Tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và logic
Tái cơ cấu nền kinh tế nhìn từ quan điểm lịch sử - lô gíc giúp chúng ta hiểu rõ hơn lô gíc
vận động của các nền kinh tế trong quá trình tự điều chỉnh để tìm cho mình động lực phát triển mới.
Tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào vai trò quản lý nền kinh tế của nhà
nước. Trong đó chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước luôn đổi mới có hệ thống theo định hướng của
mô hình tăng trưởng, phát triển chính sách khoa học và công nghệ, xác lập quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời
hoàn thiện thị trường và các các chỉ tiêu kinh tế phải được đổi mới theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng
xanh, giải quyết anh sinh xã hội và phát triển bền vững.
Bạn đang xem tài liệu "Tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và logic", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam từ góc nhìn lịch sử và logic
120 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät TÁI CƠ CẤU NỀN KINH TẾ Ở VIỆT NAM TỪ GÓC NHÌN LỊCH SỬ VÀ LOGIC Đoàn Thế Hùng* TÓM TẮT Tái cơ cấu nền kinh tế nhìn từ quan điểm lịch sử - lô gíc giúp chúng ta hiểu rõ hơn lô gíc vận động của các nền kinh tế trong quá trình tự điều chỉnh để tìm cho mình động lực phát triển mới. Tái cơ cấu kinh tế ở Việt Nam hiện nay chủ yếu tập trung vào vai trò quản lý nền kinh tế của nhà nước. Trong đó chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước luôn đổi mới có hệ thống theo định hướng của mô hình tăng trưởng, phát triển chính sách khoa học và công nghệ, xác lập quyền sở hữu trí tuệ, đồng thời hoàn thiện thị trường và các các chỉ tiêu kinh tế phải được đổi mới theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng xanh, giải quyết anh sinh xã hội và phát triển bền vững. Từ khoá: Tái cơ cấu, nền kinh tế, Việt Nam, lịch sử, logic RESTRUCTURING PROCESS IN VIETNAM ECONOMY TODAY VIEW FROM HISTORY BETWEEN UNITY AND LOGICAL ABSTRACT Restructuring the economy from the historical point of view - logic help us better understand the logic of the movement in the economy to adjust to their new development dynamics. Economic Restructuring in Vietnam now mainly focused on the regulatory role of the state economy. In the macroeconomic policy of the state innovation system oriented growth model, the development of science and technology policy, establishing intellectual property rights, while improving market and economic criteria have to be renewed at the request of the green growth model, his resolve social and sustainable development. Key Word: Restructuring, economy, VietNam, history, logic * TS. GVC. Trường Đại học Quy Nhơn 121 Tái cơ cấu . . . 1. Đặt vấn đề Báo cáo chính trị tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản sản Việt Nam (tháng 4-2001) đã đề ra chủ trương “Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóaTạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người” (1). Tháng 10-2011, tại Hội nghị Trung ương lần thứ Ba, khóa XI, Tổng Bí thư đảng Công sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng đã thừa nhận “yếu kém của nội tại nền kinh tế với mô hình tăng trưởng và cơ cấu kinh tế lạc hậu, kém hiệu quả, tích tụ, kéo dài từ lâu, chậm được khắc phục” (2). Để nhận thức và giải quyết có hiệu quả vấn đề tái cơ cấu nền kinh tế, chúng ta cần xem xét quá trình này một cách có hệ thống từ các nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, các quy luật tác động trong sản xuất vật chất, quy luật kinh tế 2. Nhận thức, quan điểm về tái cơ cấu nền kinh tế 2.1. Nhận thức cơ bản về tái cơ cấu nền kinh tế Tái cơ cấu nền kinh tế được hiểu là làm thay đổi cơ cấu của nền kinh tế, chuyển cơ cấu của nền kinh tế từ trạng thái này sang trạng thái khác và phân bổ lại các nguồn lực nhằm đạt hiệu suất cao nhất, phát triển kinh tế - xã hội bền vững nhất. Thực chất quá trình này là đi tìm những sự quy định mới trong cơ cấu kinh tế để trên cơ sở đó các thành phần kinh tế, tổ chức kinh tế tác động qua lại và chuyển hóa cho nhau. Kết quả là cả hệ thống kinh tế cùng các nội dung xã hội khác cùng vận động đi lên theo chiều hướng tiến bộ. Đây là quá trình gồm nhiều bước, nhiều khâu trên phạm vi rộng từ cơ cấu ngành, vùng, cơ chế vận hành, phân bổ, quản lý và sử dụng nguồn lực, cơ cấu sở hữu, hệ thống quản trị vĩ mô... nhằm mục đích tạo ra sự thay đổi lớn, căn bản trong cơ cấu nền kinh tế để xác lập một mô hình tăng trưởng, phương thức tăng trưởng và cơ chế phân bổ nguồn lực mới, tạo ra động lực làm bước ngoặt cho sự phát triển kinh tế đất nước. 2.2. Quan điểm thực hiện tái cơ cấu là: - Thực hiện tái cơ cấu kinh tế xuất phát từ quan điểm phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững, phải gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. - Xây dựng các đề án thực hiện cụ thể, xác định lộ trình và những bước đi phù hợp, tuần tự; tránh điều hành theo kiểu chuyển ngay từ thái cực này sang thái cực khác có thể gây “sốc” cho nền kinh tế trong bối cảnh phải chịu cả những ảnh hưởng từ biến động của tình hình kinh tế thế giới, khu vực. Từ đó kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm an sinh xã hội để làm cơ sở triển khai thực hiện các đề án tái cơ cấu; - Đồng thời ở hệ thống chính trị, nhà nước có vai trò mở đường, dẫn dắt hỗ trợ còn doanh nghiệp là chủ thể, lực lượng nòng cốt của tiến trình này; - Tái cơ cấu nền kinh tế là một bộ phận quan trọng để hình thành Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020. Tái cơ cấu phải bám sát vào ba đột phá trong Chiến lược này là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao và xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; - Tham khảo có chọn lọc những mô hình và cách thức thực hiện tái cơ cấu nền kinh tế của các nước trên thế giới và trong khu vực. 3. Tái cơ cấu nền kinh tế nhìn từ quan điểm lịch sử 122 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät Tình hình biến động kinh tế thế giới và khu vực những năm qua đã và đang đặt ra nhiều vấn đề mới đầy khó khăn đối với tất cả các nền kinh tế, trong đó nguyên nhân sâu xa là cơ cấu kinh tế của các quốc gia đều ít nhiều đang có vấn đề, đòi hỏi phải có sự thay đổi phù hợp trong quá trình tăng trưởng và phát triển bền vững. Từ năm 1973 đến năm 1975, sau cuộc khủng hoảng năng lượng, các nước công nghiệp ở châu Âu bắt buộc phải thực hiện quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Tương tự như vậy, các nước Mỹ La-tinh đầu những năm 80 của thế kỷ XX, do tác động của khủng hoảng nợ ở Mê-hi-cô nên cũng thực hiện quá trình tái cơ cấu nền kinh tế. Các nước Đông Âu và Liên Xô đầu thập niên 90 sau sự sụp đổ của hệ thống kinh tế xã hội chủ nghĩa hay các nước Đông Á những năm 1998 - 2000 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính châu Á cũng đều phải thực hiện bước đi này. Ở Việt