Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam
Chiến lược tăng trưởng xanh tại Việt Nam là phương thức thúc đẩy
quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả
tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với
biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực
thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Tài chính
xanh là một phương thức quan trọng trong chiến lược tăng trưởng
xanh. Bài viết này làm rõ những cơ hội và thách thức trong phát
triển tài chính xanh tại Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra
một số gợi ý nhằm phát triển hiệu quả tài chính xanh tại Việt Nam
giai đoạn hiện nay.
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam
23THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171 Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam ThS. HỒ HẠNH MỸ Chiến lược tăng trưởng xanh tại Việt Nam là phương thức thúc đẩy quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Tài chính xanh là một phương thức quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh. Bài viết này làm rõ những cơ hội và thách thức trong phát triển tài chính xanh tại Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra một số gợi ý nhằm phát triển hiệu quả tài chính xanh tại Việt Nam giai đoạn hiện nay. Từ khóa: Tài chính xanh, tăng trưởng xanh, phát triển bền vững. 1. Giới thiệu ăng trưởng xanh đã và đang được xác định là vấn đề trọng tâm trong chính sách phát triển của nhiều quốc gia trên thế giới nhằm hướng tới sự phát triển bền vững. Tăng trưởng xanh là một chương trình lâu dài, liên tục, cần có sự tham gia của nhiều đơn vị, nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác nhau. Nằm chung trong xu thế phát triển của thế giới, tại Việt Nam, tăng trưởng xanh được xác định là một chiến lược hướng đến phát triển bền vững. Ngày 25/9/2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định 1393/ QĐ-TTg. Ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2014- 2020. Tiếp đó, ngày 06/8/2015, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Ngày 20/10/2015, Bộ trưởng Bộ Tài chính đã ký Quyết định số 2183/QĐ-BTC ban hành Kế hoạch hành động của ngành Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020. Như vậy, khuôn khổ cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam đã được hình thành. Song với một nước đang phát triển như Việt Nam, nguồn ngân sách quốc gia còn eo hẹp và sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế về vốn có giới hạn thì việc tham gia tích cực của hệ thống tài chính trong chiến dịch xanh hóa nền kinh tế có vai trò hết sức quan trọng. Theo Chương trình Môi trường của Liên Hiệp Quốc (UNEP, 2016), kinh tế xanh là một nền kinh tế nhằm cải thiện hạnh phúc con người, công bằng xã hội và giảm thiểu đáng kể những nguy cơ kiệt quệ về môi sinh. Kinh tế xanh là nền kinh tế ở đó con người là trung tâm, các chính sách tạo ra các nguồn lực mới Chính sách & thị trường tài chính - tiền tệ 24 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016 về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng. Tăng trưởng xanh là mô hình phát triển chú trọng nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay đổi cơ cấu sản xuất và tiêu dùng theo hướng bền vững và cải thiện đời sống người dân, giảm phát thải khí nhà kính, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí hậu (UNEP, 2016). Tài chính xanh hướng tới tăng trưởng của ngành tài chính trong mục tiêu chung của phát triển bền vững. Chưa có khái niệm thống nhất về tài chính xanh, song cơ bản tài chính xanh được hiểu như sau: Tài chính xanh liên quan đến việc đa dạng hoá các sản phẩm và dịch vụ tài chính cung cấp bởi các định chế tài chính hướng tới sự phát triển bền vững của quốc gia (UNEP, 2016). Tài chính xanh là những hỗ trợ về tài chính hướng đến tăng trưởng xanh thông qua việc