Tâm lý học - Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS

Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em được vào học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi khó bảo“, “tuổi khủng hoảng “, “tuổi bất trị “.

- Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn(người trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt phát triển : thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức của thời kỳ này.

pdf 39 trang thom 03/01/2024 6740
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Tâm lý học - Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tâm lý học - Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS

Tâm lý học - Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS
Tâm lý lứa tuổi học sinh THCS 
 I. VỊ TRÍ & GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA TUỔI 
HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 
- Tuổi thiếu niên là giai đoạn phát triển của trẻ từ 11 - 15 tuổi, các em 
được vào học ở trường trung học cơ sở (từ lớp 6 - 9). Lứa tuổi này có 
một vị trí đặc biệt và tầm quan trọng trong thời kỳ phát triển của trẻ em, 
vì nó là thời kỳ chuyển tiếp từ tuổi thơ sang tuổi trưởng thành và được 
phản ánh bằng những tên gọi khác nhau như: “thời kỳ quá độ“, “tuổi khó 
bảo“, “tuổi khủng hoảng “, “tuổi bất trị “... 
- Đây là lứa tuổi có bước nhảy vọt về thể chất lẫn tinh thần, các em đang 
tách dần khỏi thời thơ ấu để tiến sang giai đoạn phát triển cao hơn(người 
trưởng thành) tạo nên nội dung cơ bản và sự khác biệt trong mọi mặt 
phát triển : thể chất, trí tuệ, tình cảm, đạo đức của thời kỳ này. 
- Ở lứa tuổi thiếu niên có sự tồn tại song song “vừa tính trẻ con, vừa tính 
người lớn” ,điều này phụ thuộc vào sự phát triển mạnh mẽ về cơ thể, sự 
phát dục, điều kiện sống, hoạt độngcủa các em. 
- Mặt khác, ở những em cùng độ tuổi lại có sự khác biệt về mức độ phát 
triển các khía cạnh khác nhau của tính người lớn - điều này do hoàn 
cảnh sống, hoạt động khác nhau của các em tạo nên. Hoàn cảnh đó có cả 
hai mặt: 
Những yếu điểm của hoàn cảnh kiềm hãm sự phát triển tính người lớn: 
trẻ chỉ bận vào việc học tập, không có những nghĩa vụ khác, nhiều bậc 
cha mẹ có xu thế không để cho trẻ hoạt động, làm những công việc khác 
nhau của gia đình, của xã hội. 
Những yếu tố của hoàn cảnh thúc đẩy sự phát triển tính người lớn: sự gia 
tăng về thể chất, về giáo dục, nhiều bậc cha mẹ quá bận, gia đình gặp 
khó khăn trong đời sống, đòi hỏi trẻ phải lao động nhiều để sinh sống. 
Điều đó đưa đến trẻ sớm có tính độc lập, tự chủ hơn. 
- Phương hướng phát triển tính người lớn ở lứa tuổi này có thể xảy ra 
theo các hướng sau: 
Đối với một số em, tri thức sách vở làm cho các em hiểu biế nhiều, 
nhưng còn nhiều mặt khác nhau trong đời sống thì các em hiểu biết rất 
ít. 
Có những em ít quan tâm đến việc học tập ở nhà trường, mà chỉ quan 
tâm đến những vấn đề làm thế nào cho phù hợp với mốt, coi trọng việc 
giao tiếp với người lớn, với bạn lớn tuổi để bàn bạc, trao đổi với họ về 
các vấn đề trong cuộc sống, để tỏ ra mình cũng như người lớn. 
Ở một số em khác không biểu hiện tính người lớn ra bên ngoài, nhưng 
thực tế đang cố gắng rèn luyện mình có những đức tính của người lớn 
như:dũng cảm, tự chủ, độc lập còn quan hệ với bạn gái như trẻ con. 
-Trong những giai đoạn phát triển của con người, lứa tuổi thiếu niên có 
một vị trí và ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đây là thời kỳ phát triển phức 
tạp nhất, và cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất cho những bước 
trưởng thành sau này. Thời kỳ thiếu niên quan trọng ở chỗ : trong thời 
kỳ này những cơ sở, phương hướng chung của sự hình thành quan điểm 
xã hội và đạo đức của nhân cách được hình thành, chúng sẽ được tiếp 
tục phát triển trong tuổi thanh niên. 
- Hiểu rõ vị trí và ý nghĩa của giai đoạn phát triển tâm lý thiếu niên, giúp 
chúng ta có cách đối xử đúng đắn và giáo dục để các em có một nhân 
cách toàn diện. 
 II. NHỮNG ĐIỀU KIỆN CỦA SỰ PHÁT TRIỂN TÂM LÝ LỨA 
TUỔI HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 
1. Sự biến đổi về mặt giải phẩu sinh lí 
a. Sự phát triển cơ thể của thiếu niên diễn ra mạnh mẻ nhưng không cân 
đối. 
Sự hoạt động tổng hợp của các tuyến nội tiết quan trọng nhất (tuyến yên, 
tuyến giáp trạng, tuyến thượng thận) tạo ra nhiều thay đổi trong cơ thể 
trẻ, trong đó sự nhảy vọt về chiều cao và sự phát dục 
- Chiều cao của các em tăng lên một cách đột ngột, hằng năm có thể tăng 
từ 5 - 6 cm; Trọng lượng cơ thể hằng năm tăng từ 2,4 - 6 kg; tăng vòng 
ngựclà những yếu tố đặc biệt trong sự phát triển thể chất của trẻ. 
