Tái cơ cấu để phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam

Trên thế giới, tập đoàn kinh tế (TĐKT) đã có bề dày lịch sử phát triển từ hàng trăm năm nay và trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tại VN, TĐKT xuất hiện

trong thành phần kinh tế nhà nước (TĐKT nhà nước) từ những năm 2005, trong

chủ trương tập trung nguồn lực của Nhà nước hình thành những cơ sở kinh tế quy

mô lớn trong một số lĩnh vực kinh tế then chốt, làm động lực và tạo ra những bước

đột phá trong quá trình phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, cho đến nay, sau gần

10 năm tồn tại và phát triển, bên cạnh những đóng góp đáng ghi nhận thì mô hình

kinh tế này đối mặt những khó khăn, thách thức trong“sứ mạng”của mình về vai

trò đầu tàu dẫn dắt nên kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, chỗ dựa

để Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô . Nhiều nghiên cứu đã chỉ

ra nguyên nhân của sự không thành công này xuất phát từ nhiều yếu tố như các

quy chuẩn pháp luật, cơ chế quản lý còn thiếu và bất cập, năng lực nội tại không

theo kịp với kỳ vọng và những biến động kinh tế hiện nay. Để mô hình phát triển

có hiệu quả, trong thời gian tới cần cơ cấu lại để thay đổi căn bản từ định hướng

phát triển, cơ chế quản lý cũng như xác định lại vai trò của nó cho phù hợp với

bối cảnh mới.

pdf 6 trang kimcuc 7420
Bạn đang xem tài liệu "Tái cơ cấu để phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tái cơ cấu để phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam

Tái cơ cấu để phát triển các tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
21
1. Đặt vấn đề
Ở VN, TĐKT nhà nước được 
chủ trương hình thành nhằm thực 
hiện mục tiêu: Tập trung đầu tư và 
huy động các nguồn lực hình thành 
nhóm công ty có quy mô lớn trong 
các ngành, lĩnh vực then chốt, qua 
đó nâng cao khả năng cạnh tranh 
trong hội nhập; giữ vai trò bảo 
đảm an ninh kinh tế, các cân đối 
lớn trong nền kinh tế quốc dân; tạo 
động lực phát triển cho các ngành, 
lĩnh vực khác và toàn bộ nền kinh 
tế; thúc đẩy liên kết trong chuỗi gia 
trị gia tăng, phát triển các thành 
phần kinh tế khác; phát huy lợi thế 
kinh tế quy mô, kết hợp các ưu thế 
chuyên môn hoá, hợp tác hoá, tăng 
cường hiệu quả hoạt động. Rõ ràng, 
đây là chủ trương đúng đắn trong 
chính sách phát triển, tuy nhiên sau 
gần 10 năm hình thành và phát triển 
(TĐKT đầu tiên được thành lập 
vào tháng 11/2005) nhiều mục tiêu 
được kỳ vọng vào mô hình kinh tế 
này không được như mong muốn, 
cụ thể là: Năng lực cạnh tranh hạn 
chế, hiệu quả đầu tư thấp, dàn trải, 
vai trò dẫn dắt nền kinh tế chưa 
phát huy được, lĩnh vực kinh doanh 
phân tán, chồng chéo thậm chí gây 
ra những bất ổn. Với tính chất cấp 
thiết và quan trọng, việc tái cơ cấu 
doanh nghiệp nhà nước mà trọng 
tâm là các TĐKT nhà nước trong 
giai đoạn hiện nay được xác định 
là một trong những trọng tâm trong 
quá trình cấu trúc lại nền kinh tế 
được thông qua tại Hội nghị Trung 
ương III - Khóa XI, bao gồm, (1) 
Tái cấu trúc đầu tư với trọng tâm 
là đầu tư công; (2) Tái cơ cấu lại 
thị trường tài chính với trọng 
tâm là tái cấu trúc hệ thống ngân 
hàng thương mại và các tổ chức 
tài chính; và (3) Tái cơ cấu doanh 
nghiệp mà trọng tâm là các TĐKT 
và tổng công ty nhà nước. Để cấu 
Tái cơ cấu để phát triển các 
tập đoàn kinh tế nhà nước tại Việt Nam
TS. NGuyễN Thế BíNh 
Trường Đại học Ngân hàng TP.HCM
Trên thế giới, tập đoàn kinh tế (TĐKT) đã có bề dày lịch sử phát triển từ hàng trăm năm nay và trở thành một trong những nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của nền sản xuất xã hội. Tại VN, TĐKT xuất hiện 
trong thành phần kinh tế nhà nước (TĐKT nhà nước) từ những năm 2005, trong 
chủ trương tập trung nguồn lực của Nhà nước hình thành những cơ sở kinh tế quy 
mô lớn trong một số lĩnh vực kinh tế then chốt, làm động lực và tạo ra những bước 
đột phá trong quá trình phát triển và hội nhập. Tuy nhiên, cho đến nay, sau gần 
10 năm tồn tại và phát triển, bên cạnh những đóng góp đáng ghi nhận thì mô hình 
kinh tế này đối mặt những khó khăn, thách thức trong“sứ mạng”của mình về vai 
trò đầu tàu dẫn dắt nên kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, chỗ dựa 
để Nhà nước thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Nhiều nghiên cứu đã chỉ 
ra nguyên nhân của sự không thành công này xuất phát từ nhiều yếu tố như các 
quy chuẩn pháp luật, cơ chế quản lý còn thiếu và bất cập, năng lực nội tại không 
theo kịp với kỳ vọng và những biến động kinh tế hiện nay. Để mô hình phát triển 
có hiệu quả, trong thời gian tới cần cơ cấu lại để thay đổi căn bản từ định hướng 
phát triển, cơ chế quản lý cũng như xác định lại vai trò của nó cho phù hợp với 
bối cảnh mới. 
Từ khoá: Tập đoàn kinh tế, phát triển các TĐKT.
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
22
trúc lại mô hình doanh nghiệp này, 
cần làm rõ những bất cập liên quan 
đến qua trình hình thành, phát triển 
của chính các TĐKT cũng như các 
yếu tố liên quan đến cơ chế, chính 
sách, bối cảnh kinh tế gắn với từng 
bước thăng trầm của mô hình kinh 
doanh này trong những năm qua.
2. Một số vấn đề chung về 
TĐKT
2.1. Lịch sử hình thành các 
TĐKT
Với sự phát triển của mô hình 
kinh tế thị trường hiện đại vào thế 
kỷ XVIII - bắt đầu từ cuộc cách 
mạng công nghiệp - đã đặt các 
doanh nghiệp vào bối cảnh: thứ 
nhất, quy mô đầu tư phải lớn do 
khoa học và công nghệ phát triển; 
