Tham gia FTAs thế hệ mới: Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ logistics Việt Nam

Việt Nam đã và đang tham gia một loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) thế

hệ mới với những cam kết sâu rộng, toàn diện hơn so với các FTA truyền thống, có tác

động đáng kể đến các doanh nghiệp, môi trường kinh doanh và hệ thống chính sách, pháp

luật liên quan của Việt Nam. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành dịch vụ logistics

đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng.

Bài viết này sẽ chỉ rõ những cơ hội và thách thức mới đối với ngành dịch vụ logistics khi

các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia có hiệu lực; đồng thời đề xuất một số giải

pháp đối với Việt Nam nhằm chủ động tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức để tham

gia sân chơi toàn cầu một cách có hiệu quả.

pdf 9 trang kimcuc 19900
Bạn đang xem tài liệu "Tham gia FTAs thế hệ mới: Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ logistics Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tham gia FTAs thế hệ mới: Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ logistics Việt Nam

Tham gia FTAs thế hệ mới: Cơ hội và thách thức đối với ngành dịch vụ logistics Việt Nam
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
14 
Original Article 
Participate in the New Generation of FTAs: Opportunities 
and Challenges for the Vietnam Logistics Industry 
Ha Van Hoi* 
VNU University of Economics and Business, 
144 Xuan Thuy Str., Cau Giay Dist., Hanoi, Vietnam 
Received 18 March 2019 
Revised 28 March 2018; Accepted 28 March 2019 
Abstract: Vietnam has been engaged in a series of new generation Free Trade 
Agreements (FTAs) with more intensive and comprehensive commitments which will 
significantly impact on enterprises, the business environment and related policies and 
laws in Vietnam. Like other business sectors, the logistics industry has opportunities but 
is also facing challenges, which require it to make thorough preparation. This article 
indicates what the opportunities and challenges are for logistics when the new generation 
FTAs are valid. The article also proposes solutions for Vietnam to actively take advantage 
of the opportunities and overcome the challenges in the global playing field. 
Keywords: Opportunities, FTAs, logistics, challenges, new generation. 
*
_______ 
* Corresponding author. 
 E-mail address: hoivh@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4207 
VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
15 
Tham gia FTAs thế hệ mới: Cơ hội và thách thức 
đối với ngành dịch vụ logistics Việt Nam 
Hà Văn Hội* 
Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội, 
144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 18 tháng 3 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 28 tháng 3 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 28 tháng 3 năm 2019 
Tóm tắt: Việt Nam đã và đang tham gia một loạt hiệp định thương mại tự do (FTA) thế 
hệ mới với những cam kết sâu rộng, toàn diện hơn so với các FTA truyền thống, có tác 
động đáng kể đến các doanh nghiệp, môi trường kinh doanh và hệ thống chính sách, pháp 
luật liên quan của Việt Nam. Cùng với các ngành kinh tế khác, ngành dịch vụ logistics 
đang đứng trước nhiều cơ hội và thách thức mới, đòi hỏi phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng. 
Bài viết này sẽ chỉ rõ những cơ hội và thách thức mới đối với ngành dịch vụ logistics khi 
các FTA thế hệ mới mà Việt Nam tham gia có hiệu lực; đồng thời đề xuất một số giải 
pháp đối với Việt Nam nhằm chủ động tận dụng cơ hội và vượt qua thách thức để tham 
gia sân chơi toàn cầu một cách có hiệu quả. 
Từ khóa: Cơ hội, FTA thế hệ mới, logistics, thách thức, Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề * 
Trong những năm gần đây, thương mại toàn 
cầu ngày càng phát triển, hướng đến sự minh 
bạch, toàn diện và phát triển bền vững. Các 
hoạt động trao đổi hàng hóa, dịch vụ, xúc tiến 
đầu tư, hợp tác chuyển giao công nghệ, thuận 
lợi hóa thủ tục hải quan... giữa các quốc gia 
cũng được đẩy mạnh, dẫn đến những thỏa thuận 
hợp tác giữa các quốc gia trong giao thương 
cũng ngày càng mở rộng nội dung và phạm vi. 
_______ 
* Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: hoivh@vnu.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1159/vnueab.4207 
Chính vì vậy, các FTA không còn bó hẹp ở các 
vấn đề truyền thống, mà được mở rộng thêm 
với phạm vi rộng hơn, nội dung vượt ra ngoài 
cam kết về thương mại, dịch vụ và đầu tư, bao 
gồm cả các thể chế, pháp lý trong các lĩnh vực 
môi trường, lao động, doanh nghiệp nhà nước, 
sở hữu trí tuệ, mua sắm chính phủ Đó chính 
là các FTA thế hệ mới. Các FTA thế hệ mới 
này khi có hiệu lực sẽ mang lại những cơ hội và 
thách thức mới đối với các ngành/lĩnh vực của 
các bên liên quan, trong đó có lĩnh vực dịch 
vụ logistics. 
