Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh
Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh
a. Khái niệm tư tưởng
- Nghĩa phổ quát: tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh.
Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và chỉ đạo lại hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực.
- Nhà tư tưởng: là người biết giải quyết tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát.
b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và TT Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động.
“Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc”.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001): “TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về ”
Trong định nghĩa này, Đảng đã bước đầu làm rõ:
+ Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
+ Hai là, nguồn gốc tư tưởng, lý luận của TT Hồ Chí Minh.
+ Ba là, nội dung cơ bản nhất của TT Hồ Chí Minh.
+ Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của TT Hồ Chí Minh.
Dựa trên định hướng này, các nhà khoa học đưa ra định nghĩa:
“TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”.
Hiện nay, tồn tại 2 phương thức tiếp cận TT Hồ Chí Minh:
• Một là, TT Hồ Chí Minh như một hệ thống tri thức tổng hợp.
• Hai là, TT Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam.
Ở đây, vận dụng cách tiếp cận thứ hai để nghiên cứu TT Hồ Chí Minh.
Là một hệ thống lý luận, TT Hồ Chí Minh có cấu trúc logic chặt chẽ, có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phong giai cấp và giải phóng con người.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài liệu Tư tưởng Hồ Chí Minh
TÀI LIỆU TÓM LƯỢC SỬ DỤNG KẾT HỢP VỚI GIÁO TRÌNH TTHCM CỦA BỘ GD & ĐT - 2009 CHƯƠNG MỞ ĐẦU ĐỐI TƯỢNG, PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ Ý NGHĨA HỌC TẬP MÔN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 1. Khái niệm tư tưởng và tư tưởng Hồ Chí Minh a. Khái niệm tư tưởng - Nghĩa phổ quát: tư tưởng là sự phản ánh hiện thực trong ý thức, là biểu hiện quan hệ của con người với thế giới xung quanh. Trong thuật ngữ “tư tưởng Hồ Chí Minh”, khái niệm tư tưởng có ý nghĩa ở tầm khái quát triết học. Nghĩa là một hệ thống những quan điểm, quan niệm, luận điểm được xây dựng trên một nền tảng triết học nhất quán, đại biểu cho ý chí, nguyện vọng của một giai cấp, một dân tộc, hình thành trên cơ sở thực tiễn nhất định và chỉ đạo lại hoạt động thực tiễn, cải tạo hiện thực. - Nhà tư tưởng: là người biết giải quyết tất cả những vấn đề chính trị - sách lược, các vấn đề về tổ chức, về những yếu tố vật chất của phong trào không phải một cách tự phát. b. Khái niệm tư tưởng Hồ Chí Minh - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (6/1991): Đảng lấy chủ nghĩa Mác – Lênin và TT Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động. “Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin trong điều kiện cụ thể của nước ta, và trong thực tế, tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành một tài sản tinh thần quý báu của Đảng và của cả dân tộc”. - Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001): “TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Đó là tư tưởng về” Trong định nghĩa này, Đảng đã bước đầu làm rõ: + Một là, bản chất cách mạng, khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh. + Hai là, nguồn gốc tư tưởng, lý luận của TT Hồ Chí Minh. + Ba là, nội dung cơ bản nhất của TT Hồ Chí Minh. + Bốn là, giá trị, ý nghĩa, sức hấp dẫn, sức sống lâu bền của TT Hồ Chí Minh. Dựa trên định hướng này, các nhà khoa học đưa ra định nghĩa: “TT Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN; là kết quả của sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, đồng thời là sự kết tinh tinh hoa dân tộc và trí tuệ thời đại nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người”. Hiện nay, tồn tại 2 phương thức tiếp cận TT Hồ Chí Minh: Một là, TT Hồ Chí Minh như một hệ thống tri thức tổng hợp. Hai là, TT Hồ Chí Minh là hệ thống các quan điểm về cách mạng Việt Nam. Ở đây, vận dụng cách tiếp cận thứ hai để nghiên cứu TT Hồ Chí Minh. Là một hệ thống lý luận, TT Hồ Chí Minh có cấu trúc logic chặt chẽ, có hạt nhân cốt lõi, đó là tư tưởng về độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội; độc lập dân tộc gắn liền với CNXH nhằm giải phóng dân tộc, giải phong giai cấp và giải phóng con người. 