Nam, sau 1975 quá trình phát triển kinh tế - xã hội theo cơ chế kinh tế tập trung, kế hoạch hóa đã bộ lộ những hạn chế không thể không có bước điều chỉnh toàn diện. Vì thế tại Đại hội VI của Đảng, trong Diễn văn khai mạc, cố Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh đã nói: “Chỉ có đổi mới thì mới thấy đúng và thấy hết sự thật, thấy những nhân tố mới để phát huy, những sai lầm để sửa chữa Muốn thế phải đấu tranh chống cái cũ, chống bảo thủ trì trệ, chống giáo điều rập khuôn, chống chủ quan nóng vội, chống tha hóa biến chất, chống những thói quen lỗi thời, dai dẳng. Đây là cuộc đấu tranh gian khổ diễn ra trên mọi lĩnh vực và bản thân mỗi người chúng ta”. Công cuộc đổi mới vào lúc đó được bắt đầu từ đổi mới tư duy, trước hết là tư duy kinh tế, chuyển đổi mô hình phát triển theo kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp, kém hiệu quả sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đó là quá trình kết hợp ba yếu tố: Thứ nhất, tình hình kinh tế - xã hội trì trệ, khủng hoảng buộc nhiều địa phương phải “phá rào” thực hiện một số chủ trương trái với quy định của Trung ương. Một số đơn vị sản xuất nông nghiệp, công nghiệp “phá rào” cơ chế cũ để sản xuất và kinh doanh theo cơ chế thị trường “tự do”; Thứ hai, thất bại của các cuộc cải cách “giá - lương - tiền” từ năm 1976 và lần cuối cùng vào tháng 10-1985 với việc tiến hành đổi tiền, nâng lương, điều chỉnh giá cả đã gây ra rối loạn kinh tế, bất ổn xã hội và sự thành công của chủ trương “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong nông nghiệp”, “kế hoạch hóa ba phần trong công nghiệp”; Thứ ba, quyết tâm chính trị của Bộ Chính trị, Ban Chấp hành Trung ương khi đó trong việc từ bỏ cơ chế cũ đã ăn sâu vào tiềm thức của mỗi người, thừa nhận sai lầm về đường lối, chính sách, để dứt khoát đoạn tuyệt với nó. Sau đổi mới, kể từ Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI của đảng Công sản Việt Nam, cơ cấu kinh tế của nước ta cũng như các vấn đề xã hội có bước phát triển cao về chất lượng và số lượng so với giai đoạn trước. Những năm gần đây, mặc dù chịu ảnh hưởng tiêu cực của các biến cố kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam đã vượt qua được khó khăn, thách thức, đạt được những thành tựu nhất định trong việc tạo lập nền tảng kinh tế và tạo cơ sở cho giải quyết cácvấn đề xã hội. Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân 7,2%/năm giai đoạn 2001 - 2010 và được xếp trong nhóm 10 nước có mức tăng trưởng cao trên thế giới trong giai đoạn suy thoái kinh tế toàn cầu. Thu nhập bình quân đầu người đạt hơn 1.100 USD/năm đưa Việt Nam ra khỏi tình trạng nước kém phát triển, 123 bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Từ đó,vị trí và vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới ngày càng nâng cao. An sinh xã hội được cải thiện, giải quyết việc làm và xóa đói, giảm nghèo đạt kết quả tốt, sớm hoàn thành nhiều chỉ tiêu trong Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ (MDG) của Liên hợp quốc. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế nước ta còn thấp, các cân đối, nền tảng kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Mô hình tăng trưởng kinh tế của nước ta chủ yếu vẫn theo chiều rộng, những động lực chính trong mô hình này đang đạt điểm tới hạn – cái tích cực dùng quá lâu thì mất đi tính tích cực. Cơ cấu kinh tế cho dù tối ưu thì bản thân sự phát triển của lượng các mặt, yếu tố trong lòng nó cũng sẽ làm cho các xung đột, mâu thuẫn trong bản thân nó gia tăng theo hướng làm chín muồi các mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn là điều không thể tránh khỏi. Một trật tự kinh tế và các quan hệ xã hội mới ra đời. Gần đây, cuộc khủng hoảng tài chính, nợ công và suy thoái kinh tế thế giới đã và đang làm cho nền kinh tế thế giới một lần nữa bước vào một giai đoạn đầy khó khăn, đặt ra yêu cầu phải cơ cấu lại để chuẩn bị cho một thời kỳ phát triển mới bền vững hơn. Xu thế rõ nhất là tại các nước công nghiệp phát triển, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế bắt đầu từ việc tăng cường vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước thông qua hệ thống ngân sách nhà nước, đầu tư công, hệ thống tài chính - ngân hàng, các tập đoàn kinh tế... 4. Tái cơ cấu nền kinh tế từ quan điểm logic Từ lịch sử phát triển của kinh tế thế giới cũng như trong nước cho thấy, sự tái cơ cấu nền kinh tế là phương thức điều chỉnh khách quan, tất yếu của bất kỳ mô hình kinh tế nào. Mặt khác, khi các giá trị kinh tế chuyển biến thành các mặt khác nhau của quan hệ xã hội thì nội dung xã hội lại định hướng cho sự vận động và phát triển của nội dung kinh tế. Chính vì vậy, cơ cấu lại hay tái cơ cấu nền kinh tế là bước đi tất yếu cho một đối tượng vốn mang trong mình tính biện chứng. Theo quan điểm của chủ nghĩa duy vật lịch sử, cơ sở vật chất - kỹ thuật của xã hội là cơ sở cho sự hình thành, biến đổi và phát triển của các quan hệ sản xuất, quan hệ kinh tế (trong đó có những yếu tố chỉ là hình thức phát triển kinh tế ở một giai đoạn phát triển nhất định: ngân hàng, thị trường bất động sản). Đồng thời, nền tảng kinh tế khi đó mới tạo cơ sở cho sự hình thành các quan hệ xã hội khác ngoài lĩnh vực sản xuất như quan hệ xã hội về mặt nhà nước, văn hóa, công bằng và an sinh xã hội Khủng hoảng kinh tế thế giới và các mô hình, bước đi của tái cơ cấu nền kinh tế vừa qua cho thấy quy luật tác động trong kinh tế- xã hội ở những khu vực, quốc gia ấy đã không được thực hiện một cách đồng bộ đã làm phá vỡ hệ thống - cấu trúc của cơ thể xã hội. Lĩnh vực cơ sở vật chất, kỹ thuật cùng với các mặt trong quan hệ sản xuất không được quan tâm đúng mức. Đồng thời, sự cấp bách phát triển các mặt quan hệ xã hội khác sinh ra một thể chế kinh tế, chính trị, xã hội bất cân đối, không có nền tảng vững chắc. Lịch sử các cuộc khủng hoảng về cơ cấu kinh tế cho thấy, có nền kinh tế thì khủng hoảng từ nguồn năng lượng, có nền kinh tế thì từ nợ công. Có nền kinh tế thì từ bài toán chi phí cho ứng dụng khoa học vào sản xuất ra của cải vật chất, vào đào tạo nguồn nhân lực không được đầu tư thích đáng, trong khi nguồn vốn lớn lại đổ vào thị trường chứng khoán và bất động sản, tạo ra hình thức kinh tế không phù hợp với nội dung kinh tế, dẫn đến mất cân Tái cơ cấu . . . 124 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät đối cơ cấu tài chính. Hậu quả là khi lạm phát tăng cao, chính sách tài khóa và tiền tệ thắt chặt làm cho lãi suất ngân hàng tăng và duy trì ở mức cao, thị trường bất động sản bị đóng băng, thị trường chứng khoán sụt giảm, các nhà đầu tư bị vỡ nợ, nợ xấu của các ngân hàng gia tăng dẫn đến sự sụp đổ dây chuyền của hệ thống tài chính ngân hàng, từ đó khủng hoảng cơ cấu kinh tế vĩ mô xuất hiện.Thực tế, thể chế quản lý hoạt động tài chính - ngân hàng trong điều kiện toàn cầu hóa mạnh mẽ hiện nay đã bộc lộ nhiều bất cập, không còn phù hợp với điều kiện thực tế và diễn biến tình hình. Do vậy, các nước đều đang tìm cách gia cố lại hệ thống an ninh tài chính - ngân hàng, trong đó cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và các định chế tài chính là một nội dung quan trọng. Trong hệ thống tài chính quốc tế, xu hướng sáp nhập và mua bán giữa các ngân hàng cũng đang phát triển mạnh thời gian gần đây. Hiện nay, cuộc khủng hoảng đang có những diễn biến hết sức phức tạp, nghiêm trọng với hàng loạt các nước luôn trong vòng báo động có thể vỡ nợ, đây là hệ quả của việc các nước tăng quá mức cho đầu tư công trong thời gian dài, nhất là giai đoạn khắc phục suy thoái kinh tế thế giới năm 2009 với các gói kích thích kinh tế quy mô lớn. Trong những năm qua, thế giới đã chứng kiến hai đợt lạm phát tăng cao (năm 2008 và năm 2011), là một trong những bất ổn kinh tế vĩ mô nghiêm trọng hàng đầu của nhiều nước. Ở bất cứ giai đoạn nào thì lạm phát luôn gắn với khủng hoảng năng lượng và khủng hoảng lương thực. Một trong những nguyên nhân là nguyên liệu đầu vào của nhiều nền kinh tế dựa quá nhiều vào các nguồn năng lượng hóa thạch, bên cạnh đó, nhiều quốc gia quá chú trọng đến sản xuất công nghiệp và xem nhẹ sản xuất nông nghiệp. Do đó, khi lạm phát tăng cao, giá cả các mặt hàng năng lượng và lương thực chiến lược thường tăng trước hết và ở mức độ cao nhất. Tuy nhiên, chúng ta phải nhân thấy rằng, các biện pháp trên thực chất chỉ là giải pháp kỹ thuật, tình thế. Bề ngoài, cải cách thể chế tài chính như sự tác động toàn diện nhưng bản chất của sự khủng khoảng không nằm ở hình thức kinh tế này, vấn đề ở chỗ nó nằm ở nội dung bên trong, cơ bản, chủ yếu của nền kinh tế và sợi dây quy định lợi ích kinh tế của các chủ thể kinh tế. Sau các biến cố của kinh tế thế giới vừa qua, việc tái cơ cấu nền kinh tế và đổi mới mô hình tăng trưởng đang trở thành một yêu cầu tất yếu khách quan. Để hướng tới mục tiêu tăng trưởng, phát triển bền vững trong quá trình hội nhập và toàn cầu hóa bắt buộc các nước phải tiến hành quá trình này, trong đó các lĩnh vực trọng tâm là hệ thống tài chính - ngân hàng, hoạt động đầu tư công và việc tăng cường vai trò quản lý, điều tiết của nhà nước đối với nền kinh tế. 5. Định hướng và một số giải pháp tái cơ cấu nền kinh tế Ở Việt Nam hiện nay Có thể nói, tái cơ cấu nền kinh tế ở Việt Nam hiện nay là một tất yếu lịch sư, phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Trong đó sự tăng trưởng kinh tế phải gắn với các nội dung xã hội chủ nghĩa như công bằng xã hội, an sinh xã hội, phát trển bền vững với một nền kinh tế xanh Muốn vậy, các thành phần kinh tế đều phải thực hiện nghĩa vụ xây dựng các tố chất của chủ nghĩa xã hội. Do sự cần thiết và xu thế chiếm ưu thế mà kinh tế nhà nước cần chi phối được những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, thực hiện được vai trò chủ đạo, ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao thế và lực của đất nước cần tiếp tục sắp xếp, đổi mới 125 mạnh mẽ doanh nghiệp nhà nước, giữ vững vai trò nòng cốt, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế, ổn định kinh tế vĩ mô. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước hiện nay chưa tương xứng với vị trí, vai trò và nguồn lực được giao. Theo GS, TSKH Nguyễn Mại, doanh nghiệp nhà nước sở hữu 70% vốn đầu tư toàn xã hội, 50% vốn đầu tư nhà nước, 60% tín dụng của các ngân hàng thương mại, 70% nguồn vốn ODA, hầu hết đều không phải trả tiền thuê đất; nhưng chỉ đóng góp 37% giá trị GDP, gần 20% cho ngân sách nhà nước. Năng suất lao động khu vực doanh nghiệp nhà nước thấp hơn khu vực tư nhân khoảng 10% - 14%, hệ số nợ/vốn chủ sở hữu lại gấp 2 - 3 lần doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Bên cạnh đó, nhiều doanh nghiệp nhà nước đầu tư ngoài lĩnh vực chính, nhiều nhất là lĩnh vực tài chính, ngân hàng, chứng khoán. Hiệu quả sử dụng các nguồn lực do Nhà nước đầu tư của doanh nghiệp nhà nước còn hạn chế, ảnh hưởng xấu tới chất lượng tăng trưởng, tới hệ thống tài chính, ngân hàng và sức cạnh tranh của cả nền kinh tế. Về nguyên lý kinh tế, để thực hiện cơ cấu lại nền kinh tế, trước hết phải tiến hành phân bổ lại các nguồn vốn một cách hợp lý, nói cách khác là phải bắt đầu từ tái cơ cấu đầu tư. Đối với kinh tế Việt Nam, điều này càng có ý nghĩa hơn khi mà tỷ trọng đầu tư trong GDP chiếm hơn 40% (tỷ lệ này ở các nước Đông Nam Á đều thấp hơn 30%). Trong cơ cấu đầu tư, đầu tư công chiếm hơn 44% tổng vốn đầu tư toàn xã hội giai đoạn 2006 - 2010. Với vai trò hết sức quan trọng nhưng đầu tư công lại đang là lĩnh vực có hiệu quả thấp. Bên cạnh hiệu quả thấp thì việc đầu tư lại dàn trải và kéo dài càng làm tăng chi phí đầu tư; đồng thời cơ cấu đầu tư thiếu cân đối, những ngành có ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững của đất nước như nông, lâm, thủy sản và khoa học, giáo dục đào tạo lại đang chiếm vị thế yếu trong chính sách đầu tư công (tỷ trọng của lĩnh vực này trong đầu tư công đã giảm từ 12% năm 2000 xuống còn gần 7% năm 2010). Ngoài ra, nợ công của Việt Nam cũng đang có xu hướng tăng, năm 2005 chỉ tương đương 32,2% GDP nhưng đến hết năm 2010 đã lên 56,7% GDP. Vì thế, trước mắt, phải khẩn trương hoàn thành việc sắp xếp các doanh nghiệp 100% vốn nhà nước hiện có, tập trung vào các ngành, lĩnh vực then chốt và địa bàn quan trọng, bao gồm : công nghiệp quốc phòng, công nghiệp độc quyền tự nhiên, lĩnh vực cung cấp hàng hoá dịch vụ công thiết yếu và một số ngành công nghiệp nền tảng, công nghệ có sức lan toả cao. Chấm dứt tình trạng đầu tư dàn trải ngoài ngành và hoàn thành việc thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp có dưới 50% vốn nhà nước vào năm 2015. Khẩn trương bổ sung, hoàn thiện thể chế quản lý doanh nghiệp nhà nước; áp dụng chế độ quản trị tiên tiến phù hợp với kinh tế thị trường và thực hiện nghiêm chế độ kiểm toán, kiểm tra, giám sát, công khai, minh bạch. Đánh giá và có bước đi tiếp theo cho các tập đoàn kinh tế nhà nước. Bài học sau thí điểm mô hình này cho thấy, ở đâu lúc nào, khi nào sự nôn nóng chủ quan đốt cháy giai đoạn, thực hiện các bước nhảy non trong phát triển kinh tế và các vấn đề xã hội đều phải trả giá bằng sinh lực của cả một dân tộc. Chuyển một số tập đoàn kinh tế nhà nước thành tổng công ty. Đồng thời, với việc mở rộng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của doanh nghiệp, phải tăng cường vai trò và sự giám sát, kiểm tra của đại diện chủ sở hữu nhà nước, nhất là Tái cơ cấu . . . 