thứ hai, phải thay đổi hình thức tổ 
chức doanh nghiệp cho phù hợp 
với sự mở rộng về quy mô cũng 
như môi trường cạnh tranh ngày 
một khốc liệt hơn. Sự điều chỉnh 
của doanh nghiệp bởi hai yêu cầu 
đặt ra nói trên kéo dài từ giữa thế 
kỷ 18 đến đầu thế kỷ 19, đưa đến 
sự hình thành một hình thức tổ 
chức sản xuất kinh doanh mới với 
quy mô lớn là TĐKT. Tùy theo 
từng nước - phụ thuộc vào nguồn 
gốc xuất xứ và tính chất đặc trưng 
- người ta có thể dùng nhiều từ ngữ 
khác nhau để nói về TĐKT, cụ thể, 
tại các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, 
khi nói đến “Tập đoàn kinh tế” 
người ta thường sử dụng các từ: 
“Consortium”, “Conglomerate”, 
“Cartel”, “Trust”, “Alliance”, 
“Syndicate” hay “Group”, ở châu 
Á, trong khi người Nhật gọi TĐKT 
là “Keiretsu” hoặc “Zaibatsu” 
thì người Hàn Quốc lại gọi là 
“Chaebol”; còn ở Trung Quốc, 
cụm từ “Jituan Gongsi” được sử 
dụng để chỉ khái niệm này (chính 
xác hơn là tổng công ty). Mặc dù 
tên gọi khác nhau, tuy nhiên, các 
TĐKT đều có đặc điểm chung sau 
đây: (1) Là tập hợp lớn các doanh 
nghiệp có tư cách pháp nhân liên 
kết với nhau chủ yếu bằng quan hệ 
về đầu tư vốn và có mối quan hệ 
về công nghệ, thương hiệu, kinh tế, 
thị trường nhằm đạt mục tiêu của 
các chủ sở hữu; (2) Quá trình hình 
thành, liên kết thành TĐKT có thể 
là tự nguyện hoặc bắt buộc theo quy 
luật cạnh tranh; (3) Các TĐKT đều 
có quy mô lớn, phạm vi hoạt động 
kinh doanh khá rộng nhưng đều có 
ngành, lĩnh vực kinh doanh chính, 
chủ đạo còn các ngành, lĩnh vực 
kinh doanh khác đều xoay quanh; 
và (4) TĐKT thường được tổ chức 
theo hình thức công ty mẹ - công 
ty con với nhiều cấp, tầng nấc và 
nhiều hình thức pháp lý khác nhau. 
Như vậy, xét về bản chất quá trình 
hình thành TĐKT chính là quá 
trình tích tụ, tập trung vốn (tư bản) 
nhằm gia tăng quy mô để tồn tại 
và phát triển thích nghi với những 
điều kiện hoạt động cụ thể.
2.2. Mô hình TĐKT nhà nước tại 
VN
Tại VN, từ năm 1994, Chính 
phủ đã có quyết định về việc thí 
điểm thành lập tập đoàn kinh 
doanh dựa trên các xí nghiệp, 
công ty cũ 1, nhưng phải đến Hội 
nghị Ban Chấp hành Trung ương 
Đảng lần thứ III, Khóa IX (tháng 
9/2001), vấn đề thành lập TĐKT 
mới được đề cập một cách cụ 
thể. Nghị quyết Hội nghị chỉ rõ: 
“Hình thành một số TĐKT mạnh 
trên cơ sở các tổng công ty nhà 
nước, có sự tham gia của các 
thành phần kinh tế, kinh doanh 
đa ngành, trong đó có ngành kinh 
doanh chính, chuyên môn hóa 
cao và giữ vai trò chi phối lớn 
trong nền kinh tế quốc dân, có 
quy mô rất lớn về vốn, hoạt động 
1 Quyết định số 91/TTg, ngày 7/3/1994
cả trong nước và ngoài nước, 
có trình độ công nghệ cao và 
quản lý hiện đại, đào tạo, nghiên 
cứu triển khai với sản xuất kinh 
doanh. Thí điểm hình thành 
TĐKT trong một số lĩnh vực có 
điều kiện, có thế mạnh, có khả 
năng phát triển để cạnh tranh và 
hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu 
quả như: dầu khí, viễn thông, điện 
lực, xây dựng” 2. Có thể nói 
đây là những định hướng hết sức 
căn bản của việc hình thành các 
TĐKT trên cơ sở tổ chức lại các 
tổng công ty nhà nước. Từ chủ 
trương đó, tháng 11/2005, TĐKT 
đầu tiên của nước ta là Tập đoàn 
Công nghiệp Than - Khoáng sản 
VN ra đời, đến nay, VN có 13 
TĐKT gồm: 1. Tập đoàn Bưu 
chính Viễn thông VN (VNPT); 
2. Tập đoàn Công nghiệp Than 
- Khoáng sản VN (Vinacomin); 
3. Tập đoàn Dầu khí Quốc gia 
VN (PetroVietnam); 4. Tập đoàn 
Điện lực VN (EVN); 5. Tập 
đoàn Công nghiệp tàu thủy VN 
(Vinashin); 6. Tập đoàn Dệt May 
VN (Vinatex); 7. Tập đoàn Công 
nghiệp cao su VN (VRG); 8. Tập 
đoàn Tài chính - Bảo hiểm (Bảo 
Việt); 9. Tập đoàn Viễn thông 
Quân đội (Viettel); 10. Tập đoàn 
Hóa chất VN (Vinachem); 11. 
Tập đoàn Phát triển nhà và đô 
thị VN (HUD Holdings); 12. Tập 
đoàn Công nghiệp xây dựng VN 
(Songda); 13. Tập đoàn Xăng 
dầu VN (Petrolimex). Như vậy, 
