Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam

Chiến lược tăng trưởng xanh tại Việt Nam là phương thức thúc đẩy

quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả

tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với

biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực

thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Tài chính

xanh là một phương thức quan trọng trong chiến lược tăng trưởng

xanh. Bài viết này làm rõ những cơ hội và thách thức trong phát

triển tài chính xanh tại Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra

một số gợi ý nhằm phát triển hiệu quả tài chính xanh tại Việt Nam

giai đoạn hiện nay.

pdf 8 trang kimcuc 15160
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam

Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển bền vững tại Việt Nam
23THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171
Tài chính xanh cho tăng trưởng và 
phát triển bền vững tại Việt Nam
ThS. HỒ HẠNH MỸ
Chiến lược tăng trưởng xanh tại Việt Nam là phương thức thúc đẩy 
quá trình tái cơ cấu nền kinh tế để tiến tới việc sử dụng hiệu quả 
tài nguyên thiên nhiên, giảm phát thải khí nhà kính, ứng phó với 
biến đổi khí hậu, góp phần xóa đói giảm nghèo và tạo động lực 
thúc đẩy phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả, bền vững. Tài chính 
xanh là một phương thức quan trọng trong chiến lược tăng trưởng 
xanh. Bài viết này làm rõ những cơ hội và thách thức trong phát 
triển tài chính xanh tại Việt Nam. Đồng thời, bài viết cũng đưa ra 
một số gợi ý nhằm phát triển hiệu quả tài chính xanh tại Việt Nam 
giai đoạn hiện nay.
Từ khóa: Tài chính xanh, tăng trưởng xanh, 
phát triển bền vững.
1. Giới thiệu 
ăng trưởng xanh đã và đang được xác 
định là vấn đề trọng tâm trong chính 
sách phát triển của nhiều quốc gia trên thế 
giới nhằm hướng tới sự phát triển bền 
vững. Tăng trưởng xanh là một chương trình 
lâu dài, liên tục, cần có sự tham gia của nhiều 
đơn vị, nhiều lĩnh vực, ngành nghề khác 
nhau. 
Nằm chung trong xu thế phát triển của thế 
giới, tại Việt Nam, tăng trưởng xanh được 
xác định là một chiến lược hướng đến phát 
triển bền vững. Ngày 25/9/2012, Thủ tướng 
Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược quốc gia 
về tăng trưởng xanh thời kỳ 2011- 2020 và 
tầm nhìn đến năm 2050 tại Quyết định 1393/
QĐ-TTg. Ngày 20/3/2014, Thủ tướng Chính 
phủ đã ban hành Quyết định số 403/QĐ-TTg 
phê duyệt Kế hoạch hành động quốc gia về 
tăng trưởng xanh giai đoạn 2014- 2020. Tiếp 
đó, ngày 06/8/2015, Thống đốc Ngân hàng 
Nhà nước Việt Nam đã có Quyết định số 
1552/QĐ-NHNN ban hành Kế hoạch hành 
động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến 
lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 
2020. Ngày 20/10/2015, Bộ trưởng Bộ Tài 
chính đã ký Quyết định số 2183/QĐ-BTC 
ban hành Kế hoạch hành động của ngành Tài 
chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng 
trưởng xanh đến năm 2020. Như vậy, khuôn 
khổ cho tăng trưởng xanh ở Việt Nam đã 
được hình thành. Song với một nước đang 