Do vậy, việc nghiên cứu và chỉ ra những cơ 
hội, thách thức đối với lĩnh vực dịch vụ này 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
16 
trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia 
sâu, rộng vào các FTA thế hệ mới là hết sức cần 
thiết, không chỉ đối với các doanh nghiệp hoạt 
động trong lĩnh vực dịch vụ logistics, mà còn 
hữu ích đối với các cơ quan quản lý vĩ mô của 
Việt Nam trong việc hoạch định các chính sách 
hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển 
của lĩnh vực logistics Việt Nam. 
2. Tổng quan về các FTA thế hệ mới mà Việt 
Nam tham gia 
Tính đến nay, Việt Nam đã kết thúc đàm 
phán thành công một số FTA thế hệ mới như: 
Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU 
(EVFTA), Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến 
bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP), các Hiệp 
định trong Cộng đồng Kinh tế ASEAN 
(AEC) Bên cạnh đó, còn có một số FTA của 
ASEAN với các nước như: ASEAN - Trung 
Quốc, ASEAN - Nhật Bản, ASEAN - Hàn 
Quốc Đây là các “FTA thế hệ mới” toàn 
diện, bao gồm: thương mại hàng hóa, dịch vụ, 
điện tử; phòng vệ thương mại; đầu tư; quy tắc 
xuất xứ; các biện pháp vệ sinh an toàn thực 
phẩm và kiểm dịch động thực vật (SPS); thuận 
lợi hóa hải quan; hàng rào kỹ thuật thương mại 
(TBT); sở hữu trí tuệ; cạnh tranh; mua sắm 
công; phát triển bền vững; thể chế và pháp lý 
Các FTA thế hệ mới có những đặc trưng 
sau đây: 
Mức độ tự do hóa (mở cửa) sâu: Với tiêu 
chí “FTA tiêu chuẩn cao”, dù chưa kết thúc 
đàm phán, có thể chắc chắn rằng mức độ mở 
cửa của Việt Nam cũng như các đối tác trong 
các FTA này là rất sâu (xóa bỏ phần lớn các 
dòng thuế, mở cửa mạnh các ngành dịch vụ) 
và tất nhiên là rộng hơn nhiều so với WTO 
cũng như các FTA trước đây của Việt Nam 
(trừ ATIGA). 
Phạm vi cam kết rộng: Trong khi các FTA 
trước đây chủ yếu tập trung vào lĩnh vực 
thương mại hàng hóa, các FTA thế hệ mới sắp 
tới sẽ bao gồm các cam kết về nhiều lĩnh vực 
mới mà Việt Nam chưa từng cam kết/mở cửa 
trước đây, ví dụ: doanh nghiệp nhà nước, mua 
sắm chính phủ, lao động - công đoàn, môi 
trường 
Một số FTA “thế hệ mới” còn bao gồm cả 
các nội dung vốn được coi là “phi thương 
mại”. Đó chính là các vấn đề như lao động, môi 
trường, cam kết phát triển bền vững. Điều này 
đòi hỏi các thành viên phải thực hiện rà soát 
toàn bộ hệ thống chính sách kinh tế - xã hội, 
văn hóa của nước mình để thực hiện minh bạch 
chính sách, cải cách hành chính, cải cách tư 
pháp, xử lý mối quan hệ giữa thương mại quốc 
tế với những vấn đề vốn được coi là “phi 
thương mại” - “các giá trị xã hội”, như thương 
mại và quyền con người, bảo vệ người lao động 
trong thương mại quốc tế, thương mại và môi 
trường, thương mại và văn hóa, thương mại và 
an ninh, bảo đảm an toàn thực phẩm, phát triển 
bền vững và quản trị tốt, quyền của nhà đầu tư 
nước ngoài khởi kiện chính phủ nước tiếp nhận 
đầu tư, minh bạch chính sách, quyền tự do 
Internet 
Đối tác FTA lớn: Trong các FTA thế hệ mới 
mà Việt Nam đang đàm phán có những đối tác 
thương mại hàng đầu của Việt Nam như Hoa 
Kỳ, EU, Nhật Bản Đây sẽ thuận lợi cơ bản để 
phát triển thương mại dịch vụ như logistics. 
Các nội dung đã có trong các FTA trước 
đây và các hiệp định của WTO như: thương mại 
hàng hóa, bảo vệ sức khỏe động vật và thực vật 
trong thương mại quốc tế, thương mại dịch vụ, 
quyền sở hữu trí tuệ (IPR), tự vệ thương mại, 
quy tắc xuất xứ, minh bạch hóa và chống tham 
nhũng, giải quyết tranh chấp giữa chính phủ 
nước tiếp nhận đầu tư và nhà đầu tư nước ngoài 
(ISDS), nay được các FTA “thế hệ mới” xử lý 
sâu sắc hơn. Ví dụ: trong các FTA “thế hệ 
mới”, về thương mại hàng hóa, phần lớn hàng 
nhập khẩu sẽ được loại bỏ thuế quan; về thương 
mại dịch vụ và đầu tư, các cam kết đều cao hơn 
so với cam kết WTO. Do đó, nếu so sánh với 
các hiệp định của WTO, thì các FTA “thế hệ 
mới” chính là các hiệp định “WTO cộng”, với 
những nội dung trước đây từng bị từ chối thì 
nay lại được các nước thành viên chấp nhận, 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 17 
bởi bối cảnh thương mại quốc tế đã thay 
đổi [1]. 
