Tài trợ cho chi trả tiền mặt đối với cổ đông các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)
Bài báo nhằm phân tích hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả cổ đông của các công ty
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006 –
2014, dựa trên khung phân tích của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Kết quả phân tích cho thấy
huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến. Xấp
xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, 78%
số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt. Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực
hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông
không thể đáp ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ
phiếu dùng để chi trả lại cho cổ đông. Trong cả giai đoạn, 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông được
tài trợ từ tiền huy động bên ngoài.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài trợ cho chi trả tiền mặt đối với cổ đông các công ty niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE)
81
Tài trợ cho chi trả . . .
TÀI TRỢ CHO CHI TRẢ TIỀN MẶT ĐỐI VỚI CỔ ĐÔNG CÁC
CÔNG TY NIÊM YẾT TRÊN SỞ GIAO DỊCH CHỨNG KHOÁN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (HOSE)
Tô Thị Thanh Trúc*, Trần Thanh Vũ**
TÓM TẮT
Bài báo nhằm phân tích hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả cổ đông của các công ty
niêm yết trên sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) trong giai đoạn 2006 –
2014, dựa trên khung phân tích của Farre-Mensa & các cộng sự (2015). Kết quả phân tích cho thấy
huy động vốn bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng năm là hiện tượng phổ biến. Xấp
xỉ 69% công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện hoạt động huy động vốn trong cùng năm, 78%
số công ty huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt. Hơn một nửa số công ty chi trả không thể thực
hiện chi trả tiền mặt nếu không huy động vốn bên ngoài. Mỗi năm có 40,7% số tiền trả cho cổ đông
không thể đáp ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong, 24,9% tiền thu được từ phát hành cổ
phiếu dùng để chi trả lại cho cổ đông. Trong cả giai đoạn, 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông được
tài trợ từ tiền huy động bên ngoài.
Từ khoá: chính sách cổ tức, huy động vốn, tài trợ
FINANCING PAYOUTS OF COMPANIES LISTED ON HOSE
ABSTRACT
The paper aims at investigating financing payouts of companies listed on HOSE over
the period of 2006-2014 based on the analysis framework of Farre-Mensa et al (2015). The
results showthat raising capital and paying payouts simultaneously is an unexpectedly common
phenomenon. Roughly 69% payout payers raise external capital in the same year, 78% issuers
engage in payingcash dividends or repurchasing stocks. Over a half of paying firms are unable to pay
without external financing. For a year, approximately 40,7% of aggregate payouts cannot be met by
internally generated cash flows, 24,9 % of aggregate stock issue proceeds are simultaneously paid
out by the same firms. Over the period, 44,6% of total payouts are financed with external sources.
Key words: dividend policy, capital raising, financing
* ThS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Luật, Đại học Quố gia Tp. Hồ Chí Minh
** TS. GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương
82
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
1. GIỚI THIỆU
Chi trả tiền mặt cho cổ đông của công ty
cổ phần bao gồm chia cổ tức tiền mặt và mua
lại cổ phiếu. Hoạt động sản xuất kinh doanh
trong một kỳ của công ty tạo ra dòng tiền từ
hoạt động, dòng tiền này sau khi sử dụng để
tái đầu tư, mở rộng hoạt động sản xuất kinh
doanh, phần còn lại gọi là dòng tiền tự do.
Dòng tiền tự do này công ty dùng để phân
phối lại cho các nhà đầu tư. Đối với cổ đông,
dòng tiền nhận được từ công ty bao gồm cổ
tức tiền mặt và tiền từ bán lại cổ phiếu của
chính công ty khi công ty mua lại.Theo Jensen
(1986), công ty có dòng tiền tự do dồi dào có
thể tăng cổ tức hoặc mua lại cổ phiếu nhằm
chi trả tiền mặt cho cổ đông. Về mặt lý thuyết,
công ty có thể tài trợ cho các khoản chi trả
tiền mặt cho cổ đông bằng vốn huy động từ
bên ngoài, thông qua vay nợ hoặc phát hành
cổ phiếu, nhưng việc này có thể được xem
là không kinh tế và không hiệu quả (Miller
& Rock, 1985). Một số lý thuyết hỗ trợ việc
công ty duy trì cổ tức và huy động tiền bên
ngoài để tài trợ cho đầu tư mới với lập luận
rằng việc này làm tăng giá trị công ty.
Nghiên cứu gần đây của Farre-Mensa &
các cộng sự (2015) thực hiện trên các công ty
niêm yết Mỹ trong giai đoạn 1989-2011cho
thấybình quân 32% tổng số tiền chi trả cho cổ
đông được huy động từ thị trường tài chính,
chủ yếu là từ nợ. Các công ty chi trả 39% số
tiền vay nợ ròng và 19% số tiền thu được từ
phát hành cổ phiếu. Hơn 42% công ty chi trả
cổ tức tham gia vào việc tài trợ cho cổ tức và
mua lại cổ phiếu như vậy.