phát triển như Việt Nam, nguồn ngân sách 
quốc gia còn eo hẹp và sự hỗ trợ của các tổ 
chức quốc tế về vốn có giới hạn thì việc tham 
gia tích cực của hệ thống tài chính trong chiến 
dịch xanh hóa nền kinh tế có vai trò hết sức 
quan trọng.
Theo Chương trình Môi trường của Liên Hiệp 
Quốc (UNEP, 2016), kinh tế xanh là một 
nền kinh tế nhằm cải thiện hạnh phúc con 
người, công bằng xã hội và giảm thiểu đáng 
kể những nguy cơ kiệt quệ về môi sinh. Kinh 
tế xanh là nền kinh tế ở đó con người là trung 
tâm, các chính sách tạo ra các nguồn lực mới 
 Chính sách & thị trường tài chính - tiền tệ 
24 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016
về tăng trưởng kinh tế bền vững và bình đẳng.
Tăng trưởng xanh là mô hình phát triển chú trọng 
nâng cao chất lượng của tăng trưởng, thay đổi cơ 
cấu sản xuất và tiêu dùng theo hướng bền vững và 
cải thiện đời sống người dân, giảm phát thải khí nhà 
kính, nâng cao khả năng thích ứng với biến đổi khí 
hậu (UNEP, 2016). 
Tài chính xanh hướng tới tăng trưởng của ngành tài 
chính trong mục tiêu chung của phát triển bền vững. 
Chưa có khái niệm thống nhất về tài chính xanh, 
song cơ bản tài chính xanh được hiểu như sau: 
Tài chính xanh liên quan đến việc đa dạng hoá các 
sản phẩm và dịch vụ tài chính cung cấp bởi các định 
chế tài chính hướng tới sự phát triển bền vững của 
quốc gia (UNEP, 2016). 
Tài chính xanh là những hỗ trợ về tài chính hướng 
đến tăng trưởng xanh thông qua việc cắt giảm khí 
phát thải nhà kính và ô nhiễm môi trường một cách 
có ý nghĩa (Chowdhury và cộng sự, 2013). 
Tài chính xanh là nguyên lý của tín dụng xanh, bao 
gồm các biện pháp quản lý trong đó yêu cầu các 
ngân hàng thương mại và các định chế tài chính 
khác thực hiện các nghiên cứu và phát triển để tạo 
ra các sản phẩm đối phó với tình trạng ô nhiễm môi 
trường, bảo vệ và khôi phục môi trường sinh thái. 
Tài chính xanh khuyến khích phát triển và sử dụng 
các nguồn năng lượng mới, sản xuất các sản phẩm 
xanh, sản xuất nông nghiệp sinh thái thông qua cho 
vay ưu đãi lãi suất đối với các doanh nghiệp; đồng 
thời giới hạn các dự án mới của các doanh nghiệp 
gây ô nhiễm cùng với việc áp dụng lãi suất cao (Xu, 
2013).
Trước thách thức về an ninh năng lượng và ô nhiễm 
môi trường, một số quốc gia trên thế giới đã chuyển 
đổi sang nền kinh tế xanh. Nền kinh tế xanh là nền 
kinh tế sử dụng tài nguyên có hiệu quả cao, có mức 
phát thải thấp và hướng tới công bằng xã hội. Xanh 
hóa nền kinh tế tạo ra động lực tăng trưởng mới, 
tạo thêm việc làm và góp phần xóa đói giảm nghèo. 
Chuyển đổi phương thức phát triển, hướng tới xây 
dựng nền kinh tế xanh là hướng tiếp cận mới với 
nhiều thử thách và khó khăn trước mắt. Tuy nhiên, 
đó là con đường mà Việt Nam phải lựa chọn trong 
dài hạn vì con đường đó phù hợp với xu thế phát 
triển chung của nền kinh tế toàn cầu. 
Tài chính xanh là một phương thức quan trọng trong 
chiến lược tăng trưởng xanh của các quốc gia trên 
thế giới. Tuy nhiên, tài chính xanh vẫn khá mới mẻ 
trong nhận thức cũng như thực tiễn với nhiều quốc 