- Ở giai đoạn dưới 14 tuổi vẫn còn có các đốt sụn hoàn toàn giữa các đốt 
xương sống, nên cột sống dễ bị cong vẹo khi đứng ngồi không đúng tư 
thế. 
- Sự tăng khối lượng các bắp thịt và lực của cơ bắp diễn ra mạnh nhất 
vào cuối thời kì dậy thì khiến các em khỏe ra rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát 
triển cơ của các em trai khác biệt nhất định báo hiệu sự hình thành ở các 
em những nét khác biệt về cơ thể : con trai cao lên, vai rộng ra, con gái 
tròn trặn dần, xương chậu rộng ra 
Sự phát triển cơ thể diễn ra không cân đối làm cho các em lúng túng, 
vụng về, “lóng ngóng”. 
- Xương chân và tay chóng dài nhưng cơ phát triển chậm hơn và lồng 
ngực phát triển chậm, nên đầu tuổi thiếu niên thường có thân hình dài, 
hơi gầy và ít nhiều không cân đối. 
- Sự phát triển của hệ tim - mạch cũng không cân đối : thể tích tim tăng 
nhanh, hoạt động mạnh hơn nhưng đường kính phát triển chậm hơn. 
Điều này gây nên rối loạn tạm thời của hệ tuần hoàn máu. 
b. Hoạt động thần kinh cấp cao của tuổi thiếu niên cũng có những nét 
riêng biệt. 
- Ở tuổi thiếu niên, quá trình hưng phấn chiếm ưu thế rõ rệt, dẫn đến 
thiếu niên không làm chủ được cảm xúc của mình, không kiềm chế được 
xúc động mạnh. Các em dễ bị kích động, dễ bực tức, cáu gắt, mất bình 
tĩnh 
-Ở tuổi thiếu niên, phản xạ có điều kiện đối với những tính hiệu trực tiếp 
được hình thành nhanh hơn những phản xạ có điều kiện đối với những 
tính hiệu từ ngữ. Do vậy, ngôn ngữ của trẻ cũng thay đổi. Các em nói 
chậm hơn, hay “nhát gừng”, “cộc lốc” Nhưng hiện tượng này chỉ tạm 
thời, khoảng 15 tuổi trở lên hiện tượng này cân đối hơn. 
c. Hiện tượng dậy thì 
Sự trưởng thành về mặt sinh dục là yếu tố quan trọng nhất của sự phát 
triển cơ thể của thể thiếu niên. Tuyến sinh dục bắt đầu hoạt động và cơ 
thể các em xuất hiện những dấu hiệu phụ khiến chúng ta nhận ra các em 
đang ở độ tuổi dậy thì. 
Biểu hiện bên ngoài chủ yếu của sự chín muồi của các cơ quan sinh dục 
ở các em trai là sự xuất tinh, ở các em gái là hiện tượng thấy kinh. Tuổi 
dậy thì của các em nữ thường vào khoảng 12 - 14 tuổi, các em nam bắt 
đầu và kết thúc chậm hơn các em gái khoảng 1,5 - 2 năm. 
Sự phát dục cùng với những chuyển biến trong sự phát triển cơ thể của 
thiếu niên có một ý nghĩa không nhỏ trong sự nảy sinh những cấu tạo 
tâm lý mới : Cảm giác về tính người lớn thực sự của mình ; cảm giác về 
tình cảm giới tính mới lạ, quan tâm tới người khác giới. 
2. Sự thay đổi của điều kiện sống 
a.Đời sống gia đình của hcọ sinh trung học cơ sở: 
- Đến tuổi này, các em đã có những vai trò nhất định, được gia đình thừa 
nhận như là một thành viên tích cực của gia đình, được cha mẹ, anh chị 
giao cho những trọng trách khá năng nề như : chăm sóc các em nhỏ, nấu 
cơm, dọn dẹp nhà cửa, chăn nuôi gia súc,. Thậm chí khá nhiều em trở 
thành lao động chính, góp phần tăng thu nhập của gia đình, các em đã ý 
thức được các nhiệm vụ đó và thực hiện tích cực. 
- Điều quan trọng và có ý nghĩa lớn đối với các em là cha mẹ không còn 
coi các em là bé nhỏ nữa, mà đã quan tâm đến ý kiến của các em hơn, 
dành cho các em những quyền sống độc lập hơn, đề ra những yêu cầu 
cao hơn, các em được tham gia bàn bạc một số công việc của gia đình và 
đã biết quan tâm đến việc xây dựng, bảo vệ uy tín của gia đình. 
Những sự thay độ đó đã làm cho trẻ ý thức được vị thế của mình trong 
gia đình và động viên, kích thích các em hoạt động tích cực, độc lập, tự 
chủ. 
b. Đời sống trong nhà trường của học sinh trung học cơ sở cũng vó 
nhiều thay đổi. 
Hoạt động học tập và các hoạt động khác của các học sinh trung học cơ 
sở đòi hỏi và thúc đẩy các em có thái độ tích cực và độc lập hơn, tạo 
điều kiện cho các em thõa mãn nhu cầu giao tiếp của mình. 
- Sự thay đổi về nội dung dạy học: 
Vào học trường trung học cơ sở, các em được tiếp xúc với nhiều môn 
học khác nhau, có nội dung trừu tượng, sâu sắc và phong phú hơn, do đó 
đòi hỏi các em phải có sự thay đổi về cách học. 
Sự phong phú về trí thức của từng môn học làm cho khối lượng tri thức 
các em lĩnh hội được tăng lên nhiều, tầm hiểu biết của các em được mở 
rộng . 
- Sự thay đổi về phương pháp dạy học và hình thức học tập: 
 Các được học nhiều môn học do nhiều thầy, cô giảng dạy, cho nên 
phương pháp học tập thay đổi ở các bộ môn và mỗi thầy, cô có cách 
trình bày, có phương pháp độc đáo của mình. 
Thái độ say sưa, hứng thú học tập, lĩnh hội, phát triển trí tuệ, việc hình 
thành và phát triển cách lập luận độc đáo cùng những nét tính cách quý 
báu của các em điều do ảnh hưởng của cách dạy và nhân cách của người 
thầy. 
- Các em được học với nhiều thầy, nhiều bạn, chịu ảnh hưởng của nhiều 
nhân cách, phong cách xử thế khác nhau. 
- Các em được tham gia vào nhiều dạng hoạt động ở nhà trường như : 
lao động, học tập nngoại khóa, văn nghệ, thể thao... 
c. Đời sống của học sinh trung học cơ sở trong xã hội : 
- Ở lứa tuổi này các em được thừa nhận như một thành viên tích cực và 
được giao một số công việc nhất định trên liều lĩnh vực khác nhau như 
tuyên truyền cổ động, giữ trật tự đường phố, giúp đỡ gia đình thương 
binh, liệt sĩ, bổ túc văn hóa... 
-Thiếu niên thích làm công tác xã hội: 
Có sức lực, đã hiểu biết nhiều, muốn làm được những công việc được 
mọi người biết đến, nhất là những công việc cùng làm với người lớn. 
Các em cho rằng công tác xã hội là việc làm của người lớn và có ý nghĩa 
lớn lao. Do đó được làm các công việc xã hội là thể hiện mình đã là 
người lớn và muốn được thừa nhận mình là người lớn. 
Hoạt động xã hooij là hoạt động có tính chất tập thể, phù hợp với sở 
thích của thiếu niên. 
Do tham gia công tác xã hội, mà quan hệ của học sinh trung học cơ sở 
được mở rộng, kinh nghiệm cuộc sống phong phú lên, nhân cách của 
thiếu niên được hình thành và phát triển. 
*Tóm lại : 
Sự thay đổi điều kiện sống, điều kiện hoạt động của thiếu niên ở trong 
gia đình, nhà trường, xã hội mà vị trí của các em được nâng lên. Các em 
ý thức được sự thay đổi và tích cực hoạt động cho phù hợp với sự thay 
đổi đó. Do đó, đặc điểm tâm lý, nhân cách của học sinh trung học cơ sở 
được hình thành và phát triển phong phú hơn so các lứa tuổi trước. 
 III. HOẠT ĐỘNG HỌC TẬP VÀ SỰ PHÁT TRIỂN TRÍ TUỆ 
CỦA HỌC SINH TRUNG HỌC CƠ SỞ 
1. Đăc điểm của hoạt động học tập trong trường trung học cơ sở: 
a. Trẻ càng lớn lên, hoạt động học tập càng có vị trí quan trọng trong 
cuộc sống của trẻ và vai trò của nó trong sự phát triển của trẻ ngày càng 
to lớn. 
Học tập là hoạt động chủ đạo của học sinh, nhưng vào tuổi thiếu niên, 
việc học tập của các em có những thay đổi cơ bản. 
Việc học tập ở trường trung học cơ sở là một bước ngoặc quan trọng 
trong đời sống của trẻ. Ở các lớp dưới, trẻ học tập các hệ thống các sự 
kiện và hiện tượng, hiểu những mối quan hệ cụ thể và đơn giản giữa các 
sự kiện và hiện tượng đó. Ở trường trung học cơ sở, việc học tập của các 
em phức tạp hơn một cách đáng kể. Các em chuyển sang nghiên cứu có 
hệ thống những có sở của các khoa học, các em học tập có phân môn 
Mỗi môn học gồm những khái niệm, những quy luật được sắp xếp thành 
một hệ thống tương đối sâu sắc. Điều đó đòi hỏi các em phải tự giác và 
độc lập cao. 
b. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh cũng khác trước. Các em được 
học với nhiều giáo viên. Các giáo viên có cách dạy và yêu cầu khác nhau 
đối với học sinh, có trình độ nghề nghiệp và phẩm chất, uy tín khác 
nhau. Quan hệ giữa giáo viên và học sinh “xa cách” hơn so với bậc tiểu 
học. Sự thay đổi này tạo ra những khó khăn nhất định cho các em nhưng 
nó cũng tạo điều kiện cho các em phát triển dần phương thức nhận thức 
người khác. 
c. Thái độ tự giác đối với học tập ở tuổi thiếu niên cũng tăng lên rõ rệt. 