Tại Việt Nam, cổ tức thường được nhìn
nhận như một bằng chứng về sự xác thực của
các khoản lợi nhuận được báo cáo. Thông
tin về các công ty niêm yết cho thấy hầu hết
thực hiện chi trả cổ tức cho cổ đông khi có lợi
nhuận. Thậm chí có những công ty đang rất
cần vốn cho các dự án mới vẫn thực hiện trả
cổ tức và cùng lúc đó phát hành cổ phiếu mới.
Như vậy, vấn đề đáng lưu tâm là công ty niêm
yết Việt Nam thường cố gắng chia cổ tức đều
đặn bất chấp việc công ty có thể đang rất cần
vốn cho các dự án mở rộng, và như vậy rất có
thể các công ty đã dùng các nguồn tiền huy
động bên ngoài để tài trợ cho các khoản chi
trả này.
Bài báo này nhằm đánh giá thực tế tài trợ
các khoản chi trả tiền mặt cho cổ đông của
các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh (HOSE).
Những vần đề bài báo sẽ làm sáng tỏ gồm:
Hoạt động chi trả cho cổ đông và huy động
vốn bên ngoài của các công ty trên sàn HOSE
trong giai đoạn 2006-2014; Mức độ cổ tức
được tài trợ từ tiền huy động bên ngoài và tiền
huy động từ bên ngoài dùng để tài trợ cho việc
chi trả cổ tức; Liệu các công ty có thể thực
hiện việc chi trả nếu không huy động tiền từ
bên ngoài.
2. TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ
CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Thực hiện việc chi trả cho cổ đông thường
được nhìn nhận là xuất phát từ mong muốn
trả về dòng tiền tự do cho cổ đông của công
ty (DeAngelo & các cộng sự, 2006). Miller &
Modigliani (1961, MM) cho rằng trong một
thị trường vốn hoàn hảo, chính sách chi trả
của một công ty không ảnh hưởng đến giá trị
của công ty đó, công ty có thể thực hiện bất
cứ mức chi trả nào mà họ muốn với một thay
đổi tương ứng ở số lượng cổ phiếu lưu hành.
Nghĩa là công ty có thể phát hành chứng
khoán mới để huy động tiền cho các dự án
đầu tư mới và chi trả cổ tức cho cổ đông bằng
toàn bộ lợi nhuận kiếm được hoặc dùng toàn
bộ lợi nhuận kiếm được tài trợ cho các đầu
83
Tài trợ cho chi trả . . .
tư mới và không chi trả cho cổ đông gì cả.
Tuy nhiên, các giả định về thị trường hoàn
hảo của MM không tồn tại trong thực tế nên
chính sách chi trả của công ty có tác động đến
giá trị cổ phiếu.
Chi phí phát hành chứng khoán mới, làm
cho việc tài trợ cho chi trả bằng tiền huy động
từ bên ngoài trở nên tốn kém, một số tác giả
cho rằng việc này là không hữu ích và không
kinh tế (Miller & Rock, 1985). Lý thuyết trật
tự phân hạng trong tài trợ cho rằng nguồn vốn
từ phát hành cổ phần mới nên được sử dụng
sau cùng, sau khi công ty đã sử dụng hết lợi
nhuận giữ lại và khả năng vay mượn, công ty
nên bắt đầu chia cổ tức khi tạo ra dòng tiền đủ
để tài trợ cho các nhu cầu đầu tư hiện tại và
tương lai, và khuyến cáo các nhà quản lý nên
duy trì mức cổ tức thấp để tránh việc dùng
nguồn tài trợ bên ngoài đắt đỏ trong tương lai
(Ross, Westfield, Jaffe &Jordon, 2008).
Lý thuyết phát tín hiệu, được phát triển
bởi Bhattacharya (1979), Miller & Rock
(1985)John & William (1985) và một số tác
giả khác, dựa trên bất cân xứng thông tin giữa
những người tham gia thị trường và giữa các
nhà quản lý với các nhà đầu tư. Họ cho rằng
nhà quản lý sử dụng thay đổi trong tỷ lệ chi
trả cổ tức tiền mặt để truyền tải những thông
tin và kỳ vọng về lợi nhuận và hoạt động
của công ty đến thị trường nhằm giảm thiểu
chênh lệch thông tin, nhờ đó tác động đến giá
cổ phiếu. Nhà đầu tư sẽ dựa vào việc chi trả
cổ tức để đánh giá tình hình tài chính hiện tại
và triển vọng hoạt động tương lai của công
ty. Công ty sẽ tăng cổ tức chi trả một khi tin
tưởng rằng trong tương lai công ty có thể đạt
được lợi nhuận và dòng tiền tốt hơn. Điều có
thể rút ra về lý thuyết phát tín hiệu là các công
ty sẽ duy trì cổ tức để tạo sự tin tưởng cho nhà
đầu tư, khi cần vốn tài trợ cho các dự án mới
công ty có thể vay nợ, một khi tin tưởng rằng
các dự án tương lai mang lại kết quả tốt, công
ty sẽ tăng cổ tức để phát đi thông điệp này đến
nhà đầu tư.
Lý thuyết đại diện, giả định rằng các nhà
quản lý không phải luôn hành động theo lợi
ích của cổ đông là tối đa hóa giá trị cổ phiếu,
rất nhiều nhà quản lý tập trung vào việc đạt
được các lợi ích cá nhân. Theo Jensen (1986),
khi lợi nhuận giữ lại cao các nhà quản lý công
ty có xu hướng đầu tư vào những dự án xấu.