3. Những cơ hội mới đối với ngành dịch vụ 
logistics khi Việt Nam tham gia các FTA thế 
hệ mới 
Xu hướng phát triển của các FTA thế hệ 
mới nhằm tiến tới thiết lập một khu vực tự do 
thương mại toàn diện, loại bỏ tất cả các rào cản, 
tạo điều kiện cho các quốc gia thành viên được 
mở rộng tiếp cận thị trường đối với các lĩnh vực 
mà các quốc gia thành viên đó có lợi thế so 
sánh. Phạm vi tự do hóa thương mại không chỉ 
giới hạn trong lĩnh vực thương mại truyền 
thống về hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao gồm 
các lĩnh vực phi truyền thống như lao động, môi 
trường, mua sắm công... Đó là những cơ hội 
mới nhưng đồng thời cũng là thách thức mới 
đối với các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam, 
trong đó có lĩnh vực dịch vụ logistics. 
Thứ nhất, tự do hóa thương mại sâu rộng 
trong các FTA nói chung và các FTA thế hệ 
mới nói riêng có tác động thúc đẩy hoạt động 
xuất khẩu, tạo cơ hội phát triển cho ngành dịch 
vụ logistics Việt Nam. Những quy định trong 
các FTA thế hệ mới này buộc nền kinh tế của 
các quốc gia thành viên phải tái cấu trúc, mở ra 
thêm những thị trường mới, tạo sức hút về hàng 
hóa cho đất nước. Hơn nữa, môi trường kinh tế 
vĩ mô được cải thiện với sự tăng trưởng tốt của 
hoạt động sản xuất, cơ sở hạ tầng giao thông, 
nhất là các tuyến đường cao tốc, cùng với nỗ 
lực cải cách thủ tục hành chính, thuận lợi hóa 
thương mại đã tạo điều kiện cho lĩnh vực 
logistics của Việt Nam có sự chuyển biến 
tích cực. 
Đối với thương mại hàng hóa, khi rào cản 
thuế quan được cắt giảm về 0% đối với 95% 
đến 100% số dòng thuế ngay lập tức hoặc theo 
lộ trình đối với một số mặt hàng nhạy cảm, thì 
việc tiếp cận thị trường sẽ trở nên dễ dàng hơn, 
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội 
tăng quy mô và kim ngạch xuất khẩu, cải thiện 
cán cân xuất nhập khẩu [2]. Các ngành dự kiến 
sẽ được hưởng lợi nhiều là các ngành hàng xuất 
khẩu chủ lực của Việt Nam mà một số thị 
trường đang duy trì thuế quan cao, như nhóm 
hàng công nghiệp, hàng dệt may, da giày và 
hàng nông sản. Trong đó, nhiều mặt hàng thuộc 
nhóm này sẽ được các nước đưa thuế nhập khẩu 
về 0% ngay sau khi hiệp định có hiệu lực. Như 
vậy, việc gia tăng quy mô và kim ngạch xuất 
khẩu sẽ kéo theo nhu cầu gia tăng dịch 
vụ logistics. 
Đồng thời, lượng hàng hóa sản xuất, lưu 
thông trong nước và xuất nhập khẩu những năm 
qua tăng trưởng mạnh mẽ cũng là tiền đề và là 
động lực thúc đẩy phát triển dịch vụ logistics. 
Logistics đang trở thành ngành dịch vụ quan 
trọng của hoạt động thương mại quốc tế, thu hút 
sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng kinh tế. 
Khối lượng vận chuyển, luân chuyển hàng hóa 
tăng, doanh thu các doanh nghiệp logistics 
Việt Nam đang trở nên hấp dẫn hơn đối với các 
nhà đầu tư nước ngoài. 
Thứ hai, các FTA thế hệ mới đã mở ra một 
thời kỳ mới cho đầu tư nước ngoài vào 
Việt Nam, tạo nhiều cơ hội phát triển cho nền 
kinh tế Việt Nam, trong đó có dịch vụ logistics, 
xét ở cả khía cạnh trực tiếp và gián tiếp. 
Xét ở khía cạnh trực tiếp, FTA thế hệ mới 
đang mở ra một không gian kinh tế mới, hứa 
hẹn sẽ thúc đẩy quá trình dịch chuyển dòng vốn 
đầu tư quốc tế vào khu vực ASEAN, trong đó 
có Việt Nam - một thị trường với dân số hơn 97 
triệu người, nguồn lao động trẻ, mức sống 
người dân ngày càng cao, thông qua hình thức 
mua bán và sáp nhập (M&A). Ngành logistics 
được dự báo sẽ chiếm 8-10% tổng GDP của 
Việt Nam vào năm 2025 chính là một trong 
những điểm hấp dẫn nhà đầu tư nước ngoài vào 
sân chơi toàn cầu theo hình thức M&A [3]. 