Ở học sinh tiểu học, thái độ đối với môn học phụ thuộc vào thái độ của 
các em đối với giáo viên và điểm số nhận được. Nhưng ở tuổi thiếu niên, 
thái độ đối với môn học do nội dung môn học và sự đòi hỏi phải mở 
rộng tầm hiểu biết chi phối. Thái độ đối với môn học đã được phân hóa 
(môn “hay”, môn “không hay”  ) 
Ở đa số thiếu niên, nội dung khái niệm “học tập” đã được mở rộng ; ở 
nhiều em đã có yếu tố tự học, có hứng thú bền vững đối với môn học, 
say mê học tập. Tuy nhiên, tính tò mò, ham hiểu biết nhiều có thể khiến 
hứng thú của thiếu niên bị phân tán và không bền vững và có thể hình 
thành thái độ dễ dãi, không nghiêm túc đối với các lĩnh vực khác trong 
cuộc sống. 
Trong giáo dục, giáo viên cần thấy được mức độ phát triển cụ thể ở mỗi 
em để kịp thời động viên, hướng dẫn thiếu niên khắc phục những khó 
khăn trong học tập và hình thành nhân cách một cách tốt nhất. Mặt khác, 
cần chú ý tới tài liệu học tập : Tài liệu học tập phải súc tích về nội dung 
khoa học, phải găn với cuộc sống của các em, làm cho các em hiểu rõ ý 
nghĩa của tài liệu học, phải gợi cảm, gây cho học sinh hứng thú học tập 
và phải trình bày tài liệu, phải gợi cho học sinh có nhu cầu tìm hiểu tài 
liệu đó, phải giúp đỡ các em biết cách học, có phương pháp học tập phù 
hợp. 
2. Đặc điểm của sự phát triển trí tuệ của lứa tuổi học sinh trung học 
cơ sở 
Ở lứa tuổi này hoạt động 
a. Tri giác: các em đã có khả năng phân tích, tổng hợp các sự vật, hiên 
tượng phức tạp hơn khi tri giác sự vật, hiện tượng. Khối lượng tri giác 
tăng lên, tri giác trở nên có kế hoạch, cơ trình tự và hoàn thiện hơn. 
b. Trí nhớ: của thiếu niên cũng được thay đổi về chất. Đặc điểm cơ bản 
của trí nhớ ở lứa tuổi này là sự tăng cường tính chấtchủ định, năng lực 
ghi nhớ có chủ định được tăng lên rõ rệt, cách thức ghi nhớ được cải 
tiến, hiệu suất ghi nhớ cũng được nâng cao. 
 Học sinh trung học cơ sở có nhiều tiến bộ trong việc ghi nhớ tài liệu trừu 
tượng, từ ngữ. Các em có những kỹ năng tổ chức hoạt động tư duy, biết 
tiến hành các thao tác như so sánh, hệt thống hóa, phân loại nhằm ghi 
nhớ tài liệu. Kỹ năng nắm vững phương tiện ghi nhớ của thiếu niên được 
phát triển ở mức độ cao, các em bắt đầu biết sử dụng những phương 
pháp đặc biệt để ghi nhớ và nhớ lại. Tốc độ ghi nhớ và khối lượng tài 
liệu được ghi nhớ tăng lên. Ghi nhớ máy móc ngày càng nhường chỗ 
cho ghi nhớ logic, ghi nhớ ý nghĩa. Hiệu quả của trí nhớ trở nên tốt hơn. 
Các em thường phản đối các yêu cầu của giáo viên bắt học thuộc lòng 
từng câu, từng chữ có khuynh hướng muốn tái hiện bằng lời nói của 
mình. Vì thế giáo viên cần phải: 
 + Dạy cho học sinh phương pháp ghi nhớ lôgic. 
 + Cần giải thích cho các em rõ sự cần thiết phải ghi nhớ chính xác 
những định nghĩa, những qui luật. Ở đây phải chỉ rõ cho các em thấy, 
nếu ghi nhớ thiếu một từ nào đó thì ý nghĩa của nó không còn chính xác 
nữa. 
 + Rèn luyện cho các em có kỹ năng trình bày chính xác nội dung bài 
học theo cách diễn đạt của mình. 
 + Chỉ cho các em, khi kiểm tra sự ghi nhớ, phải bằng sự tái hiện mới 
biết được sự hiệu quả của sự ghi nhớ.(Thường thiếu niên hay sử dụng sự 
nhận lại) 
 + Giáo viên cần hướng dẫn các em vận dụng cả hai cách ghi nhớ máy 
móc và ghi nhớ ý nghĩa một cách hợp lý. 
 + Cần chỉ cho các em thiết lập các mối liên tưởng ngày càng phức tạp 
hơn, gắn tài liệu mới với tài liệu củ, giúp cho việc lĩnh hội tri thức có hệ 
thống hơn, đưa tài liệu củ vào hệ thống tri thức. 
c. Tư duy : 
Hoạt động tư duy của học sinh trung học cơ sở có những biến đổi cơ 
bản: 
- Tư duy nói chung và tư duy trừu tượng nói riêng phát triển mạnh là 
một đặc điểm cơ bản của hoạt động tư duy ở thiếu niên. Nhưng thành 
phần của tư duy hình tượng - cụ thể vẫn được tiếp tục phát triển, nó vẫn 
giữ vai trò quan trọng trong cấu trúc của tư duy. 