Cổ tức làm giảm dòng tiền tự do mà ban quản
lý có thể tùy nghi sử dụng và do đó kiểm soát
được vấn đề đầu tư quá mức không hiệu quả.
Theo Easterbrook (1984), cổ tức được sử
dụng để lấy dòng tiền tự do khỏi sự kiểm soát
của ban quản lý và trả về cho cổ đông, công
ty sẽ phải tiếp cận thị trường vốn để huy động
vốn tài trợ cho các dự án mới. Điều này áp đặt
kỷ luật cho ban quản lý, vì khi huy động vốn
bên ngoài công ty phải chịu sự giám sát của
thị trường, làm giảm chi phí đại diện và làm
tăng giá trị của công ty.
Lý thuyết chính sách cổ tức theo chu kỳ
sống của doanh nghiệp, được trình bày trong
nghiên cứu của DeAngelo& các cộng sự
(2006) cho rằng những công ty trưởng thành
ít có nhiều cơ hội tăng trưởng sẽ phân phối
dòng tiền dư thừa cho cổ đông, trong khi các
công ty trẻ đang tăng trưởng hạn chế chi trả cổ
tức và không mua lại cổ phiếu.
Như vậy, các lý thuyết trật tự phân hạng
trong tài trợ, chính sách cổ tức theo vòng đời
và chi phí giao dịch không ủng hộ và thừa
nhận việc các công ty huy động tiền bên ngoài
để tài trợ cho cổ tức trong khi đó theo lý thuyết
phát tín hiệu và lý thuyết đại diện thì công ty
có thể và nên huy động tiền bên ngoài trong
trường hợp cần thiết để duy trì cổ tức cho cổ
đông và áp đặt kỷ luật lên các nhà quản lý.
84
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
3. SỐ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP
NGHIÊN CỨU
Mẫu nghiên cứu là các công ty niêm yết
trên sàn giao dịch chứng khoán Tp HCM
(HOSE), số liệu được thu thập cho giai đoạn
từ 2006 - 2014. Dữ liệu được thu thập từ bản
cáo bạch và báo cáo thường niên của các công
ty niêm yết, trên trang Web của HOSE và của
các công ty. Khi thu thập thông tin của các
công ty niêm yết, chúng tôi tập hợp cả những
thông tin tài chính của hai năm trước khi công
ty niêm yết, được công bố trong bản cáo bạch
của công ty, do đó số công ty phân tích ở mỗi
năm có thể nhiều hơn số công ty thực tế niêm
yết trên HOSE trong năm đó. Các công ty
tài chính (ngân hàng, bảo hiểm) được loại ra
khỏi mẫu nghiên cứu vì bản chất hoạt động
và các quy định quản lý của các công ty này
khác biệt với các công ty sản xuất kinh doanh
thông thường.
Thông tin về chi trả tiền mặt cho cổ đông
và huy động vốn được lấy từ báo cáo lưu
chuyển tiền tệ. Công ty được xem là có chia
cổ tức và mua lại cổ phiếu nếu dòng tiền từ
hai mục này âm.Công ty được xem là có phát
hành cổ phiếu nếu dòng tiền thu được từ phát
hành cổ phiếu dương, có huy động thêm vốn
từ vay nợ trong kỳ nếu chênh lệch giữa tiền
thu từ đi vay với tiền chi trả các khoản nợ
gốc dương, chênh lệch này được gọi là vay
nợ ròng.
Để trả lời các câu hỏi nghiên cứu, số liệu
được tổng hợp, thống kê, phân tích theo xu
hướng và tỷ số. Do có nhiều nội dung phân
tích khác nhau, cách tính toán các chỉ tiêu cần
thiết để phân tích được giải thích chi tiết trong
mỗi phần kết quả nghiên cứu. Bài báo này dựa
trên khung phân tích về tài trợ cho chi trả của
các công ty Mỹ, giai đoạn 1989-2011 của
Farre-Mensa & các cộng sự (2015).
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1. Tình hình chi trả cho cổ đông
Hình 1 thể hiện diễn biến số lượng công ty
phi tài chính niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán TP HCM (HOSE) được đưa vào phân
tích và số công ty có chi trả tiền mặt cho cổ
đông. Phân tích cho thấy bình quân 75% số
công ty niêm yết chi trả tiền mặt cho cổ đông,
chủ yếu là thông qua cổ tức tiền mặt với tỷ lệ
71,5%, bình quân chỉ có 17% công ty mua lại
cổ phiếu.
Hình 1: Thống kê số lượng công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (công ty)
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
85
Tài trợ cho chi trả . . .