2. Đối tượng và nhiệm vụ của môn học a. Đối tượng nghiên cứu Là hệ thống quan điểm, quan niệm, lý luận về cách mạng Việt Nam trong dòng chảy của thời đại mới mà cốt lõi là tư tưởng về độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Như vậy, đối tượng của môn học không chỉ là bản thân hệ thống các quan điểm, lý luận được thể hiện trong toàn bộ di sản của Hồ Chí Minh, mà còn là quá trình vận dụng, hiện thực hóa các quan điểm, lý luận đó trong thực tiễn cách mạng. b. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ các nội dung sau: - Cơ sở (khách quan và chủ quan) hình thành TT Hồ Chí Minh nhằm khẳng định sự ra đời của TT Hồ Chí Minh là một tất yếu khách quan , giải quyết các vấn đề lịch sử dân tộc đặt ra; - Các giai đoạn hình thành và phát triển TT Hồ Chí Minh; - Nội dung, bản chất cách mạng, khoa học, đặc điểm của các quan điểm trong hệ thống TT Hồ Chí Minh; - Vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của TT Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam; - Quá trình nhận thức, vận dụng, phát triển TT Hồ Chí Minh qua các giai đoạn cách mạng của Đảng và Nhà nước ta; - Các giá trị tư tưởng lý luận của Hồ Chí Minh đối với kho tàng tư tưởng, lý luận cách mạng thế giới của thời đại. 3. Mối quan hệ của môn học này với môn học những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin và môn đường lối cách mạng của Đảng CS Việt Nam a. Với môn Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin Chủ nghĩa Mác – Lenin là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận, nguồn gốc tư tưởng, lý luận trực tiếp quyết định bản chất cách mạng, khoa học của TT Hồ Chí Minh. Cuộc đời, sự nghiệp của Hồ Chí Minh và sự nghiệp của Đảng ta, thông qua tổng kết thực tiễn, đã góp phần làm phong phú, bổ sung và phát triển các nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lenin. Tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng Mác – Lenin, là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lenin vào điều kiện thực tế Việt Nam. Vì vậy, hai môn này có mối quan hệ biện chứng, chặt chẽ với nhau. b. Với môn Đường lối cách mạng của Đảng CS Việt Nam - Tư tưởng Hồ Chí Minh là một bộ phận tư tưởng của đảng, nhưng với tư cách là bộ phận tư tưởng nền tảng, km chỉ nam, là cơ sở khoa học để xây dựng đường lối, chiến lược, sách lược của đảng. - TT Hồ Chí Minh trang bị cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học để nắm vững kiến thức về đường lối cách mạng của Đảng CS Việt Nam. II. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 1. Cơ sở phương pháp luận a. Bảo đảm sự thống nhất nguyên tắc tính Đảng và tính khoa học b. Quan điểm thực tiễn và nguyên tắc lý luận gắn liền với thực tiễn c. Quan điểm lịch sử - cụ thể d. Quan điểm toàn diện và hệ thống e. Quan điểm kế thừa và phát triển g. Kết hợp nghiên cứu các tác phẩm với thực tiễn chỉ đạo cách mạng của Hồ Chí Minh. 2. Các phương pháp cụ thể - Ngoài những phương pháp chung cần phải có những phương pháp cụ thể phù hợp từng nội dung. Trong đó, phương pháp lịch sử và phương pháp logic là cần thiết khi nghiên cứu. - Vận dụng phương pháp liên ngành trong nghiên cứu. - Cần phải đổi mới và hiện đại hóa các phương pháp nghiên cứu cụ thể trên cơ sở không ngừng phát triển và hoàn thiện về lí luận và phương pháp luận khoa học nói chung. III. Ý NGHĨA CỦA VIỆC HỌC TẬP MÔN HỌC 1. Nâng cao năng lực tư duy lí luận và phương pháp công tác - TT HCM định hướng cho Đảng và nhân dân thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Làm cho sinh viên nâng cao nhận thức về vai trò, vị trí của TT Hồ Chí Minh đối với cách mạng. Làm cho TT của người ngày càng giữ vai trò chủ đạo trong đời sống tinh thần của thế hệ trẻ nước ta. - Bồi dưỡng, củng cố cho sinh viên, thanh niên lập trường, quan điểm cách mạng. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tích cực chủ động đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái, bảo vệ chủ nghĩa Mác – Lenin, TT Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước ta. Biết vận dụng TT Hồ Chí Minh vào giải quyết các vấn đề đặt ra trong cuộc sống. 2. Bồi dưỡng phẩm chất đạo đức cách mạng và rèn luyện bản lĩnh chính trị Tư tưởng Hồ Chí Minh giáo dục đạo đức, tư cách, phẩm chất cách mạng cho cán bộ, đảng viên và toàn dân biết sống hợp đạo lý, yêu cái tốt, cái thiện, ghét cái xấu, cái ác. Học tập TT Hồ Chí Minh giúp nâng cao lòng tự hào về Người, về Đảng Cộng Sản, về Tổ quốc, tự nguyện “sống, chiến đấu, lao động và học tập theo gương Bác Hồ vĩ đại”. Sinh viên biết vận dụng vào việc tu dưỡng, rèn luyện và hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, đóng góp tích cực vào sự nghiệp cách mạng theo con đường mà Hồ Chí Minh và Đảng đã lựa chọn. CHƯƠNG I. CƠ SỞ, QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH I. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Cơ sở khách quan a. Bối cảnh lịch sử hình thành TT Hồ Chí Minh - Bối cảnh lịch sử Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX Hồ Chí Minh sinh ra và lớn lên trong hoàn cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động. Trong nước, triều Nguyễn đã từng bước khuất phục Pháp, thừa nhận sự bảo hộ của thực dân Pháp trên toàn cõi Việt Nam. Đến cuối thế kỷ XIX, các cuộc khởi nghĩa dưới khẩu hiệu “Cần vương” cuối cùng đã thất bại. Hệ tư tưởng phong kiến tỏ ra lỗi thời trước các nhiệm vụ lịch sử. Các cuộc khai thác của thực dân Pháp khiến cho xã hội ta có sự chuyển biến và phân hóa, giai cấp công nhân, tầng lớp tiểu tư sản và tư sản xuất hiện, tạo ra những tiền đề bên trong cho phong trào yêu nước giải phóng dân tộc đầu thế kỷ XX. Vào thời điểm đó, dưới sự ảnh hưởng của trào lưu cải cách ở Nhật Bản và Trung Quốc, phong trào yêu nước của nhân dân ta chuyển dần sang xu hướng dân chủ tư sản. Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, các sĩ phu nho học có tư tưởng tiến bộ, tiêu biểu như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh đã cố gắng tổ chức và vận động cuộc đấu tranh yêu nước chống Pháp theo mục tiêu và phương pháp mới. Tuy nhiên, chủ trương cầu ngoại viện, dùng bạo lực để khôi phục độc lập của Phan Bội Châu đã thất bại. Chủ trương “ỷ Pháp cầu tiến bộ”, khai thông dân trí, nâng cao dân khí trên cơ sở đó mà tính chuyện giải phóng của Phan Chu Trinh cũng thất bại. Hoàng Hoa Thám lại theo con đường mang tính phong kiến, chưa có hướng đi đúng đắn. Phong trào cứu nước của nhân dân ta muốn giành được thắng lợi, phải đi theo một con đường mới. - Bối cảnh thời đại Lịch sử thế giới có những biến chuyển to lớn. CNTB từ giai đoạn tự do cạnh tranh chuyển sang giai đoạn độc quyền đã xác lập quyền thống trị trên phạm vi toàn thế giới. Chủ nghĩa đế quốc đã trở thành kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa. Các nước nhược tiểu ở châu Á, châu Phi và khu vực Mỹ latinh, sự bóc lột phong kiến trước kia vẫn còn và bao trùm lên nó là sự bóc lột TBCN. Các giai cấp, tầng lớp xã hội mới xuất hiện, trong đó có công nhân và tư sản. Đầu thế kỷ XX, cách mạng Tháng Mười Nga thành công năm 1917, đã làm “thức tỉnh các dân tộc châu Á”. Cuộc cách mạng này đã mở ra một thời kỳ mới trong lịch sử loài người. b. Những tiền đề tư tưởng – lý luận - Giá trị truyền thống dân tộc - Tinh hoa văn hóa nhân loại - Chủ nghĩa Mác – Lênin 2. Nhân tố chủ quan - Khả năng tư duy và trí tuệ Hồ Chí Minh - Phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH 1. Thời kỳ trước năm 1911: Hình thành tư tưởng yêu nước và chí hướng cứu nước - Hồ Chí Minh sinh ngày 19-5-1890 trong một gia đình nhà nho yêu nước, gần gũi với nhân dân. - Từ những ảnh hưởng của người cha, Hồ Chí Minh tiếp cận những tư tưởng mới của thời đại và nâng lên thành tư tưởng cốt lõi trong đường lối chính trị của mình. Người mẹ - bà Hoàng Thị Loan – cũng ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng, tình cảm của Nguyễn Sinh Cung về đức tính nhân hậu, chan hòa với mọi người. - Nghệ Tĩnh là vùng đất giàu truyền thống văn hóa, truyền thống lao động, tinh thần yêu nước - Phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc, truyền thống tốt đẹp của gia đình, của quê hương với sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, Hồ Chí Minh đã sớm nhận ra sự hạn chế của những người đi trước. Người đã định hướng đi mới: phải tìm hiểu bản chất của Tự do, Bình đẳng, Bác ái của nước Pháp, phải ra nước ngoài xem họ làm thế nào, trở về giúp đồng bào mình. 2. Thời kỳ từ năm 1911 – 1920: Tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc - Năm 1911, Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước, hướng đến các nước phương Tây. Sự kiện này xuất phát từ ý thức dân tộc, từ hoài bão cứu nước. Sau khi đến nhiều nước, Người nhận thấy, ở đâu người dân cũng mong muốn thoát khỏi ách áp bức, bóc lột. Với lòng yêu nước nồng nàn, Người kiên trì chịu đựng mọi khó khăn, gian khổ. Luận cương của V.I.Lenin (Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa) đã giải đáp cho Nguyễn Ái Quốc con đường giành độc lập dân tộc, tự do cho đồng bào, đáp ứng những tình cảm và suy nghĩ, hoài bão bấy lâu ở Người. Với việc biểu quyết tán thành quốc tế III, tham gia thành lập Đảng CS Pháp (12/1920), trở thành người cộng sản Việt Nam đầu tiên, đánh dấu bước chuyển về chất trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc. Việc xác định con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc là công lao to lớn đầu tiên của Người, đã gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào công nhân quốc tế, đưa nhân dân ta đi theo con đường mà chính Người đã trải qua, từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác – Lenin. 3. Thời kỳ từ năm 1921 – 1930: Hình thành cơ bản tư tưởng về cách mạng Việt Nam Nguyễn Ái Quốc có những hoạt động thực tiễn và hoạt động lý luận rất phong phú, sôi nổi trên địa bàn Pháp (1921-1923), Liên Xô (1923-1924), Trung Quốc (1924-1927), Thái Lan (1928-1929). Trong giai đoạn này, TT Hồ Chí Minh về cách mạng Việt Nam đã hình thành về cơ bản. Các tác phẩm: Bản án chế độ thực dân Pháp (1925), Đường cách mệnh (1927), Cương lĩnh đầu tiên của Đảng (1930), Những nội dung căn bản: - Bản chất của chủ nghĩa thực dân là “ăn cướp” và “giết người”. vì vậy, chủ nghĩa thực dân là kẻ thù chung của các dân tộc thuộc địa, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên toàn thế giới. - Cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại mới phải theo con đường cách mạng vô sản và là một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. - Cách mạng giải phóng dân tộc ở thuộc địa và cách mạng vô sản ở chính quốc có mối quan hệ khăng khít với nhau nhưng không phụ thuộc vào nhau. - Cách mạng thuộc địa trước hết là một cuộc “dân tộc cách mệnh”. - Cách mạng giải phón dân tộc ở các nước nông nghiệp lạc hậu, muốn giành thăng lợi phải thu phục và lôi cuốn nông dân đi theo, cần xây dựng khối liên minh công – nông làm động lực cho cách mạng. - Cách mạng muốn thành công trước hết phải có đảng lãnh đạo. - Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. 4. Thời kỳ từ năm 1930 – 1945: Vượt qua thử thách, kiên trì giữ vững lập trường cách mạng Trên cơ sở xác định đúng đắn con đường cần phải đi của cách mạng Việt Nam, Nguyễn Ái Quốc đã kiên trì bảo vệ quan điểm của mình về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, về cách mạng giải phóng dân tộc thuộc địa và cách mạng vô sản, chống lại những biểu hiện tả khuynh trong đảng. 5. Thời kỳ từ năm 1945 – 1969: Tiếp tục phát triển, hoàn thiện - Ngày 23/9/1945, thực dân Pháp núp bóng quân đội Anh gây hấn ở Nam bộ. Miền Bắc, quân Tưởng hơn 20 vạn cũng kéo vào âm mưu tiêu diệt Đảng ta. Người chủ trương củng cố chính quyền non trẻ, đẩy lùi giặc đói, giặc dốt, khắc phục nạn tài chính thiếu hụt. Về đối ngoại, Người vận dụng sách lược khôn khéo, mềm dẻo, thêm bạn, bớt thù, tranh thủ thời gian để chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài. Ngày 19/12/1946, Hồ Chí Minh đã phát động cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp. Từ đây, Người là linh hồn của cuộc kháng chiến. Người đề ra đường lối vừa kháng chiến vừa kiến quốc, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh. Năm 1954, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta thắng lợi. Sau hiệp định Giơnevơ, miền Bắc hoàn toàn giải phóng nhưng vẫn còn bị chia cắt bởi âm mưu của đế quốc Mỹ và tay sai. Đứng trước yêu cầu cách mạng mới, Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng đã xác định kẻ thù của nhân dân Việt Nam, đề ra cho mỗi miền Nam, Bắc nhiệm vụ khác nhau. Xuất phát từ thực tiễn, trong suốt quá trình hoạt động lãnh đạo cách mạng, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhiều vấn đề đã tiếp tục được bổ sung và phát triển, như: tư tưởng về CNXH và con đường qu ... ”. Đối với cán bộ lãnh đạo, Hồ Chí Minh yêu cầu phải nắm vững “dân tình”, hiểu rõ “dân tâm”, thường xuyên quan tâm cải thiện dân sinh, nâng cao dân trí. - Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư Đây là phẩm chất đạo đức gắn liền với hoạt động hằng ngày của mọi người, là đại cương đạo đức của Hồ Chí Minh. Đây cũng là những khái niệm cũ nhưng được Hồ Chí Minh lọc boỏ những nội dung không phù hợp và đưa vào những nội dung mới. Cần: lao động siêng năng, chăm chỉ, lao động có kế hoạch, có hiệu quả, có năng suất cao với tinh thần tự lực cánh sinh. Kiệm: tiết kiệm; “không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi”, không phô trương hình thức, Liêm: luôn tôn trọng của công và của dân, “trong sạch, không tham lam” tiền của, địa vị, danh tiếng. Chính: thẳng thắn, đứng đắn. Người đưa ra một số yêu cầu: đối với mình – không tự cao, tự đại, tự phụ, phải khiêm tốn học hỏi, phát huy cái hay, sửa chữa cái dở của mình. Đối với người – không nịnh người trên, không khinh người dưới, thật thà, không dối trá. Đối với việc – phải để việc công lên trên, lên trước, việc thiện nhỏ mấy cũng làm, việc ác nhỏ mấy cũng tránh. Các đức tính trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, ai cũng phải thực hiện, song, cán bộ, đảng viên phải thực hành trước để làm mẫu cho dân. Đối với một quốc gia, cần, kiệm, liêm, chính là thước đo sự giàu có về vật chất, vững mạnh về tinh thần, thể hiện sự văn minh, tiến bộ. Đó còn là nền tảng của đời sống mới, của phong trào thi đua yêu nước. Chí công vô tư là công bằng, công tâm, không thiên tư, thiên vị; làm việc gì cũng không nghĩ đến mình trước, chỉ biết vì đảng, vì dân tộc, “lo trước thiên hạ, vui sau thiên hạ”. Là nêu cao chủ nghĩa tập thể, trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân. Theo Hồ Chí Minh chủ nghĩa cá nhân là vết tích của xã hội cũ, đó là lối sống ích kỷ, chỉ biết có riêng mình, chỉ thấy công lao của mình mà quên mất cộng lao của người khác. Chủ nghĩa cá nhân còn là đồng minh của đế quốc; là một thứ vi trùng rất độc, sinh ra hàng trăm thứ bệnh nguy hiểm, như: quan liêu, mệnh lệnh, bè phái, chủ quan, tham ô, lãng phítheo Hồ Chí Minh, CNXH không thể thắng lợi nếu không loại trừ chủ nghĩa cá nhân. - Thương yêu con người, sống có tình nghĩa Yêu thương con người được Hồ Chí Minh xác định là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất. Người nói, người cách mạng là người giàu tình cảm, có tình cảm cách mạng mới đi làm cách mạng. Vì yêu thương nhân dân, yêu thương con người mà chấp nhận mọi gian khổ hy sinh để đem lại độc lập, tự do, cơm no áo ấm và hạnh phúc cho con người. Người cho rằng, nếu không có tình yêu thương thì không thể nói đến cách mạng, càng không thể nói đến CNXH và CNCS. Tình yêu thương con người phải được xây dựng trên lập trường giai cấp công nhân, thể hiện trong mối quan hệ hàng ngày với bạn bè, đồng chí, anh emNó đòi hỏi mội người phải chặt chẽ và nghiêm khắc với bản than; rộng rãi, dộ lượng và giàu lòng vị tha với người khác. Phải có thái độ tôn trọng những quyền của con người, nâng con người lên, kể cả những người nhất thời lầm