xem là thành tựu đỉnh cao của thể loại 
monogatari, và cũng là thành tựu đỉnh cao của văn xuôi Nhật Bản trong suốt nhiều thế kỉ, 
trước khi xuất hiện tiểu thuyết hiện đại. 
Cuối thời Heian, khi quyền lực chính trị chuyển từ giai cấp quý tộc sang tầng lớp võ 
sĩ thì văn hóa cung đình cũng dần dần nhường chỗ cho văn hóa bình dân, vẻ đẹp cao nhã 
trong văn chương nghệ thuật được thay thế bằng phong cách thô mộc và mạnh mẽ. Đặc 
biệt, trong giai đoạn đầu của thời kì trung đại, từ thế kỉ XII cho đến cuối thế kỉ XVI, đã có 
nhiều cuộc nội chiến xảy ra do xung đột quyền lực giữa các dòng họ lớn. Vì vậy, có những 
tác phẩm monogatari phản ánh thực tế lịch sử này, điển hình là Heike monogatari. 
Heike monogatari là một truyện kể xuất hiện vào khoảng thế kỉ XIII, kể lại cuộc 
xung đột giữa hai dòng họ có thế lực là họ Taira và họ Minamoto. Xét về quy mô thì Heike 
monogatari cũng là một tác phẩm lớn (gồm 13 quyển), nhưng về tính nghệ thuật thì không 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lam Anh 
29 
thể sánh bằng Genji monogatari đã được viết trước đó hai thế kỉ. Trong khi Genji 
monogatari là một tác phẩm có trình độ tư duy nghệ thuật cao, thể hiện nhiều dấu ấn cá 
nhân về tri thức, quan niệm nghệ thuật của người sáng tác thì Heike monogatari chỉ là một 
truyện chiến tranh bình thường, kể về cuộc đời những con người có thật trong lịch sử với 
giọng văn kết hợp giữa thể loại nhật kí và truyện răn đời mang màu sắc Phật giáo. 
Có thể nói sau thời Heian, thể loại monogatari vẫn tiếp tục tồn tại như một bộ phận 
của nền văn học Nhật Bản. Đặc biệt, khi có sự xuất hiện của các loại hình nghệ thuật biểu 
diễn như bunraku, nōgaku, kabuki thì cốt truyện, nhân vật và tình tiết trong những tác 
phẩm monogatari thường được những nhà viết kịch bản sử dụng để viết tuồng cho các vở 
diễn, vì thế monogatari càng trở nên phổ biến và gắn bó với hình thức văn nghệ dân gian. 
Tuy nhiên, trong suốt thời trung đại, thể loại này không có sự tiến bộ đáng kể nào được ghi 
nhận về tư duy nghệ thuật. 
Cuối thời Edo, khoảng thế kỉ XVII-XVIII, theo dòng chảy của văn hóa thị dân, văn 
chương tự sự Nhật Bản bước vào một giai đoạn phát triển mới với hình thức tiểu thuyết 
mang tính giải trí, chủ yếu miêu tả đời sống thị dân và thói đam mê hưởng thụ của con 
người. Trong số các thể loại tự sự của thời kì này có thể loại yomihon là loại truyện truyền 
kì lấy cảm hứng từ văn học cổ điển Nhật Bản và chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết bạch thoại 
Trung Quốc. Ueda Akinari được xem là nhà văn tiêu biểu của thể loại này với tập Ugetsu 
monogatari (Truyện vũ nguyệt), gồm 9 truyện ngắn mang tính chất kì ảo. Những câu 
chuyện trong tập Ugetsu monogatari là truyện hư cấu, với những tình tiết xung đột được 
xây dựng để nói lên ý chí mạnh mẽ đến mức cố chấp của con người thông qua các nhân vật 
điển hình trong tác phẩm. Có thể thấy Ugetsu monogatari khác hẳn với những truyện có 
tựa đề monogatari trong văn học cổ điển. Nó không phải là một tác phẩm trường thiên mà 
chỉ là tập hợp một số truyện ngắn được viết theo kiểu truyện truyền kì phổ biến ở các nước 
Đông Á thời hậu kì trung đại. Loại truyện này tương đối gần với tiểu thuyết hiện đại, 
nhưng có đặc thù là sử dụng nhiều chi tiết kì ảo tạo nên không khí ma quái trong câu 
chuyện và làm giảm đi sự cảm nhận về tính hiện thực của tác phẩm. Cũng cần nói thêm 
rằng những tác phẩm văn xuôi trong thời kì này không mang tựa đề “monogatari” đồng 
loạt như những truyện kể thời cổ điển và tiền kì trung đại. Thay vào đó, có sự xuất hiện 
những tên gọi mới như “ukiyozoshi” hay “yomihon” được dùng phổ biến để chỉ các tiểu 
loại của hình thức tiểu thuyết thời Edo. Điều đó phản ánh sự phát triển ý thức về thể loại tự 
sự thời hậu kì trung đại. Tuy nhiên, tựa đề Ugetsu monogatari cho thấy “monogatari” vẫn 
được hiểu là truyện kể nói chung. 