- Các em hiể ... cách có ý thức với những yêu cầu, những đánh 
giá, những nhận xét của người lớn. Tác động giáo dục của người lớn đối 
với các em bị giảm sút. 
Có nhiều yếu tố làm cho người lớn vẫn giữ nguyên quan hệ như trước 
đây đối với các em : các em vẫn còn là học sinh, vẫn phụ thuộc vào cha 
mẹ về kinh tế; cha mẹ và giáo viên vẫn đang giữ vai trò giáo dục các em; 
hơn thế nữa, ở các em vẫn còn những nét trẻ con trên khuôn mặt, trong 
dáng dấp, trong hành vi và trong tính cách. Mặt khác, nhiều người lớn 
còn thấy việc tăng quyền hạn và tính độc lập cho thiếu niên là không 
hợp lí. 
Chính sự không thay đổi thái độ của người lớn khi thiếu niên đang trở 
thành người lớn là nguyên nhân gây ra “đụng độ” giữa thiếu niên với 
người lớn. Nếu người lớn không thay đổi thái độ, các em sẽ thái độ 
chống đối, các em sẽ xa lánh người lớn, cho rằng người lớn không hiểu 
và không thể hiểu mình 
b. Do vậy, trong quan hệ với thiếu niên, người lớn cần : 
- Phải mong muốn và biết cách tôn trọng tính độc lập và quyền bình 
đẳng của thiếu niên. 
- Quan hệ giữa thiếu niên và người lớn có thể không có mâu thuẫn nếu 
quan hệ đó được xây dựng trên cơ sở tôn trọng, giúp đỡ lẫn nhau. 
- Khi tiếp xúc với thiếu niên cần gương mẫu, khéo léo, tế nhị 
Như vậy, tính độc lập và quyền bình đẳng trong quan hệ của các em với 
người lớn là vấn đề phức tạp và gay gắt nhất trong giao tiếp của các em 
với người lớn nói riêng, trong việc giáo dục các em ở lứa tuổi này nói 
chung. Không nên coi đây là biểu hiện của sự “khủng hoảng” tuổi dậy 
thì, mà là sự khủng hoảng trong quan hệ của thiếu niên với người lớn, 
chủ yếu do người lớn gây ra. Những khó khăn, mâu thuẫn có thể hạn chế 
hoặc không xảy ra, nếu người lớn và các em xây dựng được mối quan hệ 
bạn bè, quan hệ có hình thức hợp tác trên cơ sở tôn trọng, thương yêu, 
tin cậy, bình đẳng và tế nhị trong cư xử với thiếu niên. 
Sự hợp tác này cho phép người lớn đặt các em vào vị trí mới - vị trí của 
người giúp việc và người bạn trong những công việc khác nhau, còn bản 
thân người lớn trở thành người mẫu mực và người bạn tin cậy của các 
em. 
2. Giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với bạn bè 
Nhu cầu giao tiếp với bạn phát triển mạnh là một đặc điểm quan trọng ở 
tuổi thiếu niên 
a. Sự giao tiếp của học sinh trung học cơ sở với bạn bè cùng lứa tuổi: 
- Quan hệ với bạn bè cùng lứa tuổi phức tạp, đa dạng hơn nhiều so với 
học sinh tiểu học. Sự giao tiếp của các em đã vượt ra ngoài phạm vi học 
tập, phạm vi nhà trường, mà còn mở rộng trong những hứng thú mới, 
những việc làm mới, những quan hệ mới trong đời sống của các em, các 
em có nhu cầu lớn trong giao tiếp với bạn bè vì: 
Một mặt, các em rất khao khát được giao tiếp và cùng hoạt động chung 
với nhau, các em có nguyện vọng được sống trong tập thể, có những bạn 
bè thân thiết tin cậy. Mặt khác, cũng biểu hiện nguyện vọng không kém 
phần quan trọng là được bạn bè công nhận, thừa nhận, tôn trọng mình. 
- Học sinh trung học cơ sở cho rằng quan hệ bạn bè cùng tuổi là quan hệ 
riêng của cá nhân, các em có quyền hành động độc lập trong quan hệ 
này bảo vệ quyền đó của mình. Các em không muốn người lớn can thiệp 
vào chuyện bạn bè của mình. Nếu có sự can thiệp thô bậo cảu người lớn, 
khiến các em cảm thấy bị xúc phạm, thì các em chống đối lại. Nhu cầu 
giao tiếp với bạn bè là một nhu cầu chính đáng của các em. Các em 
mong muốn có một tình bạn riêng, thân thiết để “gửi gắm tâm tình”. Các 
em có nhiều nhận xét, băn khoăn về dáng vẻ bên ngoài, về tình cảm, ý 
nghĩ tâm tư của mình, về quan hệ của mình với người khác và cả quan 
hệ của mọi người với nhauCác em cần trao đổi với bạn bè để có được 
hiểu biết đầy đủ hơn, đúng hơn về bản thân và một số vấn đề khác 
Nếu như quan hệ của người lớn và các em không hòa thuận, thì sự giao 
tiếp với bạn bè cùng tuổi càng tăng và ảnh hưởng của bạn bè đến với các 
em càng mạnh mẽ. 