cắt giảm khí phát thải nhà kính và ô nhiễm môi trường một cách có ý nghĩa (Chowdhury và cộng sự, 2013). Tài chính xanh là nguyên lý của tín dụng xanh, bao gồm các biện pháp quản lý trong đó yêu cầu các ngân hàng thương mại và các định chế tài chính khác thực hiện các nghiên cứu và phát triển để tạo ra các sản phẩm đối phó với tình trạng ô nhiễm môi trường, bảo vệ và khôi phục môi trường sinh thái. Tài chính xanh khuyến khích phát triển và sử dụng các nguồn năng lượng mới, sản xuất các sản phẩm xanh, sản xuất nông nghiệp sinh thái thông qua cho vay ưu đãi lãi suất đối với các doanh nghiệp; đồng thời giới hạn các dự án mới của các doanh nghiệp gây ô nhiễm cùng với việc áp dụng lãi suất cao (Xu, 2013). Trước thách thức về an ninh năng lượng và ô nhiễm môi trường, một số quốc gia trên thế giới đã chuyển đổi sang nền kinh tế xanh. Nền kinh tế xanh là nền kinh tế sử dụng tài nguyên có hiệu quả cao, có mức phát thải thấp và hướng tới công bằng xã hội. Xanh hóa nền kinh tế tạo ra động lực tăng trưởng mới, tạo thêm việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo. Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới xây dựng nền kinh tế xanh là hướng tiếp cận mới với nhiều thử thách và khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, đó là con đường mà Việt Nam phải lựa chọn trong dài hạn vì con đường đó phù hợp với xu thế phát triển chung của nền kinh tế toàn cầu. Tài chính xanh là một phương thức quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh của các quốc gia trên thế giới. Tuy nhiên, tài chính xanh vẫn khá mới mẻ trong nhận thức cũng như thực tiễn với nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nâng cao nhận thức về tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững, xác định những cơ hội và thách thức trong quá trình áp dụng tại Việt Nam là điều hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay. 2. Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững- Cơ hội và thách thức Các quốc gia theo đuổi chính sách kinh tế xanh có thể đạt được các lợi ích về kinh tế qua việc nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất, tiết kiệm nguyên liệu đầu vào, tạo lợi thế cạnh tranh cho các loại hàng hóa và dịch vụ môi trường. Bên cạnh đó, nền kinh tế xanh có nhiều tiềm năng phát triển những ngành nghề mới như du lịch sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông công cộng, công nghiệp xanh, dịch vụ môi trường sẽ tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động. Lựa chọn tăng trưởng xanh là hướng đi phù hợp để giúp Việt Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước trong khu vực trong thời gian tương đối ngắn. 2.1. Xây dựng tài chính xanh trong hệ thống ngân hàng Các yếu tố cơ bản của tài chính xanh trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm hoạt động cho vay dựa trên thị trường hay các hoạt động kinh doanh đầu tư, bao gồm nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, tài trợ dự án, quản trị tài sản, những khoản cho vay và đầu tư tài chính Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tập trung vào 03 nhiệm vụ sau đây: i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; ii) Xanh hóa sản xuất; iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. 25THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171 Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tập trung vào 03 nhiệm vụ sau đây: i) Giảm cường độ phát thải khí nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; ii) Xanh hóa sản xuất; iii) Xanh hóa lối sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững. gắn với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. Trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, tài chính xanh không chỉ là việc các ngân hàng giảm thiểu các tác động tiêu cực đến môi trường trong hoạt động của chính mình mà