lạc, chứ không phải là thái độ dĩ hòa vi quý, không hạ thấp, càng không phải vùi dập con người. Người dạy: ”Hiểu chủ nghĩa Mác – Lenin là phải sống với nhau có tình, có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình, có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”. - Có tinh thần quốc tế vô sản Chủ nghĩa quốc tế là một trong những phẩm chất của đạo đức cộng sản chủ nghĩa. Bắt nguồn từ bản chất giai cấp công nhân, nhằm vào mối quan hệ rộng lớn, vượt qua khỏi quốc gia dân tộc. Nội dung chủ nghĩa quốc tế trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng lớn và sâu sắc. Đó là sự tôn trọng và hiểu biết, thương yêu và đoàn kết với giai cấp vô sản toàn thế giới, với tất cả dân tộc và nhân dân các nước, với những người tiến bộ trên toàn cầu, chống lại mọi sự chia rẽ, hằn thù, bất bình đẳng và phân biệt chủng tộc Hồ Chí Minh chủ trương giúp bạn là tự giúp mình. c. Quan điểm về những nguyên tắc xây dựng đạo đức mới - Nói đi đôi với làm, phải nêu gương về đạo đức Nói đi đôi với làm, Hồ Chí Minh coi đây là nguyên tắc quan trọng bậc nhất trong xây dựng một nền đạo đức mới. Nêu gương về đạo đức là một nét đẹp của truyền thống văn hóa phương đông. Nói đi đôi với làm phải gắn liền với nêu gương về đạo đức. Hồ Chí Minh dạy, hơn bất cứ lĩnh vực nào khác, trong việc xây dựng một nền đạo đức mới, đạo đức cách mạng phải chú trọng “đạo làm gương”. Một nền đạo đức mới chỉ có thể được xây dựng trên một cái nền rộng lớn, vững chắc, khi những chuẩn mực đạo đức trở thành hành vi đạo đức hằng ngày của toàn xã hội. - Xây đi đôi với chống Để xây dựng một nền đạo đức mới, cần phải kết hợp chặt chẽ giữa xây và chống. việc xây và chống trong lĩnh vực đạo đức rõ ràng không đơn giản. Xây phải đi đôi với chống, muốn xây phải chống, chống nhằm mục đích xây. Xây dựng đạo đức mới, đạo đức cách mạng trước hết phải được tiến hành bằng việc giáo dục những phẩm chất, những chuẩn mực đạo đức mới. việc giáo dục đạo đức cũng phải được tiến hành phù hợp với từng giai đoạn cách mạng; lứa tuổi, nghề nghiệp, giai cấp, tầng lớp và trong từng môi trường khác nhau, Xây phải đi đôi với chống, với việc loại bỏ cái sai, cái xấu, cái vô đạo đức trong cuộc sống hằng ngày. Người cho rằng, trên con đường cách mạng, đạo đức mới chỉ có thể hình thành trên cơ sở kiên trì mục tiêu chống chủ nghĩa đế quốc, chống những thói quen và tậo tục lạc hậu, loại trừ chủ nghĩa cá nhân. Để làm được điều này, cần phải sớm phát hiện sớm, phải tuyên truyền, vận động, hình thành phong trào quần chúng rộng rãi đấu tranh cho sự lành mạnh, trong sạch về đạo đức. - Phải tu dưỡng đạo đức suốt đời Một nền đạo đức mới chỉ có thể xây dựng trên cơ sở sự tự giác tu dưỡng đạo đức của mọi người. Hồ Chí Minh chỉ ra rằng, phải làm thế nào đó để mỗi người tự nhận thấy sâu sắc việc trau dồi đạo đức cách mạng là một việc “sung sướng vẻ vang nhất trên đời”. Đạo đức cách mạng là đạo đức dấn thân, đạo đức trong hành động vì độc lập tự do của dân tộc, hạnh phúc của nhân dân. Chỉ có trong hành động, đạo đức cách mạng mới bộc lộ rõ những giá trị của mình. Hồ Chí Minh đưa ra một lời khuyên rất dễ hiểu: “Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sang, vàng càng luyện càng trong”. 2. Sinh viên học tập và làm theo tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh a. Học tập và làm theo tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh - Xác định đúng vị trí, vai trò của đạo đức đối với cá nhân - Kiên trì tu dưỡng theo các phẩm chất đạo đức Hồ Chí Minh. Trong bài nói tại Đại hội sinh viên Việt Nam lần thứ hai (ngày 7-5-1958), Người tóm tắt những phẩm chất đó như sau: + Yêu tổ quốc + Yêu nhân dân + Yêu chủ nghĩa xã hội + Yêu lao động + Yêu khoa học và kỷ luật Theo Người, để có được những phẩm chất đó, sinh viên cần phải rèn luyện những đức tính sau: trung thành, tận tụy, thật thà và chính trực. trong học tập, rèn luyện, phải kết hợp lý luận với thực hành, học tập với lao động; phải chống lại mọi biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, chống tư tưởng hám danh, hám