126 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät trong việc phê duyệt điều lệ, quyết định chiến lược phát triển sản xuất, kinh doanh, quản lý vốn, tài sản nhà nước tại doanh nghiệp. Tăng cường công tác xây dựng Đảng, nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực quản lý của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, đặc biệt là lãnh đạo chủ chốt các doanh nghiệp. Nghiên cứu hình thành cơ quan nhà nước thực hiện thống nhất chức năng đại diện chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước. Trước mắt, tập trung soát xét, điều chỉnh sự phân cấp, phân công, phối hợp trong việc thực hiện chức năng đại diện chủ sở hữu doanh nghiệp nhà nước, tiếp tục sắp xếp, đổi mới, nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Như vậy, vai trò quản lý kinh tế của nhà nước là bước đi chủ yếu của quá trình tái cơ cấu nền kinh tế, qua đó đổi mới mô hình tăng trưởng, làm mới mô hình kinh tế- xã hội nhưng phải được vận hành trên cơ sở chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước luôn đổi mới có hệ thống theo định hướng của mô hình tăng trưởng, gia tăng tỷ trọng vốn đầu tư cho nguồn nhân lực, thiết lập các hạ tầng kỹ thuật hiện đại, phù hợp với nhu cầu phát triển của các ngành kinh tế chuyên môn hóa có giá trị gia tăng cao, tạo ra năng lực cạnh tranh của sản phẩm, của quốc gia trên thị trường thế giới. Đồng thời chính sách khoa học và công nghệ cần đổi mới nhanh hơn để vừa du nhập và sử dụng có hiệu quả công nghệ nước ngoài trong việc phát triển sản xuất, kinh doanh trong nước, coi trọng hoạt động nghiên cứu và phát triển gắn với kinh doanh để mang lại lợi ích kinh tế - xã hội phổ quát. Bên cạnh đó quyền sở hữu trí tuệ cần được quan tâm hơn vì các ý tưởng và sáng tạo đã trở thành nguồn vốn quan trọng nhất, thay thế đất đai, năng lượng và tài nguyên. Hoàn thiện thị trường, nhất là thị trường vốn, tiền tệ, thị trường khoa học và công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động đầu tư, kinh doanh, nghiên cứu khoa học, ứng dụng công nghệ phát triển. Tái cấu trúc ngân hàng cần được đặt trong tổng thể hệ thống mô hình tăng trưởng mới và định hướng hoàn thiện thị trường vốn, tiền tệ thì mới góp phần phục vụ và thúc đẩy quá trình tái cấu trúc nền kinh tế. Ngoài ra các chỉ tiêu kinh tế phải được đổi mới theo yêu cầu của mô hình tăng trưởng dựa trên ý tưởng và sáng tạo. GDP là chỉ tiêu tổng hợp của nền kinh tế, nhưng chưa phản ánh đầy đủ chất lượng tăng trưởng, vì vậy phải có hệ thống chỉ tiêu chất lượng, như năng suất lao động tổng hợp, giá trị gia tăng, chỉ tiêu về vốn con người, hiệu suất đa nhân tố. Xu thế thời đại hiện nay đòi hỏi mô hình tăng trưởng nào cũng cần quan tâm đến các vấn đề xã hội, sự chênh lệch thu nhập và địa vị xã hội của các nhóm dân cư, giữa nông thôn và thành thị, giữa các vùng trong nước, nhất là các thành phố lớn có thu nhập cao với vùng sâu, vùng xa đang còn nghèo, các chính sách xã hội đối với nhóm dân cư yếu thế, những vùng chịu ảnh hưởng thường xuyên do biến đổi khí hậu nhằm đảm bảo an sinh xã hội, phát triển bền vững. 127 TÀI LIỆU THAM KHẢO [1]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr. 90 [2]. Văn kiện Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 35 [3]. GS, TSKH Nguyễn Mại.Tái cấu trúc nền kinh tế: Cần tiếp cận theo quan điểm hệ thống. [4]. Can-tiep-can-theo-quan-diem.aspx Tái cơ cấu . . . Liên hoan văn nghệ chào mừng Lễ tổng kết công tác HSSV. 128 Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät ẤN TƯỢNG ĐẦU TIÊN Nguyễn Quyết Thắng* Thông tin Khoa học – Đào tạo Một giờ học thể thao quốc phòng nhẹ nhàng mà sâu lắng * GV. Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương. (Ghi lại theo lời kể của Đặng Thị Huyền, tân sinh viên khoá 2013-2014). Kỳ thi tuyển sinh vào Cao đẳng, Đại học năm 2013 đã đi qua. Sau một khoảng thời gian chờ đợi trong sự hồi hộp xen lẫn chút lo lắng, hiện giờ các thí sinh đều đã có trên tay giấy báo điểm. Niềm vui của những thí sinh trúng tuyển vào các trường Cao đẳng, Đại học thì không tả xiết, các bạn đang háo hức chuẩn bị cho ngày nhập học và trong số đó không ít thí sinh nỗi buồn còn đọng lại sau kết quả thi của mình. Riêng tôi với điểm thi vừa qua tuy không đạt được nguyện vọng vào ngành mình chọn nhưng cũng đủ để cho tôi chuyển được sang nhiều trường khác, các bạn tôi có nhiều đứa “cố thủ” chờ mùa thi sang năm và cũng có đứa quyết “chuột chạy cùng sào cũng không vào dân lập”, còn tôi sau nhiều ngày lang thang trên mạng với số điện thoại của nhiều trường mà tôi có thể đăng ký 129 nhập học, các trường tôi gọi tới nhờ tư vấn đều trả lời và hướng dẫn nhiệt tình, đều có khoảng cách địa lý chỉ khoảng vài trăm km so với quê nhà. Bất chợt tôi bấm vào số 0650.38228478 của Phòng tuyển sinh Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương, bên kia đầu dây cất lên giọng nói nhỏ nhẹ, ấm áp của người con gái “Phòng tuyển sinh Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương xin chào em, chị là Bình Phương rất vui khi được gặp em và nghe em..”. Mọi câu hỏi của tôi đều được chị trả lời, giải đáp và chị hướng dẫn một số thủ tục cần thiết mà tôi cần phải biết về trường tôi lựa chọn. Với giọng nói miền Trung líu lo cùng sự chỉ dẫn nhiệt tình, lịch sự của chị đã để lại cho tôi thiện cảm gần gũi và một ấn tượng khó quên. Kết thúc cuộc điện đàm chị còn nhắc tôi ngoài các giấy tờ, tư trang cần thiết còn nhớ mang theo áo mưa vì ở trong này đang là giữa mùa mưa. Ôi sự ân cần, chu đáo của chị đã tạo điểm nhấn để tôi quyết định đăng ký vào trường. Ngày nhập học, tôi và nhiều tân sinh viên khác ngỡ ngàng khi đứng trước ngôi trường khang trang với dãy nhà cao tầng có nhiều phòng học trang bị hiện đại được tọa lạc trong một khuôn viên rộng rãi, thoáng mát, hàng trăm sinh viên chúng tôi từ nhiều miền quê tề tựu về đây chưa ai quen ai đã được các thầy, cô và các anh chị sinh viên khóa trước niềm nở đón tiếp đã làm lắng lại những băn khoăn, lo lắng mà bất cứ tân sinh viên nào buổi ban đầu đều có. Ngày đầu vào trường được gặp các anh chị ở Phòng tuyển sinh, Phòng công tác học sinh, sinh viên trong bộ trang phục màu xanh truyền thống của trường trông xinh đẹp và rạng rỡ nhường nào, được các anh chị kể cho nghe về vùng đất Bình Dương giàu truyền thống, về nhà trường qua 15 năm thành lập và trưởng thành, về các phong trào hoạt động đoàn, hội của trường đặc biệt là về Hội đồng hương học hành, một tổ chức hội duy nhất chỉ có ở Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương mà thấy lòng ấm áp, vơi bớt đi nỗi cô đơn nhớ nhà, nhớ quê của những người lần đầu tiên xa lũy tre làng. Những ngày đầu chứa đầy kỷ niệm của một tân sinh viên, tôi thầm nghĩ quyết định nhập học vào Trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương của mình là đúng, ở quê nhà chắc bố mẹ tôi cũng đang rất vui và tự hào về con gái của mình.Bắt đầu từ hôm nay mình đã là sinh viên của trường Đại học Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương, phải cùng với bạn bè, anh chị phấn đấu, rèn luyện, học tập để không phụ lòng thầy cô và bạn bè nơi ngôi trường mới mẻ này. Lòng tôi vẫn thầm tự nhủ: hãy cố gắng lên nhé!
File đính kèm:
- tai_co_cau_nen_kinh_te_o_viet_nam_tu_goc_nhin_lich_su_va_log.pdf