bao gồm cả việc đảm bảo rằng hoạt động tài trợ của mình phải dành cho các doanh nghiệp xanh và các công nghệ xanh. Các ngân hàng phải phát triển các sản phẩm tài chính xanh và thị trường xanh hướng tới tăng trưởng kinh tế các-bon thấp. Các chính sách phát triển tài chính xanh gắn liền với các thỏa thuận và hiệp ước bảo vệ môi trường ở tầm quốc tế, khu vực, quốc gia và từng ngân hàng. Lưu ý rằng, việc theo đuổi các chính sách phát triển theo các thoả thuận và hiệp ước bảo vệ môi trường ở tầm quốc tế không mang tính bắt buộc. Tuy nhiên các quốc gia đều có động lực để theo đuổi vì phát triển bền vững là mục tiêu mà các quốc gia đang hướng tới. Có thể kể ra một số thỏa thuận và hiệp ước bảo vệ môi trường như sau: Sáng kiến Tài chính cho chương trình bảo vệ môi trường của Liên hợp quốc- UNEPFI (The United Nations Environment Program Finance Initiative) được đưa ra vào năm 1992 và đã được áp dụng trong các định chế tài chính. Sáng kiến này nhắm vào việc khuyến khích các định chế tài chính tài trợ cho phát triển các nguồn năng lượng mới và sạch; không tài trợ cho các khoản đầu tư gây mất cân bằng sinh thái, biến đổi khí hậu, chất thải độc hại. Nguyên tắc xích đạo- EPs (The Equator Principles) được đưa ra năm 2003 với các chuẩn mực mang tính tự nguyện liên quan đến những quyết định, đánh giá và quản lý các rủi ro về môi trường và xã hội trong việc thẩm định dự án. Các đơn vị áp dụng nguyên tắc này được gọi là Các định chế tài chính theo nguyên tắc Xích đạo. Các định chế phải xây dựng chính sách, chuẩn mực và quy trình tài trợ hướng tới bảo vệ môi trường và xã hội, và phải đảm bảo rằng không được tài trợ cho các dự án không thoả mãn các chuẩn mực của mình đưa ra. Đồng thời, các định chế tài chính phải có hướng dẫn cụ thể cho khách hàng của mình trong việc tuân thủ các nguyên tắc trong quá trình thực hiện dự án. Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc- UNGC (The UN Global Compact), bao gồm 10 nguyên tắc mang tính chất tự nguyện. Các ngân hàng áp dụng hiệp ước này cam kết không có hành vi tham nhũng, vi phạm quyền con người, tuân thủ các chuẩn mực lao động, trách nhiệm áp dụng các biện pháp bảo vệ môi trường, chống biến đổi khí hậu. UNGC không yêu cầu các ngân hàng phải xác nhận liệu các doanh nghiệp mà họ đầu tư vào áp dụng những chính sách tương tự. Nguyên tắc đầu tư có trách nhiệm của Liên hợp quốc- UNEPPRI (UN Principles for Responsible Investment) Sáng kiến PRI là mạng lưới quốc tế các nhà đầu tư làm việc cùng nhau nhằm đưa 6 nguyên tắc đầu tư có trách nhiệm đi vào thực tế. Mục đích của PRI là giúp các nhà đầu tư hiểu được sự quan trọng của đầu tư bền vững và hỗ trợ các bên ký vào cam kết có thể kết hợp chặt chẽ 6 nguyên tắc này vào quá trình đưa ra quyết định đầu tư cũng như khi thực hiện dự án. Cho đến nay, có khoảng 1.400 đối tượng cam kết thực hiện các nguyên tắc này, bao gồm cá nhân sở hữu tài sản, nhà đầu tư, công ty quản lý và các tổ chức dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp (UNEP, 2016). Đầu tư có trách nhiệm là một phương pháp đầu tư dựa trên sự nhận thức đầy đủ của nhà đầu tư đối với vấn đề môi trường, xã hội và quản trị doanh nghiệp (environmental, social and corporate governance- ESG), cũng như sức khỏe và sự ổn định lâu dài của toàn thị trường. Đầu tư có trách nhiệm đòi hỏi các nhà đầu tư và các doanh nghiệp cần có tầm nhìn rộng và sự hiểu biết thấu đáo để tìm ra cơ hội cũng như những thách thức. Từ đó, họ có thể sắp xếp nguồn lực hợp lý nhằm mang lại lợi ích trong cả ngắn hạn cũng như dài hạn cho khách hàng và những bên liên quan khác. Sáng kiến PRI được ban hành năm 2006 với 6 nguyên tắc, bao gồm: (i) Xem xét các nội dung EGS trong việc phân tích và đưa ra quyết định đầu tư; (ii) kết hợp các nội dung ESG trong thực hành và các chính sách sở hữu; (iii) tìm kiếm cách công bố thông tin về ESG