lợi. “Đối với người, ai làm gì có lợi ích cho nhân dân, cho Tổ quốc ta đều là bạn. Bất kỳ ai làm điều gì có hại cho nhân dân và Tổ quốc ta tức là kẻ thù. Đối với mình, những tư tưởng và hành động có lợi ích cho Tổ quốc, cho đồng bào là bạn. Những tư tưởng và hành động có hại cho Tổ quốc và đồng bào là kẻ thùĐiều gì phải, phải cố làm cho kỳ được, dù là việc nhỏ. Điều gì trái, thì hết sức tránh, dù là một điều trái nhỏ”. b. Nội dung học tập theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh - Thực trạng đạo đức lối sống trong sinh viên hiện nay - Học tập và làm theo tấm gương đạo đức hồ chí minh + Một là, học trung với nước, hiếu với dân, suốt đời đấu tranh cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người. + Hai là, học cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, đời riêng trong sang, nếp sống giản dị và đức tính khiêm tốn phi thường. + Ba là, học đức tin tuyệt đối vào sức mạnh của nhân dân, kính trọng nhân dân và hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân; luôn nhân ái, vị tha, khoan dung và nhân hậu với con người. + Bốn là, học tấm gương về ý chí và nghị lực tinh thần to lớn, quyết tâm vượt qua mọi thử thách, gian nguy để đạt được mục đích cuộc sống. III. TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ XÂY DỰNG CON NGƯỜI MỚI 1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người a. Con người được nhìn nhận như một chỉnh thể - Hồ Chí Minh xem xét con người như một chỉnh thể thống nhất về tâm lực, thể lực và các hoạt động của nó. Con người luôn có xu hướng vươn tới “chân – thiện – mỹ”. Hồ Chí Minh xem xét con người trong tính đa dạng của nó: đa dạng trong quan hệ xã hội; đa dạng trong tính cách, khát vọng, phẩm chất, khả năng; đa dạng trong hoàn cảnh xuất than, điều kiện sống, - Hồ Chí Minh xem xét con người trong sự thống nhất của hai mặt đối lập: thiện và ác, hay và dở, tốt và xấu, hiền và dữ,bao gồm cả tính người và tính bản năng. Theo Người, con người “dù là xấu, tốt, văn minh hay dã man đều có tình”. b. Con người cụ thể, lịch sử Hồ Chí Minh cũng dùng khái niệm “con người” theo nghĩa rộng trong một số trường hợp, nhưng đặt trong một bối cảnh cụ thể và một tư duy chung. Còn phần lớn, Người xem xét khái niệm này trong trong các mối quan hệ xã hội, quan hệ giai cấp, giới tính, lứa tuổi, nghề nghiệp,, trong khối thống nhất của cộng đồng dân tộc và trong quan hệ quốc tế. Đó là con người hiện thực, cụ thể và khách quan. c. Bản chất con người mang tính xã hội - Để sinh tồn, con người phải lao động sản xuất. Trong quá trình lao động sản xuất, các mối quan hệ giữa người với người được xác lập. - Con người là sản phẩn của xã hội. Trong quan niệm của Hồ Chí Minh, con người là tổng hợp các quan hệ xã hội từ hẹp đến rộng, chủ yếu bao gồm các quan hệ: anh, em; họ hàng; bầu bạn; đồng bào; loài người. 2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người và chiến lược “trồng người”. a. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người - Con người là vốn quý nhất, là nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng Theo Người, “trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân, trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”. Vì vậy, “vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả”. Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần. Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. “Lòng yêu nước và sự đoàn kết của nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi”. - Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng; phải coi trong, chăm sóc, phát huy nhân tố con người. Vì sống gần dân, giữa lòng dân, với dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh thấy rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Người xác định rõ trách nhiệm của người cũng là của Đảng và Chính phủ là “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”. Người cảm nhận và thông cảm sâu sắc với với thân phận của những người cùng khổ và nô lệ lầm than. Người có niềm tin vững chắc vào trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của bản thân con người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh cho độc lập, tự do, hạnh phúc của con người. Con người là mục tiêu của cách mạng, nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của đảng, chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng nhân dân. Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Người nhận rõ: “Muốn xây dựng CNXH, trước hết phải có con người xhcn”, “có dân thì có tất cả” Hồ Chí Minh tin vào nhân dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là người cộng sản thì phải tin nhân dân và niềm tin vào quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. người nói: Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng. Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ nhân dân; không tin cậy nhân dân; không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân. Con người là động lực cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước nhưng trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng CNXH. Nhà nước mới theo tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy công – nông – trí làm nển tảng. Không phải mọi con người đều trở thành động lực, mà phải là những con người được giác ngộ và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền thống lịch sử và văn hóa của dân tộc Việt Nam. Chính trị, văn hóa, tinh thần là động lực cơ bản trong động lực con người. Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau. Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ nghĩa cá nhân. b. Quan điểm của Hồ Chí Minh về chiến lược “trồng người” - “Trồng người” là yêu cầu khách quan, vừa cấp bách, vừa lâu dài của cách mạng. Trên cơ sở khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của cách mạng, Hồ Chí Minh rất quan tâm đến sự nghiệp giáo dục, đào tạo và rèn luyện con người. Người nói đến “lợi ích trăm năm” và mục tiêu xây dựng CNXH là những quan điểm mang tầm vóc chiến lược, cơ bản lâu dài, nhưng cũng luôn rất cấp bách. Nó liên quan đến nhiệm vụ “Trước hết cần có những con người XHCN” và “trồng người”. Tất cả những điều này phản ánh tư tưởng lớn về tầm quan trọng có tính quyết định của nhân tố con người; tất cả vì con người, do con người. Như vậy, con người được đặt vào vị trí trung tâm của sự phát triển. Nó vừa nằm trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với nghĩa rộng, vừa nằm trong chiến lược giáo dục - đào tạo theo nghĩa hẹp - “Muốn xây dựng CNXH, trước hết cần có những con người XHCN”. + Con người XHCN đương nhiên phải do CNXH tạo ra. Nhưng ở đây trên con đường tiến lên CNXH thì “trước hết cần có những con người XHCN”.. + Mỗi bước xây dựng những con người như vậy là một nấc thang xây dựng CNXH. Đây là mối quan hệ biện chứng giữa “xây dựng CNXH” và “con người XHCN”. + Quan niệm của Hồ Chí Minh về con người mới XHCN có hai mặt gắn bó chặt chẽ với nhau. Một là, kế thừa những giá trị tốt đẹp của con người truyền thống. Hai là, hình thành những phẩm chất mới như: có tư tưởng XHCN; có đạo đức XHCN; có trí tuệ và bản lĩnh để làm chủ; có tác phong XHCN; có lòng nhân ái, vị tha, độ lượng, - Chiến lược “trồng người” là một trọng tâm, một bộ phận hợp thành của chiến lược phát triển kinh tế - xã hội. Để thực hiện “trồng người” cần có nhiều biện pháp, nhưng giáo dục – đào tạo là biện pháp quan trọng bậc nhất. Nội dung và phương pháp giáo dục phải toàn diện, phải đặt đạo đức, lý tưởng và tình cảm cách mạng, lối sống XHCN lên hàng đầu. Hai mặt “đức” và “tài” thống nhất nhau, trong đó, “đức” là gốc, là nền tảng cho tài năng phát triển. Phải kết hợp giữa nhận thức và hành động, lời nói với việc làm,Có như vậy mới có thể “học để làm người”. “Trồng người” là công việc “trăm năm”, không thể nóng vội, cũng không phải tùy tiện. nhận thức và giải quyết vấn đề này có ý nghĩa thường trực, bền bỉ trong suốt cuộc đời mỗi con người, trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Hồ Chí Minh cho rằng: “Việc học không bao giờ cùng, còn sống còn phải học”./.
File đính kèm:
- tai_lieu_tu_tuong_ho_chi_minh.doc