TĐKT nhà nước được xác định là 
nhóm doanh nghiệp quy mô lớn 
bao gồm các công ty có tư cách 
pháp nhân độc lập; được hình 
thành trên cơ sở tập hợp, liên kết 
thông qua đầu tư, góp vốn, sáp 
nhập, mua lại, tổ chức lại hoặc 
các hình thức liên kết khác; gắn 
2 BCH Trung ương Đảng Cộng sản Việt 
Nam, Nghị quyết Trung ương 3 Khóa IX
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
23
bó lâu dài với nhau về lợi ích 
kinh tế, công nghệ, thị trường và 
các dịch vụ kinh doanh khác tạo 
thành tổ hợp kinh doanh có từ hai 
cấp doanh nghiệp trở lên dưới 
hình thức công ty mẹ – công ty 
con. Tập đoàn kinh tế không có 
tư cách pháp nhân, không phải 
đăng ký kinh doanh theo quy 
định của Luật Doanh nghiệp.
Có thể thấy, các TĐKT ở VN 
được hình thành chủ yếu từ việc 
chuyển đổi và tổ chức lại các 
tổng công ty nhà nước theo quyết 
định của Chính phủ mà thực chất 
là trụ cột của kinh tế nhà nước 
với các chức năng chính là: (1) 
Nắm giữ những ngành kinh tế 
mũi nhọn, những lĩnh vực then 
chốt của nền kinh tế làm công 
cụ điều hành kinh tế vĩ mô của 
Chính phủ; (2) Vốn và tài sản 
nhà nước tại TĐKT là bộ phận 
chủ lực, cấu thành và không thể 
tách rời của tổng nguồn lực quốc 
gia, đóng vai trò quan trọng trong 
việc huy động sức mạnh tổng thể 
và chủ đạo của kinh tế Nhà nước 
nhằm thực hiện các mục tiêu phát 
triển kinh tế - xã hội của cả nền 
kinh tế; và (3) Đi đầu trong ứng 
dụng khoa học, công nghệ, năng 
suất lao động, hiệu quả kinh tế và 
chấp hành pháp luật làm động 
lực và tạo ra những bước đột phá 
trong quá trình phát triển và hội 
nhập. 
3. Một số thành tựu trong quá 
trình phát triển
Thời gian qua, việc thí điểm 
hình thành và phát triển của các 
TĐKT đã đạt được một số thành 
tựu sau đây: 
- Hầu hết các TĐKT nhà nước 
được thí điểm hình thành đều là 
những tổ hợp có quy mô lớn, 
giữ vai trò nòng cốt trong những 
ngành nghề, lĩnh vực then chốt 
đối với nền kinh tế quốc dân và 
là công cụ quan trọng để Nhà 
nước điều tiết kinh tế vĩ mô, bình 
ổn thị trường. Một số TĐKT như 
Tập đoàn Dầu khí quốc gia đóng 
góp 25-30% tổng ngân sách nhà 
nước; Tập đoàn Than – Khoáng 
sản bảo đảm cung cấp trên 97% 
tổng lượng than tiêu thụ trong 
nước; Tập đoàn Điện lực cung 
cấp trên 94% sản lượng điện; Tập 
đoàn Dệt may là đơn vị nòng cốt 
của ngành, chiếm 18% doanh thu 
xuất khẩu toàn ngành;
- Bước đầu hình thành cơ cấu 
tổ chức quản lý tập đoàn với mối 
quan hệ liên kết giữa công ty 
mẹ với các doanh nghiệp thành 
viên phù hợp với đặc thù ngành 
nghề hoạt động và thông lệ quốc 
tế. Đồng thời, các doanh nghiệp 
thành viên trong một số tập đoàn 
đã bước đầu được cơ cấu lại theo 
hướng chuyên môn hoá, hợp tác 
hoá sản xuất. Cụ thể: Hình thành 
công ty mẹ và hoạt động theo 
hình thức công ty mẹ - công ty 
con với nhiều cấp doanh nghiệp 
thành viên bao gồm các công ty 
con do công ty mẹ sở hữu toàn 
bộ vốn điều lệ, các công ty có cổ 
phần, vốn góp chi phối của công 
ty mẹ và doanh nghiệp liên kết. 
Hầu hết các tập đoàn đã bước đầu 
xây dựng được mối quan hệ liên 
kết trong tập đoàn phù hợp với 
đặc thù của tập đoàn. Một số tập 
đoàn đã tái cấu trúc lại các đơn vị 
thành viên theo hướng hình thành 
nhóm công ty sản xuất, kinh 
doanh trong một chuyên ngành 
nhất định nhằm thúc đẩy quá trình 
chuyên môn hoá, hợp tác hoá sản 
xuất trong tập đoàn.
4. Những tồn tại, bất cập cần tái 
cơ cấu
4.1. Thứ nhất, thể chế, chính sách 
pháp luật về TĐKT chưa hoàn 
thiện 
Tuy tồn tại khá lâu nhưng quy 
chuẩn pháp lý hiện nay đối với 
TĐKT còn chưa đủ và chưa rõ 
ràng. Chưa có một văn bản pháp 
luật nào chuẩn mực để có thể 
điều chỉnh TĐKT nhà nước, càng 
không có một văn bản pháp lý nào 
quy định cụ thể TĐKT hoạt động 
ra sao, quy mô thế nào? Mà chỉ có 
một số điều khoản chung chung 
khi đề cập đến mô hình kinh tế này 
(Điều 149 Luật Doanh nghiệp năm 
2005 quy định “Chính phủ quy 
định hướng dẫn tiêu chí, tổ chức 