thích hợp từ các đối tượng đầu tư; (iv) xúc tiến cho việc chấp thuận và áp dụng các nguyên tắc trong các ngành công nghiệp được đầu tư; (v) hợp tác để nâng cao hiệu lực của việc thực thi đầy đủ các nguyên tắc trên; và (vi) báo cáo các hoạt động tích cực và tiến độ thực thi đầy đủ các nguyên tắc này. Dự án kiểm soát khí thải các-bon- CDP (The Carbon Disclosure Project) 26 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016 Là một tổ chức phi lợi nhuận khuyến khích các doanh nghiệp, nhà đầu tư và các tổ chức khác báo cáo số liệu khí thải nhà kính và những nguy cơ tiềm ẩn làm biến đổi khí hậu do hoạt động của họ gây ra. Tuy nhiên, các công bố này mang tính chất tự nguyện, không bắt buộc đối với các doanh nghiệp vay vốn ngân hàng phải báo cáo mức khí thải các- bon. Sản phẩm tài chính xanh trong hệ thống ngân hàng Theo Roopa và cộng sự (2012), dựa trên đối tượng được tài trợ, tài chính xanh có thể được chia thành hai nhóm: cá nhân và doanh nghiệp. Với khách hàng cá nhân, chủ yếu dựa vào ưu đãi lãi suất (lãi suất tiền gửi cao và lãi suất cho vay thấp) hay các khoản chiết khấu trong các hoạt động xanh mang tính chất cá nhân. Tuy nhiên, tài chính xanh chủ yếu nhắm vào đối tượng doanh nghiệp nên các ưu đãi cho doanh nghiệp cao hơn ưu đãi dành cho cá nhân. Tài chính xanh cho doanh nghiệp chủ yếu là các sản phẩm công, tức là những sản phẩm với sự góp mặt của chính phủ. Trong đó, các ngân hàng ưa thích sản phẩm bảo lãnh công nhất, bởi lẽ các khoản vay của doanh nghiệp xanh được đảm bảo bởi Chính phủ. Trong giai đoạn đầu triển khai các công nghệ xanh và sản phẩm xanh thì sự đảm bảo của Chính phủ cho các doanh nghiệp là một sự đảm bảo có ý nghĩa đối với các ngân hàng. - Sản phẩm tài chính xanh dành cho cá nhân: Tài khoản tiết kiệm: Khách hàng tham gia các chiến dịch xanh, không sử dụng tài liệu giấy, trích lợi nhuận đóng góp cho các tổ chức gắn với tăng trưởng xanh. Thẻ tín dụng: Khách hàng được hưởng những ưu đãi như chiết khấu, tích lũy điểm dành cho chủ thẻ có những hoạt động thân thiện với môi trường. Quỹ: Khách hàng theo đuổi một mức lợi nhuận cố định và bảo vệ môi trường thông qua việc đầu tư vào các công ty xanh hoặc các công ty liên quan tới các hoạt động giảm thiểu khí thải nhà kính. Bảo hiểm: Khách hàng mua bảo hiểm xe đạp và được giảm phí bảo hiểm cho các hoạt động thân thiện với môi trường. Khoản vay khách hàng cá nhân: Dành cho cá nhân khi mua các sản phẩm thân thiện với môi trường như xe đạp, các loại xe giảm tiêu thụ các-bon. - Sản phẩm tài chính xanh dành cho doanh nghiệp: Khoản vay thông thường: Các ngân hàng tư nhân cung cấp những khoản vay cho các doanh nghiệp và doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thân thiện với môi trường. Khoản vay công: Bao gồm các khoản vay dùng để tài trợ cho việc lắp đặt máy phát điện năng lượng mặt trời, phổ biến năng lượng tái tạo, hợp lý hoá việc sử dụng năng lượng. Bảo lãnh công: Bảo lãnh cho một khoản vay cụ thể dùng để tài trợ cho công nghệ xanh, sản phẩm xanh và doanh nghiệp xanh. Bảo lãnh này cho phép các công ty vẫn vay được vốn từ ngân hàng khi không đủ tài sản thế chấp. Quỹ công cộng: Là sự kết hợp giữa các nhà đầu tư tư nhân và nhà đầu tư công nhằm để đầu tư vào các doanh nghiệp xanh. Vì các ngành công nghiệp xanh có rủi ro cao và lợi nhuận cao, quỹ này được xem là phù hợp cho các ngành công nghiệp hơn so với các khoản vay thông thường. Bảo hiểm công: Một loại sản phẩm bảo hiểm để loại bỏ các rủi ro trong xuất khẩu và thỏa thuận tín dụng của các doanh nghiệp xanh. Theo Roopa và cộng sự (2012), các sản phẩm tài chính xanh dành cho khách hàng cá nhân và doanh nghiệp nêu trên đã và đang được triển khai hiệu quả tại Hàn Quốc. Hàn Quốc là một trong những quốc gia Châu Á đi tiên phong trong áp dụng tài chính xanh, tăng trưởng xanh và đã đạt được những thành công nhất