Hình 2: Tỷ lệ công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông (% của công ty phi tài chính niêm yết trên HOSE)
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
Hình 3: Tổng số tiền chi trả cho cổ đông (ngàn tỷ đồng)
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
Tổng số tiền các công ty chi trả cho cổ
đông tăng lên đều đặn qua các năm, trong đó
chủ yếu là cổ tức tiền mặt, bình quân chiếm
89,5% tổng số tiền chi trả. Mức chi trả cổ tức
tiền mặt cao nhất vào năm 2014, đạt mức 30,4
ngàn tỷ đồng. Số tiền các công ty chi ra để
mua lại cổ phiếu không đáng kể trong tổng
tiền chi cho cổ đông, bình quân xấp xỉ hai
ngàn tỷ đồng mỗi năm, năm cao nhất là năm
2013 đạt con số 6.618 tỷ đồng. Xét trong mối
tương quan giữa số lượng công ty niêm yết
và số tiền chi trả cổ tức thì dường như các
86
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
công ty ngày càng chia cổ tức tiền mặt nhiều
hơn. Dù số lượng công ty niêm yết năm 2007
không thấp hơn đáng kể so với năm 2014
nhưng số tiền các công ty chi trả cổ tức tiền
mặt chỉ đạt mức 4.000 tỷ đồng, thấp hơn rất
nhiều so với 30.000 tỷ đồng của năm 2014.
Năm 2008, thị trường chứng khoán Việt Nam
sụt giảm nghiêm trọng (VN Index cuối năm
2008 chỉ 315 điểm), cũng là năm mà hoạt
động mua lại cổ phiếu khá ấn tượng với tổng
số tiền chi mua lại cổ phiếu đạt 3.000 tỷ đồng.
Cũng trong năm này, nhà đầu tư được bù đắp
phần nào trong lỗ vốn do giá cổ phiếu giảm
bằng tiền cổ tức nhận được với tổng giá trị
xấp xỉ 11.000 tỷ đồng, gấp đôi mức năm 2007.
Ngoại trừ năm 2009, tổng tiền trả cổ tức tăng
lên đều đặn với tỷ lệ tăng bình quân mỗi năm
trong giai đoạn 2008-2014 là 23%.
4.2. Hoạt động huy động vốn
A. Số lượng công ty
B. Tổng số tiền huy động (tỷ đồng)
Hình 4: Hoạt động huy động vốn của các công ty niêm yết trên HOSE giai đoạn 2006-2014
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
Ghi chú: Tiền huy động từ phát hành nợ là tổng vay nợ ròng của các công ty trong năm, vay
nợ ròng bằng chênh lệch dương giữa dòng tiền thu được từ đi vay với dòng tiền chi trả nợ vay,
nếu chênh lệch âm công ty được xem là không vay thêm nợ.
87
Tài trợ cho chi trả . . .
Hình 4 cho thấy diễn biến hoạt động huy
động vốn của các công ty niêm yết trên sàn
HOSE trong giai đoạn từ 2006-2014. Tổng
huy động vốn của các công ty diễn biến theo
chu kỳ kinh tế và diễn biến của thị trường
chứng khoán Việt Nam, đạt mức thấp và giảm
mạnh trong các năm 2008 và 2012, trong khi
đó tăng mạnh và đạt mức cao trong các năm
2007, 2014. Dữ liệu cho thấy bình quân 86%
số công ty niêm yết huy động vốn bên ngoài
mỗi năm, trong đó phát hành cổ phiếu 36,6%
và vay nợ là 49,4%, hơn 66% tổng vốn huy
động bên ngoài là từ nợ. Vay nợ ròng của các
công ty đạt mức cao nhất vào năm 2009 với
tổng số tiền huy động vượt 43.000 tỷ đồng,
hơn 62% số công ty niêm yết thực hiện việc
vay nợ. Tỷ lệ công ty phát hành cổ phiếu và số
tiền thu được từ phát hành cổ phiếu đạt mức
cao nhất vào năm 2007 với các con số tương
tứng là gần 65% và 40.500 tỷ đồng. Tổng số
tiền chi trả cho cổ đông trong suốt giai đoạn
phân tích xấp xỉ một nửa tổng số tiền huy
động từ bên ngoài và ổn định hơn.
4.3. Vừa chi trả cho cổ đông vừa huy
động vốn từ bên ngoài
Trong phần này chúng tôi xem xét mức độ
phổ biến của việc vừa huy động vốn bên ngoài
vừa chi trả tiền mặt cho cổ đông trong cùng
một năm tài chính của các công ty. Chúng tôi
nghiên cứu ... trả cổ tức (DP),
min{DP, SI}; số nhỏ hơn của số tiền chi trả
cho cổ đông (TP) và số tiền thu từ phát hành
cổ phiếu (SI), min{TP, SI}; số nhỏ hơn của số
tiền trả chi cổ đông (TP) và số tiền thu từ huy
động vốn gồm phát hành cổ phiếu (SI) và vay
nợ ròng (ND), min{TP, (SI + ND)}.