quản lý và hoạt động của TĐKT”; 
Nghị định 139/NĐ-CP của Chính 
phủ về TĐKT quy định: “TĐKT 
không có tư cách pháp nhân, không 
phải đăng ký kinh doanh theo quy 
định của Luật Doanh nghiệp”). 
Tuy vậy, những quy định này vẫn 
chưa đảm bảo đủ cơ sở pháp lý cho 
quá trình hình thành và hoạt động 
của các TĐKT nhà nước. Nghị 
định số 141/2007/ NĐ-CP của 
Chính phủ đã bổ sung thêm một 
số vấn đề về các TĐKT, theo đó, 
TĐKT được hiểu là nhóm công ty 
có tư cách pháp nhân độc lập, được 
hình thành trên cơ sở tập hợp, liên 
kết thông qua đầu tư, góp vốn. 
Nghị định số 102/2010/NĐ – CP 
có hiệu lực từ ngày 15/11/2010 
hướng dẫn chi tiết một số điều của 
Luật Doanh nghiệp, thay thế cho 
Nghị định số 139/2007/NĐ – CP 
ngày 05/09/2007, cũng vẫn quy 
định rất chung chung về TĐKT 
như điều 38 của Nghị định này quy 
định: “TĐKT không có tư cách 
pháp nhân, không phải đăng ký 
kinh doanh theo quy định của Luật 
doanh nghiệp”. Như vậy, việc thừa 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
24
nhận các TĐKT vẫn chỉ dừng lại ở 
mức độ chủ trương, hệ thống quy 
định chưa đáp ứng được nhu cầu 
phát triển của các tập đoàn, từ đó 
cũng chưa thể có những nghiên cứu 
sâu, cụ thể để thúc đẩy sự phát triển 
của mô hình mới này. Chính vì thế, 
mô hình kinh tế này vẫn đang phải 
hoạt động mà chưa có những định 
hướng mang tầm vĩ mô. Một điều 
nữa cần lưu ý là, do pháp luật về 
TĐKT chưa hoàn thiện nên dẫn tới 
cơ chế quản lý của TĐKT hiện nay 
còn chồng chéo, chưa rõ ràng, còn 
hiện tượng “chen chân” nhau giữa 
quản lý nhà nước và cơ quan chủ 
quản. Hơn nữa, có một số ý 
kiến cho rằng việc thành lập 
các TĐKT bằng các quyết 
định hành chính ở nước ta 
trong thời gian qua là không 
phù hợp với thông lệ ở các 
nước trên thế giới, thậm chí 
có người ví việc thành lập các 
TĐKT trên cơ sở tổ chức lại 
các tổng công ty nhà nước là 
thay “bình mới” trong khi vẫn là 
“rượu cũ”.
4.2. Hiệu quả kinh doanh thấp, 
quản trị và đầu tư bất cập
- Một số TĐKT sử dụng nhiều 
nguồn lực nhưng kinh doanh chưa 
hiệu quả.
Hơn lúc nào hết, trong bối cảnh 
cạnh tranh toàn cầu gay gắt hiện 
nay, hiệu quả trong việc phân bổ 
nguồn lực sẽ quyết định mức độ 
phát triển của quốc gia đó, và tất 
nhiên VN không phải là một ngoại 
lệ. Trong những năm qua, việc tiếp 
tục đổ vốn vào và ưu đãi cho những 
TĐKT kém hiệu quả, trong khi 
khu vực khác làm ăn có hiệu quả 
lại thiếu nguồn lực để phát triển 
là một điều bất cập cần được xem 
xét lại. Một số đề án hình thành, 
tổ chức quản lý và hoạt động của 
tập đoàn chưa phù hợp với thực 
tế, dẫn đến tình trạng mở rộng quá 
nhanh phạm vi kinh doanh, mạng 
lưới công ty thành viên trong điều 
kiện chưa hình thành hoàn chỉnh 
các bộ quy chế quản lý, điều chỉnh 
mối quan hệ giữa công ty mẹ với 
các công ty trong từng lĩnh vực; 
nhất là trong lĩnh vực đầu tư, 
quản lý tài chính và chế độ báo 
cáo cùng với trình độ của đội ngũ 
cán bộ quản lý chưa theo kịp yêu 
cầu, dẫn đến lúng túng trong quản 
lý, kiểm tra, giám sát. Lợi thế của 
các TĐKT không chỉ thể hiện ở 
chỗ được kinh doanh ngành nghề 
quan trọng mà còn được nhiều ưu 
đãi khác từ cơ chế, thế nhưng, hiệu 
quả hoạt động của khu vực kinh tế 
này không tương xứng với nguồn 
lực được đầu tư. Theo số liệu của 
Tổng cục Thống kê, doanh nghiệp 
nhà nước (DNNN) phải sử dụng 
tới 2,2 đồng vốn để tạo ra 1 đồng 
doanh thu trong khi doanh nghiệp 
tư nhân (DNTN) chỉ cần 1,2 đồng 
vốn, doanh nghiệp có vốn đầu 
tư nước ngoài là 1,3 đồng (năm 
2009). Tỉ suất lợi nhuận trên vốn 
chủ sở hữu của các DNNN chỉ đạt 
16,5%, tương đương chi phí vay 
vốn ngân hàng và chỉ tập trung ở 
một số ít TĐKT có lợi thế như dầu 
khí, viễn thông, than khoáng sản 
Trong khi những “quả đấm thép” 
như mục tiêu ban đầu chưa được 
hình thành thì do chưa bảo đảm 
các yêu cầu về an toàn tài chính, 
đã xuất hiện những “con tàu đắm” 
như Vinashin, Vinalines làm nền 