định. Sản phẩm tài chính xanh trong ngân hàng tại Việt Nam là vấn đề ... hệ hợp tác giữa các Sở GDCK với các cơ quan quản lý và cơ quan lập pháp, giới đầu tư, doanh nghiệp và những tổ chức có liên quan trên toàn thế giới. SSE Initiative mời các sàn GDCK trên toàn cầu trở thành đối tác cùng với SSE trong đó các sàn này tình nguyện cam kết một cách công khai đẩy mạnh việc hoàn thiện các thông tin ESG và việc thực hiện các nội dung này trong số các công ty niêm yết. Thêm vào đó, SSE chào đón các thành viên là những người làm luật, nhà đầu tư, công ty và các cổ đông chiến lược khác với tư cách là thành viên của nhóm tư vấn. Với sự hợp tác này, tính minh bạch trong việc quản trị doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Bên cạnh đó, các bên tham gia có cơ hội thảo luận và cam kết về trách nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và xã hội cũng như công bố các báo cáo phát triển bền vững của họ. Thông qua việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ, hội thảo, tọa đàm, ấn phẩm, nghiên cứu và các hoạt động chung khác, Sáng kiến SSE khuyến khích các Sở GDCK hướng tới các hoạt động đẩy mạnh đầu tư có trách nhiệm, cải thiện minh bạch thông tin về môi trường, xã hội và quản trị và hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp niêm yết. Diễn đàn đối thoại toàn cầu Sở GDCK phát triển bền vững là một trong những hoạt động chính yếu của Sáng kiến đươc định kỳ tổ chức 2 năm/lần. Đây là dịp để các Sở GDCK học hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội hợp tác nhằm thúc đẩy đầu tư bền vững trên thị trường chứng khoán (Tường Vi và Trịnh Hằng, 2015). Năm 2015, Sở GDCK TP.HCM và Sở GDCK Hà Nội chính thức trở thành đối tác của Sáng kiến Sở GDCK Phát triển Bền vững của Liên Hợp quốc cùng 19 Sở GDCK hàng đầu trên toàn cầu. Với việc gia nhập SSE, Sở GDCK TP.HCM thể hiện cam kết sẽ chia sẻ và thúc đẩy các thông lệ liên quan đến phát triển bền vững đối với các công ty niêm yết. Trong khi đó, Sở GDCK Hà Nội có cơ hội chia sẻ và học hỏi kinh nghiệm các thông lệ tốt về quản trị công ty và phát triển bền vững để từ đó khuyến khích áp dụng cho các doanh nghiệp niêm yết nhằm tăng cường quản trị công ty và trách nhiệm với xã hội. Tham gia SSE, cả hai Sở GDCK Việt Nam đều 28 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016 đưa ra mục tiêu thúc đẩy các doanh nghiệp niêm yết thực hiện trách nhiệm lập báo cáo phát triển bền vững hàng năm, hướng các doanh nghiệp đến văn hóa phát triển bền vững trong dài hạn. Khái niệm báo cáo phát triển bền vững đã được nhiều doanh nghiệp niêm yết biết đến khi từ năm 2013, trong khuôn khổ Cuộc bình chọn Báo cáo thường niên do Sở GDCK TP. HCM và Báo Đầu tư Chứng khoán khởi xướng (Tường Vi, 2015). Theo xu hướng phát triển chung của thế giới thì các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt khía cạnh bền vững thường thành công về mặt tài chính. UBCKNN khuyến khích các doanh nghiệp đưa hoạt động đầu tư có trách nhiệm với môi trường và xã hội vào hoạt động kinh doanh của mình. Trong tương lai, các tiêu chí báo cáo bền vững có khả năng trở thành quy định bắt buộc. Sự nỗ lực cao của cơ quan quản lý cùng với hoạt động vinh danh các doanh nghiệp quan tâm đến phát triển bền vững sẽ là yếu tố quan trọng khởi tạo văn hóa báo cáo bền vững trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam. 2.3. Thách thức trong quá trình phát triển tài chính xanh Theo Roopa và cộng sự (2012), những rào cản trong phát triển tài chính xanh trong việc tài trợ phát triển công nghệ sử dụng các-bon thấp bao gồm: Rào cản về tài chính: Những chính sách trợ giá của Chính phủ cho một số hoạt động sản xuất như khai thác nhiên liệu hóa thạch, khiến các doanh nghiệp này khai thác, sản xuất sản phẩm mà không quan tâm đến giá cả. Chính vì vậy, các doanh nghiệp không được khuyến khích theo đuổi