Bên cạnh đó, việc thị trường logistics 
Việt Nam được đánh giá là tiềm năng với vị trí 
chiến lược, thị trường rộng và dư địa lớn, các 
doanh nghiệp thuộc các nước đang đầu tư nhiều 
vào Việt Nam như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung 
Quốc, Singapore, Pháp sẽ tiếp tục đầu tư vào 
Việt Nam là những động lực thúc đẩy các 
thương vụ M&A trong lĩnh vực này diễn ra 
mạnh hơn tại Việt Nam. Cụ thể, đối với doanh 
nghiệp Việt Nam, M&A cung cấp nguồn vốn 
lớn, tạo cơ hội chuyển giao công nghệ và kỹ 
năng quản lý. Thông qua việc đầu tư vào doanh 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
18 
nghiệp logistics nội địa đang hoạt động tốt, các 
doanh nghiệp nước ngoài sẽ nhanh chóng tận 
dụng mạng lưới sẵn có cùng nguồn khách hàng 
và kinh nghiệm vận hành nội địa. Điều này giúp 
họ giảm được nhiều chi phí gia nhập thị trường 
so với việc xây dựng từ đầu. 
Mặt khác, sau thời kỳ FDI chảy vào lĩnh 
vực công nghiệp nặng và bất động sản gây 
nhiều thất vọng, một làn sóng FDI từ các FTA 
thế hệ mới đã chảy vào Việt Nam với chất 
lượng cao hơn. Một thị trường thương mại tự 
do rộng lớn hơn nhờ không gian FTA được mở 
rộng sẽ tạo cơ hội cho Việt Nam trở thành tụ 
điểm đầu tư. Theo đó, các nhà đầu tư sẽ vào 
Việt Nam và thiết lập các trung tâm sản xuất 
mang tính toàn cầu như mô hình của Samsung 
hiện nay. Đây là cơ hội mới mở ra cho ngành 
dịch vụ logistics tham gia vào mạng lưới 
logistics toàn cầu. 
Xét ở khía cạnh tác động gián tiếp, các dự 
án FDI thế hệ mới đã đóng góp lớn cho kim 
ngạch xuất khẩu. Xuất khẩu từ khu vực FDI đạt 
175,52 tỷ USD, chiếm 71,7% tổng kim ngạch 
và tăng 13,1% so với cùng kỳ năm 2017. Mặt 
khác, nhập khẩu của khu vực FDI cũng đạt 
khoảng 142,71 tỷ USD và chiếm gần 60% kim 
ngạch nhập khẩu [4]. Sự gia tăng xuất khẩu bởi 
tác động từ FDI cũng sẽ mở ra những cơ hội 
mới cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam trong 
việc cung cấp dịch vụ logistics cho hoạt động 
xuất, nhập khẩu nói trên. 
Thứ ba, việc gia nhập hàng loạt các sân 
chơi, các FTA thế hệ mới là cơ hội để ngành 
dịch vụ logistics vươn lên tầm cao mới. Đồng 
thời, với đà tăng trưởng xuất khẩu cao khi các 
FTA thế hệ mới có hiệu lực sẽ là cơ hội để các 
doanh nghiệp Việt Nam tham gia vào việc cung 
cấp dịch vụ logistics 3PL, 4PL sẽ nhiều hơn, 
tạo động lực để doanh nghiệp nội địa đầu tư 
sâu, rộng hơn vào việc cung cấp các dịch vụ gia 
tăng trong logistics. Trong một số FTA thế hệ 
mới, thương mại điện tử là một nội dung được 
đàm phán để tăng cường các hoạt động trong 
lĩnh vực này. Đây là tiền đề quan trọng để triển 
khai logistics ở cấp độ 5PL với sự vận hành hài 
hòa 3 hệ thống: Hệ thống quản lý đơn hàng 
(OMS), Hệ thống quản lý kho hàng (WMS) và 
Hệ thống quản lý vận tải (TMS). 
Theo xếp hạng của Ngân hàng Thế giới 
(WB), Việt Nam hiện đứng thứ 64/160 nước và 
đứng thứ 4 trong ASEAN (Singapore, 
Malaysia, Thái Lan) về mức độ phát triển 
logistics. Với tốc độ phát triển hàng năm đạt 
16-20%, đây là một trong những ngành dịch vụ 
tăng trưởng đều nhất của Việt Nam thời gian 
qua. Trong thời gian tới, nhu cầu về dịch vụ 
logistics trọn gói, chất lượng cao, phạm vi toàn 
cầu sẽ ngày càng tăng. Các quốc gia trong khu 
vực như Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, 
Indonesia và Thái Lan đã xây dựng kế hoạch 
phát triển logistics và thành lập các cơ quan 
giúp chính phủ phát triển ngành dịch 
vụ logistics. 
Thứ tư, như đã nêu trên, tự do hóa thương 
mại trong các FTA thế hệ mới không chỉ giới 
hạn trong lĩnh vực thương mại truyền thống về 
hàng hóa và dịch vụ, mà còn bao gồm cả các 
lĩnh vực phi truyền thống như lao động, môi 
trường. Điều này buộc ngành dịch vụ logistics 
phải hướng đến cung cấp dịch vụ logistics thân 
thiện với môi trường, tức là hướng đến việc 
“xanh hóa” dịch vụ logistics. Đây chính là cơ 
hội cho ngành dịch vụ logistics Việt Nam tự đổi 
mới cho phù hợp với xu hướng phát triển chung 
của th ... m 2017 đánh dấu một bước tiến mạnh 
mẽ trong việc hoàn thiện khung pháp lý và 
chính sách liên quan đến logistics, từ việc Thủ 
tướng Chính phủ ký ban hành Quyết định số 
200/QĐ-TTg về kế hoạch hành động nâng cao 
năng lực cạnh tranh và phát triển dịch vụ 
logistics Việt Nam đến năm 2025 cho đến việc 
sửa đổi và ban hành mới các văn bản quy phạm 
pháp luật về quản lý ngoại thương, thủ tục hải 
quan và kiểm tra chuyên ngành Điều này 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 19 
giúp cho ngành logistics Việt Nam phát triển 
một cách bền vững, dựa trên nền tảng cơ sở 
pháp lý vững chắc. 