kinh tế xấu đi. Đó chỉ là bề nổi của 
tảng băng chìm vì có đến 30/85 
TĐKT, Tổng công ty (TCT) có tỷ 
lệ nợ phải trả/vốn chủ sở hữu trên 
3 lần. Đặc biệt, có 7 TĐKT, TCT 
có tỷ lệ nợ trên 7 lần, không khác 
nào những quả bom nổ chậm đe 
dọa sự an toàn của cả nền kinh tế. 
Cũng theo Đề án tái cơ cấu doanh 
nghiệp nhà nước của Bộ Tài chính 
trình bày tại Phiên họp thường kỳ 
chính phủ tháng 4, tính đến tháng 
9/2011, dư nợ vay ngân hàng của 
DNNN lớn là 415.347 tỷ đồng 
tương đương 16,9% tổng dư nợ cả 
nước. Trong đó, hơn một nửa 
số nợ tập trung vào 12 TĐKT 
nhà nước (218.738 tỷ) chiếm 
8,76% tổng dư nợ toàn ngành 
ngân hàng. Đề án nhận định 
tình hình tài chính của nhiều 
tập đoàn, tổng công ty chưa 
đảm bảo các yêu cầu về an 
toàn tài chính, đang tiềm tàng 
nhiều nguy cơ rủi ro và đổ vỡ 
khi kinh doanh không hiệu quả.
- Đầu tư dàn trải, chồng chéo 
không phù hợp với nhiệm vụ được 
giao
Phần lớn các tập đoàn đã đầu tư 
vào những ngành, lĩnh vực khác, 
kể cả những ngành, lĩnh vực rủi ro 
cao, trong khi năng lực tài chính và 
kinh nghiệm quản lý còn chưa theo 
kịp nên đã ảnh hưởng đến hiệu quả 
hoạt động và việc tập trung các 
nguồn lực vào thực hiện nhiệm vụ 
chính do Nhà nước giao. Nguyên 
nhân chủ yếu là do chưa có quy 
định về khái niệm ngành, lĩnh 
vực kinh doanh chính và ngành, 
lĩnh vực kinh doanh có liên quan 
cũng như mức độ cho phép đầu 
tư ra ngoài ngành, lĩnh vực kinh 
doanh chính và ngành, lĩnh vực 
kinh doanh có liên quan. Việc mở 
rộng đầu tư vào các ngành ít liên 
Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014 PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP 
 Nghiên Cứu & Trao Đổi
25
quan đến ngành kinh doanh chính 
như vậy sẽ làm phân tán nguồn lực, 
hiệu quả không cao và chứa đựng 
rủi ro lớn. Có thể thấy, sự bành 
trướng quá nhanh và liên kết ngày 
càng chặt chẽ của các TĐKT nhà 
nước sẽ làm cho sự kiểm soát của 
Nhà nước đối với các TĐKT trở 
nên khó khăn. 
4.3. Quan hệ sở hữu chưa rõ, 
phân tán, chồng chéo nên sự 
phối, kết hợp trong quản lý, giám 
sát gặp nhiều khó khăn 
Chức năng của chủ sở hữu, chức 
năng quản lý nhà nước và chức 
năng điều hành kinh doanh đối với 
TĐKT chưa được phân định rạch 
ròi. Đối với chủ sở hữu, chức năng 
chính là chiếm hữu và định đoạt 
vốn của Nhà nước. Vốn phải thuộc 
về một chủ đích thực và khi người 
chủ chưa được xác định rõ chức 
năng chủ sở hữu để thực hiện triệt 
để thì việc suy giảm chức năng là 
điều khó tránh khỏi. Về thực chất 
đây là việc chưa xác định đích thực 
chủ sở hữu vốn nhà nước trong 
hệ thống các cơ quan quản lý nhà 
nước cho nên khó có cơ quan nào 
chịu trách nhiệm đặc biệt khi xây 
ra tình trạng thua lỗ, thất thoát. Sự 
chồng chéo về chức năng quản lý 
và thiếu sự phối hợp đầy đủ trong 
quản lý, theo dõi, giám sát, thanh 
tra, kiểm tra vừa không thực hiện 
được mục tiêu quản lý vừa gây khó 
khăn đối với doanh nghiệp.
5. Một số giải pháp trong quá 
trình tái cơ cấu TĐKT ở VN 
Để các TĐKT thực sự là những 
mũi nhọn trong các lĩnh vực kinh tế 
then chốt, dẫn dắt và tạo động lực 
cũng như tạo ra những bước đột 
phá trong quá trình phát triển của 
nền kinh tế trong xu thế hội nhập 
cần thiết phải tái cơ cấu. Tái cơ cấu 
(hay tái cấu trúc) các TĐKT hiện 
này là quá trình hoàn thiện các quy 
phạm pháp lý liện quan đến các 
TĐKT, xác định những lĩnh vực 
kinh tế cần tổ chức các TĐKT, điều 
chỉnh quan hệ sở hữu và cơ chế 
quản lý giám sát, có như vậy vai trò 
kinh tế cũng như sức cạnh tranh và 
nâng cao hiệu quả hoạt động của 
các TĐKT mới có thể phát huy tốt. 
Cụ thể là:
5.1. Tiếp tục hoàn thiện thể chế, 
pháp luật để quản lý và giám sát 
hiệu quả.
Nhà nước sớm ban hành các 
quy định về tính pháp lý, mô hình 
và nguyên tắc hình thành các 
TĐKT, những yêu cầu và tiêu chí 
về quy mô tổ chức, phương pháp tổ 
chức, các hệ thống quản lý, đội ngũ 
cán bộ, số vốn pháp định, các chỉ 