sử dụng công nghệ các-bon thấp. Các ngành sử dụng công nghệ các-bon thấp đòi hỏi chi phí đầu tư rất cao, lợi nhuận thấp trong giai đoạn đầu phát triển. Rào cản về cấu trúc: Khi các ngành sử dụng công nghệ các-bon thấp còn nhỏ và manh mún thì các doanh nghiệp này chưa thể tận dụng lợi thế theo quy mô. Điều này không hấp dẫn các doanh nghiệp theo đuổi công nghệ các-bon thấp bởi lẽ khả năng phát triển là rất khó. Rào cản về công nghệ: Những công nghệ sử dụng các-bon thấp vẫn còn mới mẻ với phần lớn các quốc giá trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển. Những chính sách đầu tư và nguồn lực tài chính không thể phát huy tác dụng nếu không vượt qua được những rào cản về công nghệ. Phát triển tài chính xanh ở Việt Nam là hướng đi đúng đắn trong chiến dịch tăng trưởng xanh. Song cũng như các quốc gia đang phát triển khác, con đường này còn nhiều thách thức lớn trước mắt cần vượt qua. Những thách thức chủ yếu bao gồm: Thứ nhất: Nhận thức về tài chính xanh còn hạn chế. Thứ hai: Chính sách, luật pháp còn thiếu hoặc chưa hỗ trợ phát triển tài chính xanh. Thứ ba: Sự sẵn sàng chưa cao cho tài chính xanh. Thứ tư: Nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự án xanh, sản phẩm xanh còn eo hẹp. Tài chính xanh là khái niệm rất mới, mới với cơ quan quản lý nhà nước và mới với cả những thành viên tham gia thị trường. Các giải pháp về tài chính xanh còn ít trong chiến lược tăng trưởng xanh. Các ngân hàng thương mại truyền thống chưa sẵn sàng cung ứng sản phẩm và dịch vụ tài chính xanh. Đó chính là những hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm phát thải khí các-bon. Chuyên gia Roland Gross- Giám đốc Quỹ vùng đặc biệt về phát triển hệ thống tài chính ở Hội sở của Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) cho rằng các rào cản, thất bại thị trường trong triển khai hệ thống tài chính xanh xuất hiện ở cả ba cấp độ: Cấp chính sách; cấp ngân hàng và cấp doanh nghiệp. Các ngân hàng thường gặp khó khăn khi đánh giá các dự án tài chính xanh, đặc biệt liên quan đến các rủi ro do hạn chế về nhân sự có chuyên môn. Bên cạnh đó, các ngân hàng thường có thói quen cho vay dựa vào tài sản thế chấp hơn là dựa vào dòng tiền; các ngân hàng thường tập trung vào các dự án ngắn hạn hơn là các dự án dài hạn. Và một điều quan trọng không kém, đó là sự nhận thức và sẵn sàng cho tài chính xanh từ các định chế tài chính và các doanh nghiệp còn ở mức thấp. Đây đều là những yếu tố cản trở sự phát triển của tài chính xanh. 2.4. Cơ hội khi phát triển tài chính xanh Phát triển tài chính xanh hướng đến tăng trưởng xanh và phát triển bền vững là con đường tất yếu mà nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam lựa chọn. Bên cạnh những thử thách nói trên, trong 29THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171 bối cảnh vốn từ ngân sách Nhà nước và sự hỗ trợ từ các tổ chức quốc tế còn hạn chế thì đây cũng có thể xem là một cơ hội cho các tổ chức tài chính và doanh nghiệp Việt Nam. Phát triển tài chính xanh đem lại nhiều lợi ích bền vững cho chính các định chế tài chính, cho các doanh nghiệp được vay vốn và cho cả cộng đồng. Lợi ích có thể kể ra như lợi nhuận, danh tiếng, giá trị tăng thêm cho các định chế tài chính và các doanh nghiệp, công nghệ xanh và sạch, sản phẩm xanh, lối tiêu dùng xanh cho cả cộng đồng. Các doanh nghiệp tham gia các dự án xanh và sản xuất sản phẩm xanh cần phải đầu tư vào cơ sở hạ tầng và công nghệ xanh, sạch, thân thiện với môi trường. Trong dài hạn, điều này sẽ giúp cho các doanh nghiệp có thể giảm chi phí về năng lượng và chi phí sản xuất, từ đó gia tăng lợi nhuận. Các quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, có thể tránh được mô hình phát triển theo kiểu tăng trưởng trước, giải quyết hậu quả về thảm họa môi trường sau. Nhờ đó, môi trường sinh thái của quốc gia không bị