gia, trong đó có Việt Nam. Vì vậy, việc nâng cao 
nhận thức về tài chính xanh cho tăng trưởng và phát 
triển bền vững, xác định những cơ hội và thách thức 
trong quá trình áp dụng tại Việt Nam là điều hết sức 
cần thiết trong giai đoạn hiện nay.
2. Tài chính xanh cho tăng trưởng và phát triển 
bền vững- Cơ hội và thách thức
Các quốc gia theo đuổi chính sách kinh tế xanh có 
thể đạt được các lợi ích về kinh tế qua việc nâng 
cao hiệu quả sử dụng năng lượng trong sản xuất, tiết 
kiệm nguyên liệu đầu vào, tạo lợi thế cạnh tranh cho 
các loại hàng hóa và dịch vụ môi trường. Bên cạnh 
đó, nền kinh tế xanh có nhiều tiềm năng phát triển 
những ngành nghề mới như du lịch sinh thái, nông 
nghiệp hữu cơ, năng lượng tái tạo, giao thông công 
cộng, công nghiệp xanh, dịch vụ môi trường sẽ 
tạo ra cơ hội việc làm cho người lao động. Lựa chọn 
tăng trưởng xanh là hướng đi phù hợp để giúp Việt 
Nam thu hẹp khoảng cách phát triển với các nước 
trong khu vực trong thời gian tương đối ngắn.
2.1. Xây dựng tài chính xanh trong hệ thống ngân 
hàng
Các yếu tố cơ bản của tài chính xanh trong lĩnh vực 
ngân hàng bao gồm hoạt động cho vay dựa trên thị 
trường hay các hoạt động kinh doanh đầu tư, bao 
gồm nghiệp vụ ngân hàng bán lẻ, tài trợ dự án, quản 
trị tài sản, những khoản cho vay và đầu tư tài chính 
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tập trung vào 03 nhiệm vụ sau đây: i) Giảm cường độ phát thải khí 
nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; ii) Xanh hóa sản xuất; iii) Xanh hóa lối 
sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
25THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171
Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh trong giai đoạn 2011- 2020 và tầm nhìn đến năm 2050 của Thủ tướng Chính phủ Việt Nam tập trung vào 03 nhiệm vụ sau đây: i) Giảm cường độ phát thải khí 
nhà kính và thúc đẩy sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo; ii) Xanh hóa sản xuất; iii) Xanh hóa lối 
sống và thúc đẩy tiêu dùng bền vững.
gắn với trách nhiệm xã hội và bảo vệ môi trường. 
Trong hoạt động của hệ thống ngân hàng, tài chính 
xanh không chỉ là việc các ngân hàng giảm thiểu 
các tác động tiêu cực đến môi trường trong hoạt 
động của chính mình mà bao gồm cả việc đảm bảo 
rằng hoạt động tài trợ của mình phải dành cho các 
doanh nghiệp xanh và các công nghệ xanh. Các 
ngân hàng phải phát triển các sản phẩm tài chính 
xanh và thị trường xanh hướng tới tăng trưởng kinh 
tế các-bon thấp. Các chính sách phát triển tài chính 
xanh gắn liền với các thỏa thuận và hiệp ước bảo vệ 
môi trường ở tầm quốc tế, khu vực, quốc gia và từng 
ngân hàng. Lưu ý rằng, việc theo đuổi các chính 
sách phát triển theo các thoả thuận và hiệp ước bảo 
vệ môi trường ở tầm quốc tế không mang tính bắt 
buộc. Tuy nhiên các quốc gia đều có động lực để 
theo đuổi vì phát triển bền vững là mục tiêu mà các 
quốc gia đang hướng tới. Có thể kể ra một số thỏa 
thuận và hiệp ước bảo vệ môi trường như sau:
Sáng kiến Tài chính cho chương trình bảo vệ môi 