4. Những thách thức đối với ngành dịch vụ 
logistics khi Việt Nam tham gia các FTA thế 
hệ mới 
Thứ nhất, thách thức về tự do cạnh tranh. 
Tự do thương mại trong các FTA thế hệ mới và 
các FTA mang đến cơ hội tiếp cận thị trường 
mới, nhưng đồng thời với đó là mở cửa thị 
trường nội địa. Do vậy, các doanh nghiệp nội 
phải chịu sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp 
nước ngoài, đặc biệt là các tập đoàn logistics 
toàn cầu có năng lực tài chính, công nghệ và 
chất lượng dịch vụ cao hơn hẳn so với Việt 
Nam. Bên cạnh đó, doanh nghiệp logistics Việt 
Nam lại ở thế bất lợi vì giá cung ứng dịch vụ 
logistics cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất, 
nhập khẩu đang ở mức cao. Một khảo sát của 
WB cho thấy chi phí logistics chiếm rất lớn 
trong giá thành của nhiều ngành hàng tại Việt 
Nam. Đơn cử với ngành thủy sản, chi phí này 
chiếm hơn 12%, đồ gỗ chiếm 23%, rau quả 
chiếm 29,5% và ngành gạo chiếm đến gần 30% 
giá thành. So sánh với các nước trong và ngoài 
khu vực cho thấy: Singapore chiếm 9%, 
Malaysia khoảng 10% Mỹ chiếm khoảng 9%, 
châu Âu khoảng 13%, Mexico là 14% và mức 
trung bình của thế giới là 15% [5]. Chi phí 
logistics cao là một trong những nguyên nhân 
làm giảm năng lực cạnh tranh của các doanh 
nghiệp kinh doanh xuất, nhập khẩu. 
Song song với đó là năng lực tài chính yếu 
khiến các doanh nghiệp logistics Việt không thể 
xây dựng hạ tầng logistics tốt, không hình thành 
được mạng lưới hoạt động ở nước ngoài. Các 
doanh nghiệp này chỉ có thể cung cấp các dịch 
vụ cơ bản, ít giá trị gia tăng. Hơn nữa, các 
doanh nghiệp FDI lại có tâm lý tin tưởng các 
doanh nghiệp logistics nước ngoài, thường lựa 
chọn sử dụng dịch vụ vận tải và logistics từ các 
công ty dịch vụ có vốn đầu tư từ chính nước 
của họ. Do vậy, mức độ cạnh tranh để giành 
những hợp đồng lớn càng trở nên gay gắt hơn. 
Thứ hai, thách thức về chất lượng dịch vụ. 
Các doanh nghiệp logistics Việt Nam chưa 
cung cấp được dịch vụ logistics hoàn chỉnh theo 
đúng nghĩa của nó. Như đã nêu trên, đa số 
doanh nghiệp logsitics nội địa có quy mô nhỏ 
nên năng lực tài chính, trình độ quản lý hạn chế, 
chủ yếu vẫn dừng lại ở việc cung cấp dịch vụ 
logistics 2PL, mà cụ thể là dịch vụ vận tải hàng 
hóa. Trong khi đó, các doanh nghiệp FDI tại 
Việt Nam thường tìm kiếm các gói dịch vụ 
logistics tích hợp (phổ biến là 3PL), vốn không 
đơn thuần là vận chuyển hàng hóa mà còn đi 
kèm với nhiều dịch vụ giá trị gia tăng khác (thủ 
tục hải quan, lưu kho, đóng gói và phân phối 
sản phẩm). Một số doanh nghiệp logistics khác 
chỉ đảm nhận vai trò vệ tinh cho các công ty 
logistics nước ngoài, thực hiện các nghiệp vụ 
đơn lẻ khai báo hải quan, cho thuê phương tiện 
vận tải nội địa, kho bãi, mua bán cước phí 
Những công đoạn mang lại giá trị gia tăng cao 
trong chuỗi dịch vụ logistics như đóng gói, 
quản lý đơn hàng, thay mặt chủ hàng thực hiện 
các nghĩa vụ với bên thứ ba, đặc biệt là dịch 
vụ logistics trọn gói “door to door” chưa được 
các doanh nghiệp Việt Nam đầu tư, thực hiện. 