Sự bất hòa trong quan hệ bạn bè cùng lớp, sự thiếu thốn bạn thân hoặc 
tình bạn bị phá vỡ đều sinh ra những cảm xúc nặng nề và tình huống khó 
chịu nhất đối với các em là sự phê bình thẳng thắn của tập thể, của bạn 
bè; còn hình phạt nặng nề nhất đối với các em là bị bạn bè tẩy chay, 
không muốn chơi với mình. 
- Tình bạn trong đời sống học sinh trung học cơ sở đã sâu sắc hơn. Các 
em thích giao tiếp và kết bạn với nhau, nhưng không phải mọi em ở 
trong lớp đều được các em thích và giao tiếp như nhau. Các em chỉ kết 
bạn với những em được mọi người tôn trọng, có uy tín và tiến bộ rõ rệt 
về mặt nào đó. 
 - Lúc đầu phạm vi giao tiếp của các em thường là rộng, nhưng không 
được bền vững, có tính chất tạm thời, là thời kì lựa chọn, tìm kiếm người 
bạn thân. Về sau những em có cùng hứng thú, cùng yêu thích một loại 
hoạt động nào đó, thì gắn bó với nhau. Trong việc chọn bạn, thiếu niên 
thường yêu cầu cao ở bạn, đều quan trọng để kết bạn là những phẩm 
chất về tình bạn phải trung thành, thẳng thắn, cởi mở, tôn trọng, tin cậy 
lẫn nhau, quan hệ bình đẳng và giúp đỡ lẫn nhau. 
- Phạm vi giao tiếp của các em hẹp lại, nhưng quan hệ của các em gắn 
bó với nhau hơn, chịu ảnh hưởng của nhau, dễ lây hứng thú của bạn (có 
thể trở thành người tốt hoặc ngược lại). Vì vậy giao tiếp với bạn là 
nguồn nảy sinh hứng thú mới. Bạn bè mà các em yêu thích có thể trở 
thành hình mẫu đối với các em, nhất là các bạn có những ưu điểm. 
- Trò chuyện giữ một vị trí có ý nghĩa đối với lứa tuổi này, các em đã kể 
cho nhau về mọi mặt sinh họat, đời sống và suy nghĩ của mình, kể cả 
những điều “bí mật” nhiều khi các bạn không kể với bất cứ ai. Vì thế mà 
các em yêu cầu rất cao đối với bạn, phải cởi mở, hiểu nhau, tế nhị, vị 
tha, đồng cảm và giữ bí mật cho nhau. 
- Lí tưởng tình bạn của lứa tuổi này là “sống chết có nhau”, “chí ngọt, xẽ 
bùi” - đây là vấn đề các em thâm nhập vào mọi mặt đời sống của nhau. 
Càng lớn lên sự thâm nhập về tâm hồn giữa các em ngày càng được nảy 
nở, phát triển. Đó là sự giống nhau về đời sống nội tâm, là sự hiểu biết 
nhau, sự trùng hợp về những giá trị của cá nhân, về những hoài bảo, về 
quan điểm trong cuộc sống. 
b. Một đặc trưng quan trọng trong quan hệ với bạn bè cùng tuổi là sự 
xuất hiện những sắc thái mới trong quan hệ với bạn khác giới - những 
cảm xúc giới tính.. 
- Tự ý thức đã phát triển khiến các em nhanh chóng nhận thức được 
những đặc điểm giới tính của mình. Các em đã bắt đầu quan tâm lẫn 
nhau, ưa thích nhau, từ đó quan tâm đến vẻ bề ngoài của mình. 
- Ở các em gái thái độ quan tâm đến bạn thường thể hiện khá thụ động 
và kín đáo (làm dáng hơn trước chú ý đến hình thức của mình hơn), các 
em thường che dấu tình cảm của mình bằng cách tỏ vẻ thờ ơ, lãnh đạm 
với bạn trai. Các em trai thể hiện thái độ này một cách công khai, ngang 
nhiên, có khi thô bạo (giật tóc, dấu cặp). 
Lúc đầu sự quan tâm của các em trai có tính chất tản mạn và biểu hiện 
bằng phương thức đặc thù của trẻ con như xô đẩy, trêu chọc các em 
gáiCác em gái nhiều khi rất bực, không hài lòng về những hành vi 
như thế của các em trai và khi các em gái ý thức được thì không bực tức, 
giận dỗi các em trai. 
Về sau những quan hệ này được thay đổi, mất tính trực tiếp, xuất hiện 
tính ngượng ngùng, e thẹn, nhút nhát ở một số em điều đó được bộc lộ 
trực tiếp, còn một số khác thì được che đậy bằng thái độ thờ ơ giả tạo 
“khinh bỉ” đối với người khác giới. Hành vi này mang tính chất hai mặt: 
sự quan tâm đến nhau, với sự phân biệt nam nữ. 
Tuy hành vi bên ngoài có thể khác nhau nhưng các em đều có hiện 
tượng tâm lí giống nhau là các em chú ý nhiều đến bạn khác giới, mong 
bạn khác giới chú ý đến mình và ưa thích mình. 