đe dọa, tránh được chi phí lớn cho việc giải quyết hậu quả về môi trường. Lợi thế cạnh tranh, danh tiếng của doanh nghiệp, của quốc gia cũng được tăng thêm khi tài chính xanh hỗ trợ cho các dự án xanh và sản phẩm xanh trong nền kinh tế. Doanh nghiệp đầu tư vào công nghệ xanh và sản xuất sản phẩm xanh có thể phải cần nhiều vốn và gặp nhiều khó khăn trong giai đoạn đầu triển khai và áp dụng. Tuy nhiên, những doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh sẽ thu hút được nhiều vốn từ các nhà đầu tư, gia tăng lượng khách hàng, từ đó làm gia tăng giá trị của doanh nghiệp. Tài chính xanh cho các dự án xanh, công nghệ xanh và sản phẩm xanh sẽ thay đổi lối tiêu dùng xanh trong cộng đồng. Mục tiêu mà tài chính xanh hướng đến chính là việc giảm phát thải khí nhà kính, sử dụng nhiên liệu xanh sạch, thân thiện với môi trường, tránh sự kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái, tạo nên sự tăng trưởng và phát triển bền vững cho quốc gia. 3. Định hướng và gợi ý chính sách Tài chính xanh được ví như cơ sở hạ tầng cho quá trình tăng trưởng xanh. Trong quá trình phát triển tài chính xanh tồn tại không ít những khó khăn, bởi lẽ các dự án xanh cần được tài trợ bởi tài chính xanh tồn tại nhiều rủi ro. Vì vậy, ngân hàng và các định chế tài chính khác không mấy mặn mà với việc tài trợ này. Đối với các quốc gia đang phát triển trong giai đoạn đầu triển khai tăng trưởng xanh và kinh tế xanh như Việt Nam, sự tham gia và hỗ trợ tích cực của Chính phủ và sự hỗ trợ từ bên ngoài cho chiến lược tài chính xanh có vai trò hết sức quan trọng. Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô- Tăng trưởng xanh của GIZ đã nêu cam kết sẽ hỗ trợ UBCKNN phát triển chứng khoán xanh với mục tiêu xây dựng chính sách, quy định nhằm hỗ trợ huy động vốn trên thị trường vốn phục vụ cho đầu tư xanh (Chu Thái, 2015). Một số kiến nghị nhằm phát triển tài chính xanh ở Việt Nam được đưa ra như sau: Thứ nhất, Nhà nước nên ưu tiên và dành kinh phí thỏa đáng từ ngân sách trung ương và ngân sách địa phương để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, đặc biệt nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và phát triển năng lượng nhân tạo. Nhà nước tạo cơ sở pháp lý khuyến khích các tổ chức tài chính, các doanh nghiệp đầu tư nguồn lực để thực hiện các nhiệm vụ của Chiến lược Tăng trưởng xanh, trong đó có phát triển tài chính xanh. Thứ hai, Chính phủ nên đảm bảo một mức lợi nhuận tối thiểu để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành sử dụng công nghệ xanh và sản xuất các sản phẩm xanh. Khi nhận thức của người dân về việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xanh nâng cao thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm xanh, công nghệ xanh cũng có cơ hội phát triển. Việc đa dạng hóa sản phẩm xanh và các ngành sử dụng công nghệ sạch từ đó càng được mở rộng. Những doanh nghiệp đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ sử dụng các-bon thấp và sản xuất những sản phẩm sạch sẽ hưởng lợi nhiều nhất, bởi có hình ảnh đẹp trong mắt công chúng, lợi thế cạnh tranh cao và sản xuất đã đi vào ổn định. Các định chế tài chính được đánh giá cao bởi vai trò của chúng trong việc tài trợ để phát triển các doanh nghiệp xanh, công nghệ xanh, hướng đến sự phát triển bền vững của quốc gia. Thứ ba, các chính sách liên quan đến tài chính xanh sớm được ban hành cụ thể song song với những 30 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016 chính sách về tăng trưởng xanh. Ngành Tài chính sớm hoàn thiện khung chính sách tài chính nhằm phát triển thị trường vốn xanh và các sản phẩm tài chính xanh, trong đó có các quy định, điều kiện khi niêm yết cổ phiếu- niêm yết xanh, báo cáo- báo cáo bền vững và giám sát doanh nghiệp theo các tiêu chí tài chính xanh. Thứ tư, nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, tài