- Tiếp theo, chúng tôi tính theo từng năm
các tỷ lệ:
Trong đó: (1) RDP/SI
t
cho biết bao nhiêu
phần trăm số tiền thu từ phát hành cổ phiếu
dùng để trả cổ tức ngay trong năm đó của
cùng một công ty, (2) RTP/SI
t
cho biết bao nhiêu
phần trăm trong số tiền thu từ phát hành cổ
phiếu dùng để chi trả cho cổ đông của cùng
công ty trong cùng năm, (3) RTP/(SI+ND)
t
cho biết
bao nhiêu phần trăm tổng số tiền huy động
từ bên ngoài dùng để chi trả cho cổ đông của
cùng công ty trong cùng năm, (4) RSI/TP
t
cho
biết bao nhiêu phần trăm trong tổng tiền chi
trả cho cổ đông được tài trợ từ tiền thu từ phát
hành cổ phiếu của cùng một công ty trong
cùng năm; (5) R(SI +ND)/TP
t
cho biết bao nhiêu
phần trăm tổng số tiền chi trả cho cổ đông
được tài trợ từ tiền huy động vốn bên ngoài
của cùng một công ty trong cùng năm.
Bảng 2: Tỷ lệ tiền trả cổ đông được tài trợ bên ngoài và tỷ lệ tiền huy động dùng trả cổ đông
% tiền thu
được từ phát
hành cổ
phiếu dùng
trả cổ tức
% tiền thu từ
phát hành cổ
phiếu dùng
chi trả cho
cổ đông
% tiền huy
động bên
ngoài dùng
để chi trả
cho cổ đông
% tiền chi
trả cổ đông
được tài trợ
từ phát hành
cổ phiếu
% tiền chi trả
cho cổ đông
được tài trợ từ
tiền huy động
bên ngoài
Năm
Min {DP,
SI} /SI
Min{TP,SI}/
SI
Min {TP, (SI
+ND)}/(SI +ND)
Min {TP,
SI} /TP
Min {TP, (SI
+ND)}/TP
(1) (2) (3) (4) (5)
2006 11,7% 13,4% 11,1% 24,0% 39,3%
2007 5,4% 7,7% 6,7% 64,7% 74,6%
2008 19,9% 28,4% 18,1% 23,8% 54,9%
2009 13,5% 17,5% 9,2% 17,1% 50,6%
2010 11,5% 16,1% 12,9% 23,6% 55,1%
2011 15,8% 16,9% 20,9% 10,0% 51,1%
2012 26,7% 45,1% 14,7% 9,5% 24,8%
2013 14,1% 53,2% 23,6% 31,3% 45,8%
2014 23,4% 25,8% 18,5% 17,3% 38,4%
Tất cả các năm 13,4% 21,5% 15,5% 20,6% 44,6%
Trung bình các năm 15,8% 24,9% 15,1% 24,6% 48,3%
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
90
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Ghi chú:
DP: Tiền chi trả cổ tức
TP: Tổng tiền chi trả cho cổ đông = Tiền
chi trả cổ tức + Tiền chi mua lại cổ phiếu
SI: Tiền thu được từ phát hành cổ phiếu
NP: Vay nợ ròng trong năm = max{(Tiền
thu từ đi vay – Tiền chi trả nợ gốc các khoản
vay),0}
Bảng 2 cho thấy, trong cả giai đoạn, xấp
xỉ 21,5% tiền thu từ phát hành cổ phiếu dùng
để chi trả cho cổ đông, trong đó dùng để trả
cổ tức gần 13,4%. Trong tổng tiền thu được
từ huy động vốn bên ngoài thì 15,5% dùng
để mua lại cổ phiếu và chia cổ tức. Bình quân
24,9% tiền thu được từ phát hành cổ phiếu
mỗi năm dùng trả lại cho cổ đông, trong đó trả
cổ tức 15,8%, và xấp xỉ 15,1% tiền thu được
từ huy động vốn bên ngoài mỗi năm dùng trả
lại cho cổ đông ngay trong năm đó. Trong
cả giai đoạn phân tích, 44,6% tiền trả cho cổ
đông được tài trợ từ vốn huy động bên ngoài,
20,6% được tài trợ từ phát hành cổ phiếu.
Bình quân 48,3% tiền trả cho cổ đông mỗi
năm là từ huy động vốn, trong đó từ phát hành
cổ phiếu là 24,6%. Tỷ lệ tiền thu từ phát hành
cổ phiếu dùng chi trả cho cổ đông cao nhất ở
năm 2013, 53,2%, mặc dù phần trả cổ tức tiền
mặt chỉ 14,1%, đây là năm mà hoạt động mua
lại cổ phiếu diễn ra mạnh mẽ nhất với số tiền
mua lại cổ phiếu đạt mức 7.000 tỷ đồng.
Hoạt động huy động vốn và chi trả cho
cổ đông của năm 2007 hoàn toàn tương phản
với các hoạt động này của năm 2012. Năm
2007 hoạt động huy động vốn diễn ra mạnh
mẽ so với chi trả cổ tức tiền mặt, tiền mặt trả
cho cổ đông chiếm một tỷ lệ nhỏ (5,4%) trong
tổng tiền huy động từ bên ngoài, thấp nhất
giai đoạn và phần lớn được tài trợ từ tiền huy
động bên ngoài (74,6%).Tình hình năm 2012
hoàn toàn ngược lại, 26,7% tiền huy động vốn
dùng trả cho cổ đông và chỉ 24,8% tiền trả cổ
đông được tài trợ từ vốn huy động bên ngoài.