- Trong tình bạn khác giới các em vừa hồn nhiên, vừa có vẻ “thận 
trọng”. “kín đáo”Nhìn chung, những xúc cảm của các em là trong 
sáng, là động lực thúc đẩy các em tự hoàn thiện mình. Nhưng không 
phải tất cả thiếu niên đều có những rung cảm như vậy. Một số em bị 
cuốn hút vào con đường “yêu đương”. Nhiều khi các em cũng không 
hiểu rõ tình cảm của mình và có ảnh hưởng nhất định đến kết quả học 
tập. Người làm công tác giáo dục cần phải thận trọng, tế nhị, khéo léo 
khi giải quyết vấn đề này. Cần hướng dẫn, uống nắn ch tình bạn giữa 
nam và nữ ở lứa tuổi này thật lành mạnh, trong sáng và nó động lực để 
giúp nhau trong học tập, trong tu dưỡng. Không nên can thiệp thô bạo, 
dùng các biện pháp bạo lực, áp đặt đối với các em 
c. Sự giao tiếp ở lứa tuổi học sinh trung học cơ sở là một loại hoạt động 
đặc biệt, mà nội dung của nó là xây dựng những quan hệ qua lại và 
những hành động trong quan hệ đó. Nhờ hoạt động giao tiếp mà các em 
nhận thức được người khác và bản thân mình đồng thời qua đó làm phát 
triển một số kĩ năng như kĩ năng so sánh, phân tích, khái quát hành vi 
của bản thân và của bạn, làm phong phú thêm những biểu tượng về nhân 
cách của bạn và của bản thân. 
Do đó, làm công tác giáo dục phải tạo điều kiện để các em giao tiếp với 
nhau, hướng dẫn và kiểm tra sự quan hệ của các em, tránh tình trạng 
ngăn cấm, hạn chế sự giao tiếp của lứa tuổi này. 
V. SỰ PHÁT TRIỂN NHÂN CÁCH Ở LỨA TUỔI HỌC SINH 
TRUNG HỌC CƠ SỞ 
1. Sự hình thành tự ý thức của học sinh trung học cơ sở 
Một trong những đặc điểm quan trọng của sự phát triển nhân cách ở lứa 
tuổi thiếu niên là sự hình thành tự ý thức 
- Do sự phát triển mạnh mẽ của cơ thể, đặc biệt do sự phát triển của các 
mối quan hệ xã hội và sự giao tiếp trong tập thể mà ở các em đã biểu 
hiện nhu cầu tự đánh giá nhu cầu so sánh mình với người khác. Các em 
đã bắt đầu xem xét mình, vạch cho mình một nhân cách tương lai, muốn 
hiểu biết mặt mạnh, mặt yếu trong nhân cách của mình. 
Mức độ tự ý thức của các em cũng có sự khác nhau. 
- Về nội dung, không phải tất cả những phẩm chất của nhân cách đều ý 
thức được hết. Ban đầu các em chỉ nhận thức hành vi của mình, sau đó 
là nhận thức những phẩm chất đạo đức, tính cách và nằng lực của mình 
trong những phạm vi khác nhau, cuối cùng các em mới nhận thức những 
phẩm chất phức tạp thể hiện nhiều mặt của nhân cách (tình cảm trách 
nhiệm, lòng tự trọng). 
- Về cách thức, ban đầu các em còn dựa vào đánh giá của những người 
gần gũi và có uy tín với mình. Dần dần các em hình thành khuynh 
hướng độc lập phân tích và đánh giá bản thân. Nhưng khả năng tự đánh 
giá của thiếu niên còn hạn chế, chưa đủ khách quanDo đó, nảy sinh 
những xung đột, mâu thuẫn giữa mức độ kì vọng của các em với địa vị 
thực tế của chúng trong tập thể; mâu thuẫn giữa thái độ của các em đối 
với bản thân, đối với những phẩm chất nhân cách của mình và thái độ 
của các em đối với người lớn, đối với bạn bè cùng lứa tuổi. 
Ý nghĩa quyết định nhất để phát triển tự ý thức ở lứa tuổi này cuộc sống 
tập thể của các em, nơi mà nhiều mối quan hệ giá trị đúng đắn, mối quan 
hệ này sẽ hình thành ở các em lòng tự tin vào sự tự đánh giá của mình, là 
những yêu cầu ngày càng cao đối với hành vi, hoạt động của các em 
cũng đồng thời giúp cho sự phát triển về mặc tự ý thức của các em. 
Việc nhận thức về mình còn thông qua việc đối chiếu so sánh mình với 
người khác. Nhưng khi đánh giá người khác, các em còn chủ quan, nông 
cạn, nhiều khi chỉ dựa vào một vài hình tuợng không rõ ràng các em đã 
vội kết luận hoặc chỉ chú ý vào một vài phẩm chất nào đó mà quy kết 
toàn bộ. Vì thế, người lớn rất dễ mà cũng rất khó gây uy tín với thiếu 
niên. Và khi đã có kết luận đánh giá về một người nào đó, các em 
thường có ấn tượng dai dẳng, sâu sắc. 
 - Sự phát triển tự ý thức của thiếu niên có ý nghĩa lớn lao ở chỗ, nó thúc 
đẩy các em bước vào một giai đoạn mới. Kể từ tuổi thiếu niên trở đi, khả 
năng tự giáo dục của các em được phát triển, các em không chỉ là khách 
thể của quá trình giáo dục mà còn đồng thời là chủ thể của quá trình này. 