Nói tóm lại, cùng với lịch sử phát triển lâu dài của văn chương tự sự ở Nhật Bản, từ 
thời kì của truyền thuyết, thần thoại đến khi xuất hiện tiểu thuyết hiện đại kiểu phương 
Tây, “monogatari” được sử dụng như một khái niệm chung để chỉ các hình thức tự sự đã 
có mặt trong khoảng thời gian đó. Như vậy, thời gian tồn tại và phát triển của monogatari 
tương ứng với thời gian xuất hiện nhiều thể loại tự sự ở các nền văn học trên thế giới, như 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 19-33 
30 
tiểu thuyết cổ điển ở Trung Quốc, romance ở châu Âu, truyện truyền kì và truyện thơ Nôm 
ở Việt Nam, yadam (truyện dã sử tiếp nhận từ Trung Quốc) và thể loại hát kể p’ansori ở 
Triều Tiên... Vì vậy, trong thế giới monogatari hàm chứa nhiều tiểu loại khác nhau của văn 
chương tự sự, thể hiện những bước phát triển của nghệ thuật tự sự từ giai đoạn này sang 
giai đoạn khác. 
Để xác định vị trí của thể loại monogatari trong thế giới văn chương tự sự nói chung, 
dưới đây chúng tôi lần lượt so sánh, hoặc làm rõ mối quan hệ, giữa monogatari với các thể 
loại gần gũi với nó về nội dung, niên đại hay thi pháp. 
Như đã nói qua ở phần trên, là hình thức tự sự đặc trưng của văn học Nhật Bản, 
monogatari bắt nguồn từ truyện cổ của người Nhật và chịu ảnh hưởng, hay lưu giữ dấu ấn, 
của hình thức tự sự cổ sơ này trong suốt tiến trình phát triển của thể loại. Điều đó đã được 
nhiều học giả Nhật Bản quan tâm và làm rõ trong các công trình nghiên cứu về monogatari 
nói chung, hoặc về một tác phẩm nào đó thuộc thể loại này. Theo đó, không chỉ có những 
tác phẩm monogatari khuyết danh mới có mối liên hệ với thần thoại mà ngay cả trong tác 
phẩm có thể hiện trình độ tư duy nghệ thuật cao như Genji monogatari, cũng không khó 
tìm thấy những dấu vết của truyện cổ. Chẳng hạn, Suzuki Hideo, trong công trình Genji 
monogatari kyokōron (Bàn về nghệ thuật hư cấu trong Genji monogatari) đã chỉ ra sự 
tương đồng giữa nhân vật Hikaru Genji với hình tượng những vị thần trong Kojiki (Suzuki, 
2003, tr.669). Hay trong tập sách Nihon no kokoro to Genji monogatari (Tâm hồn Nhật 
Bản và Genji monogatari), Okano Hirohiko cho rằng cuộc lưu đày của Genji là một tình 
tiết giống như trong thần thoại, còn một số nhân vật nữ được miêu tả trong tác phẩm thì 
mang dáng dấp của các vị nữ thần trong thần thoại tình yêu (Okano, 2010, tr.36,65). Còn 
theo nhận xét của nhà nghiên cứu Richard Bowring thì Genji monogatari hàm chứa kiểu 
chiều sâu tâm linh đã mang lại cảm hứng sáng tác cho Homer, Virgil, Shakespeare, hay sự 
huyền bí trong thần thoại phương Tây và Ấn Độ (Bowring, 2004, tr.17). Theo quan điểm 