So với kết quả nghiên cứu năm 2015 của
Joan Farre-Mensa và các cộng sự trên thị
trường Mỹ giai đoạn từ 1989 đến 2011, thị
trường Việt Nam có mức độ tài trợ cho chi
trả cổ đông bằng vốn huy động bên ngoài cao
hơn và tỷ lệ vốn huy động bên ngoài dùng
trả cho cổ đông lại thấp hơn (trong nghiên
cứu của Joan Farre-Mensa và Roni Michaely
(2015), 32% tiền trả cho cổ đông được tài trợ
từ huy động vốn bên ngoài và 39% tiền huy
động bên ngoài dùng để trả cho cổ đông).
4.4. Chênh lệch giữa tiền chi cho cổ đông
và dòng tiền tự do
Để đánh giá xem các công ty có thể thực
hiện chi trả nếu không huy động thêm vốn từ
bên ngoài, trong phần này, chúng tôi phân tích
chênh lệch giữa số tiền chi trả cho cổ đông và
dòng tiền tự do của công ty, Payout gap, dựa
theo cách phân tích của Joan Farre-Mensa &
các cộng sự (2015).
Payout gap được xác định theo công
thức sau:
Payout gap = Min (Total Payout, Max
(Total payout – (FCF + Cash reserve, 0).
Trong đó:
- Total payout: tổng tiền chi trả cho cổ
đông trong kỳ gồm tiền chi trả cổ tức tiền mặt
và tiền chi mua lại cổ phiếu. Các số liệu này
được lấy từ báo cáo lưu chuyển tiền.
- FCF: Dòng tiền tự do, được tính bằng
cách cộng dòng tiền ròng từ hoạt động kinh
doanh với dòng tiền ròng từ hoạt động đầu
tư. Các số liệu này được lấy từ báo cáo lưu
chuyển tiền.
- Cash reserve: Trị tuyệt đối của dòng tiền
ròng trong kỳ nếu dòng tiền này âm (hoặc
chênh lệch âm số dư tiền mặt cuối kỳ so với
đầu kỳ), nếu dòng tiền ròng trong kỳ lớn hơn
91
Tài trợ cho chi trả . . .
0 (chênh lệch số dư tiền mặt cuối kỳ so với
đầu kỳ dương) thì Cash reserve bằng 0.
Với ý nghĩa nguồn tiền chi trả cho cổ đông
gồm dòng tiền tự do FCF, là phần còn lại của
dòng tiền được tạo ra từ hoạt động kinh doanh
sau khi sử dụng để tài trợ cho các đầu tư cần
thiết trong kỳ, và tiền có sẵn đầu kỳ. Việc sử
dụng tiền có sẵn ở đầu kỳ sẽ làm giảm dự trữ
tiền mặt, giảm trong dự trữ tiền mặt thể hiện
ở dòng tiền thuần trong kỳ trên báo cáo lưu
chuyển tiền âm.
Chênh lệch giữa Tổng tiền chi trả cho
cổ đông (Total payout) với nguồn tiền để trả
cho cổ đông là Payout gap. Trong công thức
còn thêm các ràng buộc Max và Min vì các
lý do sau:
- Ràng buộc Max: Nếu tổng tiền chi trả
(Total payout) nhỏ hơn tổng của dòng tiền tự
do (FCF) và tiền mặt lấy từ tiền mặt sẵn có
(Cash reserve), khi đó Total payout – (FCF +
Cash reserve) <0, công ty không bị thiếu tiền
chi trả nên Payout gap = 0. Nếu tổng dòng
tiền tự do trong kỳ và tiền mặt lấy từ tiền mặt
có sẵn nhỏ hơn tổng tiền chi trả cho cổ đông
thì tiền từ bên trong không đủ chi trả, công ty
phải tài trợ cho một phần chi trả bằng tiền từ
bên ngoài, phần thiếu hụt chính là chênh lệch
giữa tổng tiền chi ra và tổng nguồn có sẵn để
chi (Total payout – [FCF + Cash reserve]).
- Ràng buộc Min: Trong trường hợp FCF
âm, dòng tiền tạo ra từ hoạt động kinh doanh
không đủ để chi cho hoạt động đầu tư, về mặt
toán học có thể xảy ra tình huống (Total payout
- (FCF + Cash reserve)) > Total payout. Nên
cần có ràng buộc Min để Payout gap chỉ tối đa
bằng Total payout.