tiêu kinh tế tối thiểu... Song song 
với khung khổ cơ bản nhất về pháp 
lý, Nhà nước có những quy định rõ 
ràng hơn trong cơ chế hoạt động 
và mối quan hệ bên trong mỗi tập 
đoàn liên quan đến kinh doanh, đầu 
tư, tài chính, thông tin, nhân sự, tài 
sản, trách nhiệm... Quan trọng nhất 
là phải xác định và phân biệt một 
cách rõ ràng hơn nữa vai trò quản 
lý của Nhà nước và của chủ sở hữu. 
Đổi mới thể chế về đầu tư, các cơ 
quan chức năng cần ban hành kịp 
thời các văn bản hướng dẫn thực 
hiện cho các doanh nghiệp, trong 
đó cần công khai những ưu đãi đầu 
tư.
5.2. Xác định rõ các lĩnh vực hoạt 
động cho các TĐKT nhà nước.
Xuất phát từ thực trạng hoạt 
động của các TĐKT hiện nay, tình 
hình kinh tế đất nước cũng như 
bối cảnh toàn cầu hóa, cần tổ chức 
lại các TĐKT theo từng lĩnh vực 
chuyên sâu, tập trung vào các lĩnh 
vực then chốt của nền kinh tế. Có 
như vậy mới có thể tập các nguồn 
lực của Nhà nước vào những 
ngành, lĩnh vực cần hình thành 
TĐKT như các ngành, lĩnh vực 
liên quan đến an ninh quốc gia về 
kinh tế; quản lý, khai thác nguồn tài 
nguyên và khoáng sản quan trọng; 
quản lý, khai thác các cơ sở hạ tầng 
quan trọng của nền kinh tế quốc 
dân; bảo đảm cân đối lớn của nền 
kinh tế quốc dân, tạo động lực cho 
các ngành, lĩnh vực khác và toàn 
bộ nền kinh tế; đồng thời, quy định 
những ràng buộc về mối liên kết 
giữa các doanh nghiệp thành viên 
nhằm hạn chế việc thành lập các 
TĐKT nhà nước một cách tràn lan, 
thiếu kiểm soát, qua đó mới thúc 
đẩy liên kết trong chuỗi gia trị gia 
tăng, nâng cao khả năng cạnh tranh 
và hội nhập kinh tế quốc tế. 
5.3. Điều chỉnh quan hệ sở hữu, 
đổi mới cơ chế quản lý, giám sát 
TĐKT.
Về quan hệ sở hữu, vấn đề xác 
định chủ sở hữu là yếu tố then chốt 
để tạo động lực cho các tổng công 
ty và doanh nghiệp thành viên. 
Thực hiện đa dạng hóa sở hữu bằng 
cách: Tiếp tục đẩy mạnh cổ phần 
hóa, phát hành trái phiếu, tham gia 
thị trường tài chính là những kênh 
để huy động vốn cho TĐKT.
Về cơ chế quản lý, quy định 
rõ trách nhiệm của các Bộ, ngành 
trong việc quản lý và giám sát 
TĐKT, giám sát công ty mẹ thành 
lập doanh nghiệp mới, góp vốn 
vào doanh nghiệp khác thuộc lĩnh 
vực có nguy cơ rủi ro, giám sát các 
danh mục đầu tư, các ngành nghề 
kinh doanh chính và ngành nghề 
liên quan; đánh giá năng lực cán bộ 
lãnh đạo doanh nghiệp; giám sát, 
đánh giá hoạt động tài chính, kết 
quả kinh doanh của công ty mẹ và 
toàn bộ hoạt động của TĐKT, giám 
sát việc tăng vốn điều lệ của công 
ty mẹ và các doanh nghiệp thành 
viên, phát hành cổ phiếu, việc vay 
vốn đầu tư vào lĩnh vực tài chính, 
PHÁT TRIỂN & HỘI NHẬP Số 18 (28) - Tháng 09-10/2014
Nghiên Cứu & Trao Đổi
26
ngân hàng, chứng khoán, bất động 
sản; giám sát việc chuyển dịch vốn, 
đầu tư, các nguồn lực bên trong tập 
đoàn và ngoài tập đoàn; giao quyền 
và năng lực đầy đủ cho kiểm toán 
nhà nước để kiểm toán thường 
xuyên TĐKT nhà nước. Xây dựng 
cơ chế về mối quan hệ, liên kết và 
tính liên thông giữa các tập đoàn để 
phục vụ cho lợi ích chung. Có như 
vậy mới nâng cao năng lực cạnh 
tranh của các TĐKT và giải phóng 
được các nguồn lực kinh tế khác.
6. Kết luận
Có thể khẳng định rằng chủ 
trương của Đảng và quyết sách 
của Nhà nước về việc xây dựng 
các TĐKT nhà nước thành các tập 
đoàn mạnh, làm nòng cốt của kinh 
tế nhà nước, tạo ra sức mạnh vật 
chất để kinh tế nhà nước đóng vai 
trò chủ đạo dẫn dắt sự phát triển 
kinh tế ở nước ta được thực tiễn 
xác nhận là một chủ trương đúng, 
một quyết sách kịp thời. Tuy nhiên, 
qua thực tế hoạt động, những bất 
hợp lý trong quản lý đã và đang 
bộc lộ, cần thiết phải nhận diện và 
luận chứng đầy đủ hơn về sự chín 
muồi các tất yếu kinh tế cho sự hình 
thành các tập đoàn. Những tình 
huống phát sinh trong sự vận động 
của TĐKT nhà nước cần được nhìn 
từ cấu trúc hệ thống và các quan hệ 
nội tại. Để các TĐKT thực sự là lực 