Thứ ba, thách thức về ứng dụng công nghệ 
thông tin trong hoạt động quản lý và cung cấp 
dịch vụ logistics. Ứng dụng công nghệ thông tin 
trong hoạt động logistics của các doanh nghiệp 
logistics Việt Nam còn rất hạn chế. Báo cáo 
Logistics Việt Nam năm 2017 cho thấy, mặc dù 
không có quy định bắt buộc áp dụng, nhưng 
theo thông lệ quốc tế thì các doanh nghiệp cung 
cấp dịch vụ logistics và phân phối chắc chắn 
phải trang bị hệ thống quản lý điều hành dịch 
vụ kho hàng (WMS). Các WMS thế hệ mới còn 
phải kết nối với hệ thống điều hành kho, thường 
là tự động hóa với các hệ thống điều khiển lập 
trình được nhúng kèm phần trí tuệ nhân tạo thay 
cho các quy trình quản lý tiêu chuẩn truyền 
thống. Thế nhưng, nguồn cung cấp các WMS 
tại Việt Nam hiện rất hạn chế. Các doanh 
nghiệp phần mềm trong nước đa số chưa hiểu 
rõ tính năng yêu cầu, mô hình kinh doanh của 
doanh nghiệp dịch vụ logistics, lực lượng hỗ trợ 
kỹ thuật thiếu kinh nghiệm. 
Với các doanh nghiệp trong nước, chỉ có 
các doanh nghiệp lớn chuyên làm kho phân 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
20 
phối như một số đơn vị thành viên thuộc Tổng 
Công ty Tân Cảng đang chuyển đổi mô hình 
thành trung tâm phân phối xuất nhập khẩu, hoặc 
các doanh nghiệp Gemadept Logistics, 
VINAFCO, U&I, TBS, Transimex, Sotrans 
đang phát triển các ứng dụng WMS. Các doanh 
nghiệp này thường gặp phải khó khăn khi phát 
triển ứng dụng, thường phải mua sản phẩm của 
nước ngoài, quá trình cài đặt và đưa vào vận 
hành gặp nhiều khó khăn, khâu kết nối trong 
nội bộ và với khách hàng đều cần có giải pháp 
tốt hơn. Còn lại hầu hết các doanh nghiệp 
logistics vừa và nhỏ của Việt Nam lại không có 
khả năng tài chính, cùng với tư tưởng ngại đầu 
tư nên chưa có hệ thống quản lý tốt, tỷ lệ có 
WMS ước tính chưa tới 10%. 
Một ví dụ khác là áp dụng hệ thống quản lý 
vận tải (TMS) cho dịch vụ logistics. Đây là hệ 
thống có khả năng quản lý cùng lúc các hoạt 
động vận chuyển hàng hóa bằng nhiều phương 
thức khác nhau, qua nhiều biên giới khác nhau 
nhưng chỉ do một nhà điều hành thực hiện. Tuy 
nhiên, nhà cung cấp TMS chuyên nghiệp tại 
Việt Nam vẫn rất hạn chế, việc cài đặt hệ thống 
còn gặp rất nhiều khó khăn do khả năng liên kết 
đồng bộ dữ liệu với các hãng tàu, hãng hàng 
không, hải quan, cảng biển, cảng hàng không và 
trong nội bộ các doanh nghiệp logistics quá 
phức tạp. 
Một số doanh nghiệp logistics lớn trong 
nước thường ứng dụng các hệ thống quản lý 
vận tải nội địa, quản lý đội xe, sử dụng các 
công cụ quản lý dịch vụ giao nhận truyền thống 
do các nhà cung cấp trong nước phát triển (như 
Fast, Vĩ Doanh FMS). Tỷ lệ ứng dụng cũng 
chỉ dưới 10%. Đa số các doanh nghiệp logistics 
còn lại sử dụng Excell để tự quản lý mà chưa có 
hệ thống thích hợp cho các doanh nghiệp nhỏ 
và vừa Việt Nam. 
Chính việc áp dụng công nghệ thông tin 
trong kinh doanh các dịch vụ logistics của 
Việt Nam còn kém và lúng túng, kể cả bên cung 
cấp lẫn người sử dụng dịch vụ, dẫn đến chi phí 
cao và chưa hiệu quả, đây tiếp tục là thách thức 
đối với doanh nghiệp logistics Việt Nam trước 
sự cạnh tranh của các doanh nghiệp logistics 
ngoại khi các FTA thế hệ mới có hiệu lực [3]. 
Thứ tư, thách thức về nguồn nhân lực. 
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp logistics 
Việt Nam chủ yếu là tự đào tạo theo kinh 
nghiệm thực tế, mức độ chuyên nghiệp còn 
kém, có đến 3/4 nhân viên trong số khoảng 
1.200.000 người hoạt đông trong lĩnh vực 
logistics không đạt đủ yêu cầu về trình độ, sự 
chuyên nghiệp, kỹ năng mềm và khả năng 
ngoại ngữ [6]. Theo khảo sát của Viện Nghiên 
cứu Phát triển Thành phố Hồ Chí Minh về chất 
lượng nguồn nhân lực logistics cho thấy, hiện ở 
Việt Nam có 53,3% doanh nghiệp thiếu đội ngũ 
nhân viên có trình độ chuyên môn và kiến thức 
về logistics, 30% doanh nghiệp phải đào tạo lại 
nhân viên và chỉ có 6,7% doanh nghiệp hài lòng 
với chuyên môn của nhân viên. Số liệu trên cho 
thấy, với nguồn nhân lực như hiện nay, ngành 
dịch vụ logistics khó theo kịp tốc độ phát triển 
của thế giới. 