trường của Liên hợp quốc- UNEPFI (The United 
Nations Environment Program Finance Initiative) 
được đưa ra vào năm 1992 và đã được áp dụng 
trong các định chế tài chính. Sáng kiến này nhắm 
vào việc khuyến khích các định chế tài chính tài trợ 
cho phát triển các nguồn năng lượng mới và sạch; 
không tài trợ cho các khoản đầu tư gây mất cân 
bằng sinh thái, biến đổi khí hậu, chất thải độc hại. 
Nguyên tắc xích đạo- EPs (The Equator Principles) 
được đưa ra năm 2003 với các chuẩn mực mang tính 
tự nguyện liên quan đến những quyết định, đánh giá 
và quản lý các rủi ro về môi trường và xã hội trong 
việc thẩm định dự án. Các đơn vị áp dụng nguyên 
tắc này được gọi là Các định chế tài chính theo 
nguyên tắc Xích đạo. Các định chế phải xây dựng 
chính sách, chuẩn mực và quy trình tài trợ hướng 
tới bảo vệ môi trường và xã hội, và phải đảm bảo 
rằng không được tài trợ cho các dự án không thoả 
mãn các chuẩn mực của mình đưa ra. Đồng thời, 
các định chế tài chính phải có hướng dẫn cụ thể cho 
khách hàng của mình trong việc tuân thủ các nguyên 
tắc trong quá trình thực hiện dự án.
Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc- UNGC (The 
UN Global Compact), bao gồm 10 nguyên tắc mang 
tính chất tự nguyện. Các ngân hàng áp dụng hiệp 
ước này cam kết không có hành vi tham nhũng, vi 
phạm quyền con người, tuân thủ các chuẩn mực lao 
động, trách nhiệm áp dụng các biện pháp bảo vệ 
môi trường, chống biến đổi khí hậu. UNGC không 
yêu cầu các ngân hàng phải xác nhận liệu các doanh 
nghiệp mà họ đầu tư vào áp dụng những chính sách 
tương tự.
Nguyên tắc đầu tư có trách nhiệm của Liên hợp 
quốc- UNEPPRI (UN Principles for Responsible 
Investment)
Sáng kiến PRI là mạng lưới quốc tế các nhà đầu tư 
làm việc cùng nhau nhằm đưa 6 nguyên tắc đầu tư 
có trách nhiệm đi vào thực tế. Mục đích của PRI là 
giúp các nhà đầu tư hiểu được sự quan trọng của 
đầu tư bền vững và hỗ trợ các bên ký vào cam kết 
có thể kết hợp chặt chẽ 6 nguyên tắc này vào quá 
trình đưa ra quyết định đầu tư cũng như khi thực 
hiện dự án. Cho đến nay, có khoảng 1.400 đối tượng 
cam kết thực hiện các nguyên tắc này, bao gồm cá 
nhân sở hữu tài sản, nhà đầu tư, công ty quản lý và 
các tổ chức dịch vụ đầu tư chuyên nghiệp (UNEP, 
2016). Đầu tư có trách nhiệm là một phương pháp 
đầu tư dựa trên sự nhận thức đầy đủ của nhà đầu 
tư đối với vấn đề môi trường, xã hội và quản trị 
doanh nghiệp (environmental, social and corporate 
governance- ESG), cũng như sức khỏe và sự ổn 
định lâu dài của toàn thị trường. Đầu tư có trách 
nhiệm đòi hỏi các nhà đầu tư và các doanh nghiệp 
cần có tầm nhìn rộng và sự hiểu biết thấu đáo để tìm 
ra cơ hội cũng như những thách thức. Từ đó, họ có 
thể sắp xếp nguồn lực hợp lý nhằm mang lại lợi ích 
trong cả ngắn hạn cũng như dài hạn cho khách hàng 
và những bên liên quan khác.
Sáng kiến PRI được ban hành năm 2006 với 6 
nguyên tắc, bao gồm: (i) Xem xét các nội dung EGS 
trong việc phân tích và đưa ra quyết định đầu tư; 
(ii) kết hợp các nội dung ESG trong thực hành và 