lượng kinh tế dẫn dắt, cần tái cấu 
trúc, tổ chức lại cơ cấu, trong đó có 
cơ cấu ngành nghề, những mối liên 
kết hợp tác, phát triển mở rộng tập 
đoàn trong nước và trên thế giới, 
các vấn đề tổ chức nhân sự  tạo 
động lực, giúp mô hình kinh tế này 
vượt qua các điểm nghẽn trong quá 
trình phát triểnl
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Chính phủ (1994), Quyết định số 91//TTg 
ngày 07/3/1994 của Thủ tướng Chính 
phủ về việc thí điểm thành lập tập đoàn 
kinh doanh.
Chính phủ (2007), Nghị định số 139/NĐ- CP 
ngày 05 tháng 09 năm 2007 hướng dẫn 
chi tiết thi hành một số điều của Luật 
Doanh nghiệp.
Chính phủ (2010), Nghị định số 102/2010/
NĐ – CP, ngày 01 tháng 10 năm 2010, 
Hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều 
của Luật Doanh nghiệp.
Doãn Hữu Tuệ (2008), Loạt bài về “Tập 
đoàn kinh tế”, www.tuanvietnam.net;
Đảng Cộng sản VN (2001), Nghị quyết Hội 
nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng 
lần thứ ba, khóa IX (tháng 9/2001);
Lưu Đức Khải (2009), “Phát triển các TĐKT 
ở VN trong điều kiện hội nhập kinh tế 
quốc tế”, Tạp chí Cộng sản số 6/2009;
Quốc hội nước CHXHCN VN (2005), Luật 
doanh nghiệp 2005
Trung tâm thông tin – tư liệu, Viện Nghiên 
cứu quản lý kinh tế trung ương (2010), 
“Tập đoàn kinh tế VN, thực trạng và xu 
hướng phát triển”, vnep.org.vn.
Tất nhiên, những chính sách phát triển CNPT của Nhà nước không 
thể thay thế sự chủ động của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh sản 
phẩm phụ trợ. Điều đó bao gồm sự chủ động nghiên cứu thị trường, tìm 
kiếm đối tác để kết nối, cung ứng sản phẩm, chủ động đào tạo nguồn nhân 
lực cho sự phát triển của chính doanh nghiệp của mình và sẵn sàng nhận 
chuyển giao công nghệ khi cần thiết để sản xuất sản phẩm đáp ứng nhu 
cầu của các tập đoàn lớn. Tác giả xem đây là định hướng nghiên cứu tiếp 
theo l
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Bộ Công nghiệp (2007), Quyết định phê duyệt Quy hoạch phát triển công nghiệp hỗ trợ đến 
năm 2010, tầm nhìn đến năm 2020, QĐ số 34/2007/QĐ-BCN, Hà Nội, ngày 31 tháng 7 
năm 2007.
Bộ Công thương (2010), Quyết định 6209/QĐ-BCT ngày 25 tháng 11 năm 2010 phê duyệt Quy 
hoạch tổng thể phát triển ngành da – giầy VN đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2025.
Bộ Công thương (2014), Quyết định 3218/QĐ-BCT ngày 11 tháng 04 năm 2014 phê duyệt 
Quy hoạch phát triển ngành công nghiệp dệt may VN đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 
2030.
Diễn đàn Phát triển VN (VDF) (2006), Báo cáo của VDF: Công nghiệp phụ trợ VN dưới góc 
nhìn của các nhà sản xuất Nhật, tháng 6 năm 2006
Diễn đàn Phát triển VN (VDF) (2011), Điều tra so sánh bối cảnh, biện pháp chính sách và 
kết quả phát triển công nghiệp hỗ trợ ở ASEAN (Malaysia và Thái Lan so sánh với VN), 
Hà Nội, tháng 1 năm 2011.
Hoàng Văn Châu & cộng sự (2011), Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở VN đến năm 
2020, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước
Mori, J. (2005), Development of Supporting Industries for Vietnam’s Industrialization: 
Increasing Positive Vertical Externalities Through Collaborative Training, Master of Arts 
in Law and Diplomacy Thesis, The Fletcher School, Tufts University
Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định về chính sách phát triển một số ngành công nghiệp 
hỗ trợ, QĐ số 12/2011/QĐ-TTg, Hà Nội, ngày 24 tháng 2 năm 2011
Thủ tướng Chính phủ (2011), Quyết định về việc ban hành danh mục sản phẩm công nghiệp 
hỗ trợ ưu tiên phát triển, QĐ số 1483/QĐ-TTg, Hà Nội, ngày 26 tháng 8 năm 2011.
Võ Thanh Thu, Nguyễn Đông Phong & cộng sự (2014), Nhập siêu ở Đồng Nai: Thực trạng và 
giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp tỷnh năm 2014.
(Tiếp theo trang 20)
Phát triển công nghiệp phụ trợ...

File đính kèm:

  • pdftai_co_cau_de_phat_trien_cac_tap_doan_kinh_te_nha_nuoc_tai_v.pdf