này, một số nhà nghiên cứu xác định rằng tác phẩm Taketori monogatari là đánh dấu sự 
mở đầu chính thức cho hình thức tự sự monogatari, vì “trước Taketori monogatari chỉ có 
những thuyết thoại rời rạc, những truyện kể dân gian truyền miệng, về sau được ghi chép 
lại bằng Hán văn” (Okazaki, 1960, tr. 215). Và bởi vì Taketori monogatari vẫn là một kiểu 
truyện kể dân gian mang màu sắc huyền thoại, nên ở tác phẩm này mối quan hệ giữa 
truyện cổ Nhật Bản và thể loại monogatari được thể hiện rõ nét. 
Bên cạnh đó, waka là dòng chảy mạnh mẽ của truyền thống văn học Nhật Bản từ thời 
cổ đại, là nguồn mạch của cảm hứng sáng tác văn chương qua nhiều thời kì nên đã thâm 
nhập vào cả không gian tự sự của monogatari, tạo nên một số truyện kể có nội dung xoay 
quanh sáng tác thơ, gọi là “uta monogatari” (như Ise monogatari, Heichu monogatari) và 
hình thức văn xuôi tự sự có xen lẫn tanka như Genji monogatari. Đặc biệt trong Genji 
monogatari, waka không chỉ đóng góp vào nội dung, hình thức trình bày mà còn thật sự 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lam Anh 
31 
lắng vào chiều sâu văn hóa và thẩm mĩ của tác phẩm, thẩm thấu từ ý thức của tác giả sang 
hình tượng, tính cách và cảm xúc của nhân vật. 
Điều đáng chú ý ở đây là, trong khi hình thức thơ tự sự khá phổ biến ở nhiều nền văn 
học từ phương Đông đến phương Tây, từ thời đại của các sử thi đến thời trung cổ với hình 
thức tiểu thuyết hiệp sĩ, thì hình thức này chỉ xuất hiện thấp thoáng trong văn học Nhật Bản 
ở một vài truyền thuyết. Vì vậy, nhà nghiên cứu Okazaki Yoshie cho rằng monogatari ở 
Nhật Bản là một hình thức quá độ từ thơ tự sự đến tản văn, có sự kết hợp cả tính chất tự sự 
và trữ tình trong cách thức biểu đạt (Okazaki, 1960, tr.213, 227). Như vậy, điểm giống nhau 
giữa monogatari Nhật Bản và thơ tự sự trong nhiều nền văn học là cả hai đều mang tính 
chất của thể loại trung gian trên con đường phát triển từ sử thi đến tiểu thuyết hiện đại, 
nhưng ở monogatari có sự kết hợp thi pháp của nhiều thể loại và phát triển theo hướng văn 
xuôi tự sự là chủ yếu, nên có những tác phẩm gần với tiểu thuyết hiện đại hơn. 
Vào thời Heian, do Nhật Bản tiếp thu văn hóa Trung Hoa thời Đường, trong đó có bộ 
phận quan trọng là thơ Đường và tiểu thuyết truyền kì, nên monogatari trong thời kì này 
cũng chịu ảnh hưởng của các thể loại trên, về cả nội dung và cấu tứ. Nhà nghiên cứu 
Okazaki Yoshie nhận xét rằng Taketori monogatari chịu ảnh hưởng của truyện truyền kì 
Trung Quốc, có yếu tố thần tiên, hoang đường, thể hiện sự phát triển từ truyện thơ đến 
truyện tình ái ở cung đình, và cũng có yếu tố tả thực của tiểu thuyết (Okazaki, 1960, tr.223). 