5. Một số giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát 
triển của lĩnh vực dịch vụ logistics Việt Nam 
trong thời gian tới 
Thứ nhất, để tận dụng tốt những cơ hội và 
vượt qua những thách thức nêu trên từ các FTA 
thế hệ mới, các cơ quan quản lý nhà nước và 
các doanh nghiệp logistics Việt Nam cần phát 
huy tính chủ động, đổi mới tư duy và tăng 
cường năng lực cạnh tranh. Theo đó, Hiệp hội 
Logistics Việt Nam (VLA) cần có biện pháp 
hướng dẫn, khuyến khích các doanh nghiệp 
logistisc liên kết với nhau để có những doanh 
nghiệp có đủ quy mô, đủ điều kiện cạnh tranh 
với các doanh nghiệp logistics nước ngoài. 
Chính vì vậy, vai trò của các hiệp hội lúc này 
cực kỳ quan trọng. Hoạt động logistics chuyên 
nghiệp đòi hỏi phải tích hợp được việc cung 
ứng nguyên vật liệu, sản xuất, xuất nhập khẩu 
hàng hóa, phân phối với hàng loạt các dịch vụ 
vận tải, giao nhận, do đó rất cần tiếng nói 
chung, sự liên minh giữa các doanh nghiệp. Bên 
cạnh đó, các doanh nghiệp thành viên trong 
hiệp hội cần tăng cường hợp tác với nhau để 
bảo vệ lợi ích chung, cùng cạnh tranh với các 
đối thủ cùng ngành nghề, tập đoàn nước ngoài, 
tránh trường hợp vì lợi ích cục bộ làm thiệt hại 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 21 
đến doanh nghiệp trong nước, để đối tác nước 
ngoài lợi dụng. 
Thứ hai, các doanh nghiệp logistics 
Việt Nam cần đánh giá và nhận thức đúng thực 
trạng của doanh nghiệp, từ đó khắc phục các 
điểm yếu, phát huy điểm mạnh để nâng cao 
năng lực cạnh tranh, đẩy mạnh ứng dụng công 
nghệ thông tin trong quản lý và cung cấp dịch 
vụ công liên quan tới vận tải, giao nhận. 
Các doanh nghiệp logistics cần chủ động 
liên kết với các doanh nghiệp cùng ngành, tạo 
ra những liên kết đủ lớn tham gia vào thị 
trường, hỗ trợ, bổ sung cho nhau, đủ sức để 
thực hiện chuỗi dịch vụ logistics hoàn chỉnh. 
Đẩy mạnh hợp tác với các doanh nghiệp xuất 
nhập khẩu để hình thành chuỗi cung ứng, nâng 
cao chất lượng dịch vụ và hiệu suất hoạt động. 
Thứ ba, các doanh nghiệp Việt Nam cần có 
sự đột phá trong ứng dụng công nghệ thông tin 
nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ logistics, 
tăng khả năng cạnh tranh trong thời gian tới. Để 
làm được điều này, các doanh nghiệp logistics 
cần nhận thức rõ trong việc cung cấp dịch vụ 
logistics, việc ứng dụng công nghệ thông tin 
trong giao dịch và quản trị là một yếu tố quan 
trọng, đánh giá độ tin cậy của khách hàng đối 
với doanh nghiệp, cũng như năng lực của doanh 
nghiệp logistics. Bên cạnh đó, hạ tầng công 
nghệ thông tin cần được chú trọng cải thiện và 
xây dựng mới, đặc biệt ứng dụng hệ thống EDI 
nhằm từng bước cải thiện công tác chuyển giao 
dữ liệu và số hóa dữ liệu, tăng tính bảo mật và 
tốc độ chuyển giao dữ liệu. Một phần ngân sách 
cho hoạt động kinh doanh cần được sử dụng để 
đầu tư vào công nghệ thông tin nhằm ứng dụng 
hiệu quả những phần mềm mới cần thiết cho 
hoạt động logistics như RFID, Barcode, đám 
mây logistics Các doanh nghiệp logistics có 
thể hướng đến sự hợp tác với các công ty phần 
mềm để đặt hàng các ứng dụng chuyên biệt 
nhằm tận dụng tối đa hiệu quả của từng 
ứng dụng. 
Đặc biệt với xu thế phát triển mạnh của 
cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay, việc 
áp dụng robot trong kho hàng đang trở nên phổ 
biến tại các trung tâm dịch vụ lớn trên thế giới 
và các doanh nghiệp logistics nước ngoài tại 
Việt Nam cũng đã bắt đầu triển khai áp dụng. 
Có hai loại hệ thống chủ yếu phân chia theo 
cách thức cất trữ và lấy hàng ra từ vị trí cất trữ 
trong kho: Một là hệ thống tự động cất trữ và 
lấy ra (ASRS), hai là hệ thống hàng tự tới người 
(GTM). Như vậy, các doanh nghiệp logistics 
Việt Nam cần có kế hoạch đầu tư kho tự động 
ASRS để thực hiện việc quản lý và cung cấp 
dịch vụ logistics một cách đầy đủ. 