Bảng 3: Thống kê Payout gap
Số công ty PG/TP
PG/Tiền huy động từ
bên ngoài
Năm
%
công
ty
phân
tích có
PG >0
%
công ty
chi trả
cho cổ
đông
có
PG>0
%
công ty
chi trả
cho cổ
đông
có
PG=TP
% công
ty PG
>0 có
PG=TP
Trung
bình của
PG/TP
của các
công ty
có PG
>0
Trung
bình của
PG/TP
của các
công
ty có
PG<TP
Tổng
PG/
Tổng
TP
Tổng
PG/
Tổng
tiền huy
động
vốn
của các
công ty
Trung
bình của
PG/ Tổng
tiền huy
động vốn
của các
công ty
có PG >0
1 2 3 4 5 6 7 8 9
2006 35,3% 58,7% 45,2% 77,0% 92% 48,0% 29,5% 8,4% 24,6%
2007 44,7% 73,9% 70,6% 95,6% 97% 36,0% 72,4% 6,5% 14,6%
2008 48,9% 61,4% 45,5% 74,1% 88% 51,0% 49,6% 16,3% 33,9%
2009 44,5% 56,1% 47,5% 84,8% 91% 37,0% 42,6% 7,8% 26,4%
2010 57,4% 69,7% 61,5% 88,3% 95% 61,0% 52,1% 12,2% 22,8%
2011 46,9% 56,3% 42,9% 76,3% 87% 44,0% 26,8% 10,9% 34,7%
2012 33,3% 42,9% 29,2% 68,0% 83% 43,0% 19,2% 11,4% 40,5%
2013 36,1% 48,2% 36,7% 76,2% 88% 50,0% 41,5% 21,4% 39,4%
2014 31,9% 43,6% 30,3% 69,6% 84% 42,0% 33,0% 15,9% 45,2%
Trung
bình 42,1% 56,7% 45,5% 78,9% 89% 45,8% 40,7% 12,3% 31,3%
Nguồn: Tổng hợp, xử lý của tác giả từ BCTC của các công ty niêm yết và dữ liệu của HOSE
92
Tạp chí Kinh tế - Kỹ thuật
Ghi chú:
PG (Payout gap) = Min{Total Payout,
Max((Total payout - (FCF + Cash reserve)), 0)}.
TP: Tổng tiền chi trả cho cổ đông = Tiền
chi trả cổ tức + Tiền chi mua lại cổ phiếu
Tổng tiền huy động từ bên ngoài = tiền
thu được từ phát hành cổ phiếu + max{(tiền
thu được từ các khoản đi vay – tiền chi trả nợ
gốc các khoản vay),0}
(1) Số công ty có PG>0/Số công ty
phân tích
(2) Số công ty có PG>0/Số công ty chi trả
tiền mặt cho cổ đông
(3) Số công ty có PG=TP/Số công ty chi
trả tiền mặt chi cổ đông
(4) Số công ty có PG=TP/Số công ty có
PG >0
(5) Trung bình của tỷ lệ PG/TP của các
công ty có PG > 0
(6) Trung bình của tỷ lệ PG/TP của các
công ty có PG < TP
(7) Tổng số tiền Payout gap/Tổng tiền chi
cho cổ đông
(8) Tổng số tiền Payout gap/Tổng tiền thu
từ huy động vốn
(9) Trung bình của Payout gap/Tổng tiền huy
động vốn của các công ty có Payout gap >0.
Bảng 3 thể hiện tình hình số lượng công
ty có Payout gap (dòng tiền tự do không đủ
để chi trả cho cổ đông), cần tài trợ bên ngoài
và mức độ tài trợ bên ngoài cần thiết. Cột 1
và cột 2 cho thấy, trung bình mỗi năm, 42,1%
số công ty niêm yết, chiếm 56,7% số công ty
chi trả tiền mặt cho cổ đông cần tài trợ từ bên
ngoài. Cột 3 cho thấy 45,5% số công ty chi
trả cho cổ đông dựa hoàn toàn vào nguồn tài
trợ bên ngoài, tính trong số các công ty cần
nguồn tài trợ bên ngoài thì các công ty này
chiếm 78,9%. Năm mà tỷ lệ công ty cần tài
trợ bên ngoài trong số các công ty chi trả cho
cổ đông cao nhất là năm 2007 với 73,9% công
ty chi trả cần tài trợ, trong đó 70,6% cần tài
trợ hoàn toàn cho khoản chi trả. Trung bình
tỷ lệ PG
it
/TP
it
của các công ty có Payout gap
là 89%, một con số khá cao, nghĩa là một khi
các công ty thiếu hụt dòng tiền tự do để chi trả
thì phần thiếu hụt này rất lớn. Tính trên tổng
của các công ty ở từng năm, tỷ lệ ∑PG
it
/∑TP
it
cũng khá cao, trung bình 40,7%, năm có tỷ
lệ này cao nhất là năm 2007 với tỷ lệ 72,4%.
Trung bình hàng năm, tổng Payout gap cần tài
trợ của các công ty bằng 12,3% vốn huy động
của tất cả các công ty phân tích, và 31,3%
số vốn huy động của các công ty có Payout
gap. Năm có trung bình của tỷ lệ PG/Vốn huy
động lớn nhất là năm 2012, 40,5% và năm có
tỷ lệ này nhỏ nhất là năm 2007, 14,6%.