chính xanh cho mọi đối tượng liên quan trong xã hội một cách thiết thực, hiệu quả và rộng rãi. Thứ năm, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước trong việc triển khai tài chính xanh. 4. Kết luận Thúc đẩy nền kinh tế xanh hướng đến tăng trưởng và phát triển bền vững là con đường mà Việt Nam đã lựa chọn. Trong quá trình đó, tài chính xanh là một giải pháp quan trọng. Đây là vấn đề còn mới mẻ tại Việt Nam trong nhận thức cũng như trong thực tiễn, với nhiều cơ hội và thách thức trước mắt. Vì vậy, trong giai đoạn hiện nay, cần có sự quyết tâm và sự vào cuộc của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, nhiều đơn vị để tài chính xanh trở thành hiện thực và có ý nghĩa thiết thực trong chiến lược xanh hóa nền kinh tế Việt Nam. ■ TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ Tài chính (2015), “Kế hoạch hành động của ngành Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 2020” tại Quyết định số 2183/QĐ-BTC. 2. Chu Thái (2015), “Xây lộ trình xanh hóa thị trường tài chính”, truy cập tại < khoan/2015-10-30/xay-lo-trinh-xanh-hoa-thi-truong-tai-chinh-25726.aspx>, [truy cập ngày 12/05/2016]. 3. Tường Vi (2015), “Sở GDCK chính thức “nhập cuộc” phát triển bền vững”, truy cập tại < khoan/so-gdck-chinh-thuc-nhap-cuoc-phat-trien-ben-vung-120154.html>, [truy cập ngày 12/05/2016]. 4. Tường Vi và Trịnh Hằng (2015), “Muốn hút vốn lớn, doanh nghiệp trước hết phải “sạch nước cản”, truy cập tại < hchungkhoan.vn/chung-khoan/muon-hut-von-lon-doanh-nghiep-truoc-het-phai-sach-nuoc-can-124760.html>, [truy cập ngày 12/05/2016]. 5. Chowdhury T., Datta R., and Mohajan H. (2013), “Green finance is essential for economic development and sustainability”, International Journal Of Research In Commerce, Economics & Management, vol. 3, no. 10. 6. Roopa T N., Rajan N, and Suhasini (2012), “Green Finance-The Trends and opportunities”, Journal of Management & Entrepre- neurship Research, vol. 1, no. 2, pp. 239-248. 7. The United Nations Environment Program, Finance Initiative, truy cập tại < ness/SectoralActivities/UNEPFI/tabid/78946/Default.aspx>, [truy cập ngày 26/04/2016]. 8. Xu, L. (2013), “On the Evaluation of Performance System Incorporating “Green Credit” Policies in China’s Financial Industry”, Journal of Financial Risk Management, vol.2, no. 2, pp. 33–37. SUMMARY Green finance for sustainable growth and development in Vietnam Green growth strategy in Vietnam is a way to accelerate the process of restructuring the economy towards efficient use of natural resources, reduction of greenhouse gas emissions and adaptation to climate change. This strategy will contribute to poverty reduction and will be the motivation for fast, efficient and sustainable economic development. Green finance is an important financial support in green growth strategy. This paper describes opportunities and challenges of green finance development in Vietnam. At the same time, the paper also provides some suggestions to develop green finance efficiently in Vietnam in current period. Keywords: green finance, green growth, sustainable development. THÔNG TIN TÁC GIẢ Hồ Hạnh Mỹ, Thạc sỹ Đơn vị công tác: Đại học Ngân hàng TP. HCM Lĩnh vực nghiên cứu chính: Hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng. Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng. Email: myhh@buh.edu.vn kết và thực hiện đúng tỷ lệ bội chi ngân sách theo chỉ tiêu được duyệt, sẽ tạo niềm tin cho thị trường. Nhưng nếu ngược lại, khi niềm tin của công chúng bị suy giảm, thì khó có thể kiểm soát được mặt bằng lãi suất. Ngân hàng HSBC dự báo mức bội chi ngân sách của Việt Nam 2016 sẽ rơi vào khoảng 6,6% GDP (cao hơn 1,65% so với chỉ tiêu 4,95% Quốc hội duyệt từ đầu năm). ■ tiếp theo trang 15
File đính kèm:
- tai_chinh_xanh_cho_tang_truong_va_phat_trien_ben_vung_tai_vi.pdf