Thứ tư, tích cực đẩy mạnh công tác đào tạo 
nhân lực chuyên ngành về logistics tại các 
trường đại học và cao đẳng. Các doanh nghiệp 
logistics Việt Nam hiện rất thiếu những người 
được đào tạo chuyên nghiệp, có kinh nghiệm và 
hiểu biết luật pháp quốc tế. Chính vì vậy, một 
trong những vấn đề cấp bách hiện nay của 
ngành logistics Việt Nam là cần phải tăng 
cường đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng chiến 
lược nhân lực hợp lý để có thể đáp ứng nhu cầu 
nguồn nhân lực cho ngành này trong thời gian 
tới. Trước mắt, cần tổ chức đào tạo, bồi dưỡng 
ngắn hạn cho đội ngũ những người trực tiếp 
tham gia khai thác dịch vụ logistics với những 
nội dung thiết thực, gắn kết với công việc của 
họ như quy trình khai báo làm thủ tục giao nhận 
hàng với các cơ quan có liên quan như hải 
quan, cảng biển, cách đọc và hiểu được các 
chứng từ vận tải. Về dài hạn, cần phải đào tạo 
kiến thức logistics bài bản, đặc biệt là tiếng Anh 
và công nghệ thông tin thành thạo cho sinh 
viên. Đồng thời, các sinh viên sau khi được đào 
tạo trong trường cần được thực hành tại môi 
trường logistics chuyên nghiệp. 
Thứ năm, hoạt động trong môi trường cạnh 
tranh quyết liệt, không có sự bảo hộ của Nhà 
nước, muốn đứng vững thì không có giải pháp 
hữu hiệu nào hơn là các doanh nghiệp phải 
nâng cao chất lượng dịch vụ, hoàn thiện các 
loại hình dịch vụ đang cung cấp cho khách 
hàng, đặc biệt là dịch vụ vận tải giao nhận hàng 
hóa bằng container. Đối với lĩnh vực giao nhận 
hàng hải, cần nhanh chóng cải tạo và nâng cấp 
theo hướng hiện đại hóa hệ thống kho bãi hiện 
có, phát triển kho bãi mới ở vị trí thuận lợi đảm 
bảo cho được triển khai nghiệp vụ gom hàng, 
bảo quản, đóng gói, giao nhận và vận chuyển. 
Trong điều hành, cần củng cố hệ thống máy 
H.V. Hoi / VNU Journal of Science: Economics and Business, Vol. 35, No. 1 (2019) 14-22 
22 
tính ghi lại toàn bộ thông tin liên quan đến 
container cũng như hàng hóa trong container 
(hệ thống CCMS quốc tế). Đây là hệ thống 
quản lý của các hãng vận tải giao nhận nước 
ngoài thường sử dụng, nay Việt Nam áp dụng 
để chuyển dần sang cung cấp dịch vụ logistics. 
6. Kết luận 
Xu thế nở rộ các FTA thế hệ mới đã mang 
đến vận hội - tiềm năng nhưng song hành với 
nó là những bài toán - thách thức đặt ra cho 
ngành logistics Việt Nam. Để có thể tận dụng 
cơ hội, vượt qua thách thức, không có cách nào 
khác là các doanh nghiệp logistics phải tự 
chuyển mình. Các doanh nghiệp logistics phải 
chủ động đầu tư và nắm lấy cơ hội khai thác 
dịch vụ này, không nên bỏ rơi lợi nhuận cho các 
doanh nghiệp nước ngoài hưởng lợi ngay trên 
sân nhà. 
Tài liệu tham khảo 
[1] Nguyễn Thanh Tâm, “Tổng quan về các FTA thế 
hệ mới”, Tạp chí Giáo dục và Xã hội. 61 (122) 
(2016) 78-83. 
[2] Nguyên Hải, “Thách thức thực hiện các FTA”, 
Thời báo Kinh tế Sài Gòn, số 16 (2016). 
[3] Lê Thị Thúy, “Hiệp định thương mại tự do thế hệ 
mới: cơ hội và thách thức đối với Việt Nam”, 
Khoa học Xã hội Việt Nam. 5 (2017) 19-29. 
[4] “Sức vươn mạnh mẽ về xuất khẩu của các khu vực 
kinh tế”, đăng tải ngày 06/01/2019, 
[5] Kim Ngọc, “Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện 
khu vực: Cơ hội và thách thức cho doanh nghiệp 
Việt Nam”, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam. 9 
(2015) 51-57. 
[6] Mai Lợi, “Cơ hội và thách thức cho ngành dịch vụ 
logistics Việt Nam trong bối cảnh hội nhập sâu”, 
Tạp chí Giao thông Vận tải, số tháng 2/2018. 
[7] Nguyễn Thúy Hồng Vân, Hồ Thị Thu Hòa, Bùi 
Thị Bích Liên, Trần Thị Thường, “Ứng dụng công 
nghệ thông tin trong hoạt động logistics của Việt 
Nam: Thực trạng và đề xuất”, Tạp chí Giao thông 
Vận tải, số tháng 2/2016. 

File đính kèm:

  • pdftham_gia_ftas_the_he_moi_co_hoi_va_thach_thuc_doi_voi_nganh.pdf