Trong Genji monogatari, tinh thần tiếp nhận Đường thi cũng thể hiện rõ rệt qua việc trích 
dẫn nhiều câu, nhiều ý trong Trường hận ca, Văn tuyển và Bạch thị văn tập. Bên cạnh đó, 
giữa truyện truyền kì thời Đường và thể loại monogatari của Nhật Bản thời Heian cũng có 
nhiều điểm tương đồng về nội dung và cách kể chuyện. Cả hai thể loại đều là truyện kể về 
thế sự nhưng phảng phất màu sắc tâm linh và được điểm tô bằng những tình tiết huyễn ảo, 
lạ lùng phản ánh tư duy con người ở thời điểm còn chịu ảnh hưởng đậm sâu của những 
huyền thoại cổ. Không khí này đặc biệt đậm nét ở cách miêu tả các nhân vật nam nữ gặp 
nhau trong cảm xúc say mê của tình yêu, nhưng sự tác hợp hay cản trở mối quan hệ của họ 
thường do những nguyên nhân kì lạ, ít nhiều mang sắc màu huyền ảo. Vì vậy, cũng có nhà 
nghiên cứu Nhật Bản, như Okazaki Yoshie, cho rằng monogatari là thể loại tự sự mang 
tính chất truyền kì, đồng thời có nét tương đồng với thể loại romance phổ biến ở châu Âu 
vào thế kỉ XVIII (Okazaki, 1960, tr. 215-216). 
Cũng cần phải nói thêm rằng, tiểu thuyết cổ điển của Trung Quốc, từ các loại truyện 
chí quái, truyền kì đến tiểu thuyết chương hồi có đề tài lịch sử – xã hội thời Minh – Thanh, 
vẫn có những ảnh hưởng khá rõ nét đến dòng tiểu thuyết trung cận đại ở Nhật Bản thời 
Edo, trong khoảng thời gian từ thế kỉ XVII đến đầu thế kỉ XIX. Nói cách khác, ảnh hưởng 
của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc đến văn chương tự sự Nhật Bản không chỉ nằm trong 
phạm vi thể loại monogatari. Tuy nhiên, trong khi tiểu thuyết cổ điển phát triển mạnh với 
hình thức tiểu thuyết chương hồi ở giai đoạn trung kì và hậu kì trung đại, thì monogatari 
của Nhật Bản đạt đỉnh cao về thi pháp thể loại ở tác phẩm Genji monogatari, xuất hiện vào 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Tập 16, Số 5 (2019): 19-33 
32 
thế kỉ XI, rồi đến thế kỉ XVII (thời Edo) mới bắt đầu giai đoạn phát triển nở rộ của tiểu 
thuyết mang tính giải trí trong xã hội thị dân. Điều đó cho thấy monogatari Nhật Bản tuy 
có chịu ảnh hưởng của tiểu thuyết cổ điển Trung Quốc nhưng có tiến trình lịch sử và thành 
tựu riêng biệt. Thực tế này càng được tô đậm bởi sự xuất hiện của tác phẩm Genji 
monogatari – một trường hợp đặc biệt của hình thức monogatari mà chúng tôi sẽ phân tích 
kĩ hơn ở các bài nghiên cứu khác. 