Ở nhiều em, tự giáo dục còn chưa có hệ thống, chưa có kế hoạch, các em 
còn lúng túng trong việc lựa chọn biện pháp tự giáo dục. Vì vậy, nhà 
giáo dục cần tổ chức cuộc sống và hoạt động tập thể phong phú, hấp 
dẫn, lôi cuốn các em vào hoạt động chung của tập thể, tổ chức tốt mối 
quan hệ giữa người lớn và các em 
2. Sự hình thành đạo đức của học sinh trung học cơ sở 
Khi đến trường, trẻ được lĩnh hội chuẩn mực và quy tắc hành vi đạo đức 
một cách có hệ thống. 
Đến tuổi thiếu niên, do sự mở rộng quan hệ xã hội, do sự phát triển 
mạnh mẽ của tự ý thứcmà trình độ đạo đức của các em được phát triển 
mạnh. Sự hình thành ý thức đạo đức nói chung, sự lĩnh hội tiêu chuẩn 
của hành vi đạo đức nói riêng là đặc điểm tâm lí quan trọng trong lứa 
tuổi thiếu niên. 
Tuổi thiếu niên là lứa tuổi hình thành thế giới quan, lí tưởng, niềm tin 
đạo đức, những phán đoán giá trị 
Do tự ý thức và trí tuệ đã phát triển, hành vi của thiếu niên bắt đầu chịu 
sự chỉ đạo của những nguyên tắc riêng, những quan điểm riêng của thiếu 
niên. 
Nhân cách của thiếu niên được hình thành phụ thuộc vào việc thiếu niên 
có được kinh nghiệm đạo đức như thế nào thực hiện đạo đức nào ? 
Những nghiên cứu tâm lí học cho thấy trình độ nhận thức đạo đức của 
thiếu niên là cao. Thiếu niên hiểu rõ những khái niệm đạo đức vừa sức 
đối với chúng 
 Nhưng cũng có cả những kinh nghiệm và khái niệm đạo đức hình thành 
một cách tự phát ngoài sự hướng dẫn của giáo dục, do ảnh hưởng của 
những sự kiện trong sách, phim, bạn bè xấuDo vậy, các em có thể có 
những ngộ nhận hoặc hiểu phiến diện, không chính xác một số khái 
niệm đạo đức Trong công tác giáo dục cần chú ý giúp các em hiểu 
được khái niệm đạo đức một cách chính xác và tổ chức hành động để 
thiếu niên có được kinh nghiệm đạo đức đúng đắn 
3. Sự hình thành tình cảm của học sinh trung học cơ sở 
Tình cảm của học sinh trung học cơ sở sâu sắc và phức tạp hơn các em 
học sinh tiểu học. 
- Đặc điểm nổi bật ở lứa tuổi này là dễ xúc động, vui buồn chuyển hóa 
dễ dàng, tình cảm còn mang tính chất bồng bột, hăng sayĐiều này do 
ảnh hưởng của sự phát dục và thay đổi một số cơ quan nội tạng gây nên. 
Nhiều khi còn do hoạt động thần kinh không cân bằng, hưng phấn mạnh 
hơn ức chế đã làm cho các em không tự kiềm chế nổi. 
- Thiếu niên dễ có phản ứng mãnh liệt trước sự đánh giá, nhất là sự đánh 
giá thiếu công bằng của người lớn. 
- Tâm trạng của thiếu niên thay đổi nhanh chóng, thất thường, có lúc 
đang vui nhưng chỉ là một cớ gì đó lại sinh ra buồn ngay hoặc đang lúc 
bực mình nhưng gặp điều gì thích thú lại tươi cười ngay. Do đó, nên thái 
độ của các em đối với những người xung quanh cũng có nhiều mâu 
thuẫn. 
Rõ ràng, cách biểu hiện xuc cảm của thiếu niên mang tính chất độc đáo. 
Đó là tính bồng bột, sôi nổi dễ bị kích động và dễ thay đổi. 
*Kết luận : 
- Trong những giai đoạn phát triển của con người lứa tuổi thiếu niên có 
một ý nghĩa vô cùng quan trọng. Đay là thời kỳ phát triển phức tạp nhất, 
nhiều biến động nhất nhưng cũng là thời kỳ chuẩn bị quan trọng nhất 
cho những bước trưởng thành sau này. 
- Sự phát triển tâm lí của thiếu niên có chịu ảnh hưởng của thời kỳ phát 
dục. Nhưng cái ảnh hưởng quyết định nhất đối với sự phát triển tâm lý 
chính là những mối quan hệ xung quanh, đặc biệt là những mối quan hệ 
giữa thiếu niên và người lớn. 
- Đây là lứa tuổi của các em không còn là trẻ con nữa, nhưng chưa hẳn 
là người lớn. Ở lứa tuổi này các em cần được tôn trọng nhân cách, cần 
được phát huy tính độc lập nhưng cũng rất cần đến sự chăm sóc chu đáo 
và đối xử tế nhị. 
 Theo tamlyhoc.net 

File đính kèm:

  • pdftam_ly_hoc_tam_ly_lua_tuoi_hoc_sinh_thcs.pdf