5. KẾT LUẬN
Phân tích hoạt động tài trợ cùng với chi trả
cho cổ đông của các công ty trên sàn HOSE
trong giai đoạn từ 2006 – 2014 nổi lên những
điểm nổi bật: Số lượng công ty thực hiện chi
trả tiền mặt cho cổ đông hàng năm khá cao,
xấp xỉ 75% số công ty phân tích; huy động vốn
bên ngoài và chi trả tiền mặt cho cổ đông trong
cùng năm là hiện tượng phổ biến, xấp xỉ 69%
công ty chi trả tiền mặt cho cổ đông thực hiện
hoạt động huy động vốn trong cùng năm, trong
đó phát hành cổ phiếu là 40%; 78% số công ty
huy động vốn đồng thời chi trả tiền mặt,80%
số công ty phát hành thêm cổ phiếu đồng thời
thực hiện chi trả cổ tức.Hơn một nửa số công
ty chi trả không thể thực hiện chi trả tiền mặt
nếu không huy động vốn bên ngoài (56,7%),
trong đó có 45,5% công ty tài trợ cho chi trả
hoàn toàn từ nguồn vốn bên ngoài.Tính trong
cả giai đoạn, tiền huy động bên ngoài tài trợ
cho 44,6% số tiền chi trả cho cổ đông, trong đó
tiền từ phát hành cổ phiếu là 20,6%. Mỗi năm
có 40,7% số tiền trả cho cổ đông không thể đáp
93
Tài trợ cho chi trả . . .
ứng bằng nguồn tiền được tạo ra từ bên trong,
24,9% tiền thu được từ phát hành cổ phiếu
dùng để chi trả cho cổ đông.
Có thể giải thích các kết quả này dựa trên
đặc điểm của thị trường Việt Nam, đó là còn
tồn tại bất cân xứng thông tin và vấn đề đại
diện khá nghiêm trọng. Các cổ đông sẽ không
tin tưởng lợi nhuận báo cáo nếu cổ tức không
được chi trả. Cổ đông cũng nhận biết được
khả năng đầu tư quá mức và lãng phí của công
ty nếu ban quản lý có sẵn dòng tiền tự do dồi
dào. Hơn nữa, nhà đầu tư cá nhân thường
trông đợi cổ tức như là một khoản đền đáp
cho việc đầu tư của họ. Tất cả những điều này
làm buộc các công ty cố gắng chi trả cổ tức
đều đặn cho cổ đông một khi có lợi nhuận dù
đa phần các công ty niêm yết Việt Nam đang
trong giai đoạn tăng trưởng và rất cần vốn cho
các đầu tư mới. Các công ty chấp nhận chi phí
vốn cao của nguồn tài trợ bên ngoài để đổi lấy
niềm tin và sự hài lòng của cổ đông. Lý thuyết
chi phí giao dịch, trật tự phân hạng và vòng
đời doanh nghiệp dường như không đúng ở
thị trường Việt Nam.
Bài báo đã cung cấp một bức tranh chi
tiết về hoạt động chi trả tiền mặt cho cổ đông
của các công ty niêm yết trên HOSE giai đoạn
2006-2014 và các nguồn tài trợ cũng như
hoạt động tài trợ cho các khoản chi trả này,
thông qua đó kiểm định các lý thuyết tài chính
doanh nghiệp tại thị trường Việt Nam. Tuy
nhiên, nghiên cứu chưa làm rõ được những
loại công ty nào thường xuyên thiếu hụt dòng
tiền tự do để chi trả cho cổ đông do đó không
thể trả cổ tức nếu không huy động vốn từ bên
ngoài. Một hạn chế nữa là tuy bài báo đã có
những phỏng đoán về lý do của hiện tượng
vừa trả cổ tức vừa huy động vốn của các công
ty, dựa vào đặc điểm của thị trường Việt Nam
mà nhóm tác giả nhận thấy, nhưng chưa kiểm
định được bằng dữ liệu tài chính động cơ thực
sự của các công ty. Đây là những điểm hạn
chế của bài báo và có thể là vấn đề cho những
nghiên cứu tiếp theo.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. Bhattacharya, S. (1979). Imperfect information, dividend policy, and the ‘bird in the hand’ fallacy.
Bell Journal of Economics and ManagementScience, 10, 259–270.
[2]. DeAngelo, H., DeAngelo, L., & Stulz, R.M. (2006). Dividend policy and the earned/contributed
capital mix: a test of the life-cycle theory. Journal of Financial Economics, 81, 227–254.
[3]. Easterbrook, F.H. (1984). Two Agency-Cost Explanations of Dividends. The American Economic
Review, 74 (4), 650-659.
[4]. Farre-Mensa, J., Michaely, R. & Schmalz, M. (2015). Financing payouts. Harvard Business School
working paper.
[5]. Jensen, M. C. (1986). Agency Costs of Free Cash Flow, Corporate Finance, and Takeovers. American
Economic Review, 76(2), 323-329.
[6]. Miller, M.H. & Modigliani, F. (1961). Dividend policy, growth, and the valuation of Shares. The
Journal of Business, 34 (4), 411- 433.
[7]. Miller, M. H. & Rock, K. (1985). Dividend Policy under Asymmetric Information. The Journal of
Finance, 40 (4), 1031-1051.
[8]. Ross, S. A., Westerfield, R. W., Jaffe, J. F. & Jordon, B. D. (2008). Capital Structure: Limits to the
use of debt. Mordern Financial Management (p.p 472 -474), eighth Edition, Mc Graw – Hill, 472
- 474.
[9]. William, P. L., John, S. J. Jr. & Daniel, E. P. (1985). Agency Costs and Dividend Payout Ratios.
Quarterly Journal of business and Economics, 24.3, 19-29.
File đính kèm:
tai_tro_cho_chi_tra_tien_mat_doi_voi_co_dong_cac_cong_ty_nie.pdf