Tuy không có mối quan hệ tiếp nhận và ảnh hưởng trực tiếp nhưng monogatari của 
Nhật Bản và romance của châu Âu vẫn có những nét tương đồng, trên tiến trình hình thành 
nên tiểu thuyết hiện đại. Sự giống nhau giữa monogatari Nhật Bản và romance của văn học 
phương Tây thể hiện chủ yếu ở nội dung miêu tả hoặc kể lại những sự kiện khách quan, 
với sự thay đổi dần dần về cách xây dựng nhân vật, sự mở rộng và biến đổi tự do của cấu 
trúc tác phẩm theo chiều hướng tăng dần những tính chất của tiểu thuyết hiện đại. Mặt 
khác, do sự chi phối của điều kiện xã hội và văn hóa bản địa, monogatari và romance có 
tiến trình biến đổi khác nhau trên con đường bình dân hóa, cá nhân hóa và phát triển về 
chiều sâu để hình thành nên loại tiểu thuyết đại chúng, cũng như có sự khác nhau về sắc độ 
thẩm mĩ của tác phẩm ở từng giai đoạn. 
4. Kết luận 
Trong nghiên cứu này, chúng tôi đã cố gắng tổng hợp tư liệu để hình thành một bức 
tranh tổng thể về tiến trình phát triển của văn chương tự sự trên thế giới, đại diện là một số 
cộng đồng có thành tựu văn chương nổi bật trong thể loại này. Trên cơ sở đó, chúng tôi 
góp phần xác định vị trí của thể loại monogatari Nhật Bản trong thế giới văn chương tự sự 
nói chung, để trước hết thấy được sự tương đồng trong tiến trình phát triển văn chương tự 
sự ở Nhật Bản so với toàn thế giới, đồng thời cũng nhận ra một số đặc trưng của thể loại 
monogatari, gắn với hoàn cảnh riêng ở Nhật Bản, tức là điều kiện cụ thể cho sự ra đời và 
phát triển của thể loại này. Hi vọng bài nghiên cứu sẽ trở thành tư liệu bước đầu để trong 
thời gian tới có thể đi sâu hơn tìm hiểu về đặc trưng của thể loại monogatari gắn với những 
đặc trưng của văn hóa, văn học và mĩ học truyền thống Nhật Bản. 
 Tuyên bố về quyền lợi: Tác giả xác nhận hoàn toàn không có xung đột về quyền lợi. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Bowring Richard. (2004). Murasaki Shikibu – The Tale of Genji. Cambridge: Cambridge 
University Press. 
McKeon Michael. (2000). Theory of the Novel – A Historical Approach. Maryland: Johns Hopkins 
University Press. 
Namba Hiroshi. (1971). Monogatari bungaku. Tokyo: Sanichishobō. 
Okano Hirohiko. (2010). Nihon no kokoro to Genji monogatari. Kyoto: Shibunkaku Shuppan. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC - Trường ĐHSP TPHCM Nguyễn Thị Lam Anh 
33 
Ortega, J. G., Evelyn Rugg, Diego Marín. (1957). The Nature of the Novel. The Hudson Review, 10 
(1), 11-42. 
Oxford University Press. (2015). Oxford Advanced Learner’s Dictionary. Oxford: Oxford 
University Press. 
Stevick Philip. (2011). The Theory of the Novel. New York: The Free Press. 
Suzuki Hideo. (2003). Genji monogatari kyokōron. Tokyo: Tokyo Daigaku Shuppan. 
MONOGATARI AS A GENRE IN THE WORLD OF NARRATIVE 
Nguyen Thi Lam Anh 
University of Social Sciences and Humanities – Vietnam National University Ho Chi Minh City 
* Corresponding author: Nguyen Thi Lam Anh – Email: ronin499@gmail.com 
Received: 05/3/2019; Revised: 27/3/2019; Accepted: 15/4/2019 
ABSTRACT 
Monogatari is a genre of prose that emerged very early and has sustained a long-term 
development in the history of Japanese literature, from stories about myths and legends in the 
ancient and mythical worlds, to novels of modern Japanese literature. This article focuses on 
introducing to Vietnamese readers the monogatari genre as a part of Japanese literature that is 
viewed in the general development of narrative literature in the world. 
Keywords: monogatari, Japanese literature, narrative genre. 

File đính kèm:

  • pdfthe_loai_monogatari_trong_the_gioi_van_chuong_tu_su.pdf