các chính sách sở hữu; (iii) tìm kiếm cách công bố 
thông tin về ESG thích hợp từ các đối tượng đầu 
tư; (iv) xúc tiến cho việc chấp thuận và áp dụng các 
nguyên tắc trong các ngành công nghiệp được đầu 
tư; (v) hợp tác để nâng cao hiệu lực của việc thực thi 
đầy đủ các nguyên tắc trên; và (vi) báo cáo các hoạt 
động tích cực và tiến độ thực thi đầy đủ các nguyên 
tắc này.
Dự án kiểm soát khí thải các-bon- CDP (The 
Carbon Disclosure Project)
26 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016
Là một tổ chức phi lợi nhuận khuyến khích các 
doanh nghiệp, nhà đầu tư và các tổ chức khác báo 
cáo số liệu khí thải nhà kính và những nguy cơ tiềm 
ẩn làm biến đổi khí hậu do hoạt động của họ gây 
ra. Tuy nhiên, các công bố này mang tính chất tự 
nguyện, không bắt buộc đối với các doanh nghiệp 
vay vốn ngân hàng phải báo cáo mức khí thải các-
bon.
Sản phẩm tài chính xanh trong hệ thống ngân hàng
Theo Roopa và cộng sự (2012), dựa trên đối tượng 
được tài trợ, tài chính xanh có thể được chia thành 
hai nhóm: cá nhân và doanh nghiệp. Với khách 
hàng cá nhân, chủ yếu dựa vào ưu đãi lãi suất (lãi 
suất tiền gửi cao và lãi suất cho vay thấp) hay các 
khoản chiết khấu trong các hoạt động xanh mang 
tính chất cá nhân. Tuy nhiên, tài chính xanh chủ yếu 
nhắm vào đối tượng doanh nghiệp nên các ưu đãi 
cho doanh nghiệp cao hơn ưu đãi dành cho cá nhân. 
Tài chính xanh cho doanh nghiệp chủ yếu là các sản 
phẩm công, tức là những sản phẩm với sự góp mặt 
của chính phủ. Trong đó, các ngân hàng ưa thích sản 
phẩm bảo lãnh công nhất, bởi lẽ các khoản vay của 
doanh nghiệp xanh được đảm bảo bởi Chính phủ. 
Trong giai đoạn đầu triển khai các công nghệ xanh 
và sản phẩm xanh thì sự đảm bảo của Chính phủ 
cho các doanh nghiệp là một sự đảm bảo có ý nghĩa 
đối với các ngân hàng.
- Sản phẩm tài chính xanh dành cho cá nhân:
Tài khoản tiết kiệm: Khách hàng tham gia các chiến 
dịch xanh, không sử dụng tài liệu giấy, trích lợi 
nhuận đóng góp cho các tổ chức gắn với tăng trưởng 
xanh.
Thẻ tín dụng: Khách hàng được hưởng những ưu đãi 
như chiết khấu, tích lũy điểm dành cho chủ thẻ có 
những hoạt động thân thiện với môi trường.
Quỹ: Khách hàng theo đuổi một mức lợi nhuận cố 
định và bảo vệ môi trường thông qua việc đầu tư 
vào các công ty xanh hoặc các công ty liên quan tới 
các hoạt động giảm thiểu khí thải nhà kính. 
Bảo hiểm: Khách hàng mua bảo hiểm xe đạp và 
được giảm phí bảo hiểm cho các hoạt động thân 
thiện với môi trường.
Khoản vay khách hàng cá nhân: Dành cho cá nhân 
khi mua các sản phẩm thân thiện với môi trường 
như xe đạp, các loại xe giảm tiêu thụ các-bon.
- Sản phẩm tài chính xanh dành cho doanh nghiệp:
Khoản vay thông thường: Các ngân hàng tư nhân 
cung cấp những khoản vay cho các doanh nghiệp và 
doanh nghiệp sản xuất sản phẩm thân thiện với môi 
trường.
Khoản vay công: Bao gồm các khoản vay dùng để 
tài trợ cho việc lắp đặt máy phát điện năng lượng 
mặt trời, phổ biến năng lượng tái tạo, hợp lý hoá 
việc sử dụng năng lượng.
Bảo lãnh công: Bảo lãnh cho một khoản vay cụ thể 
dùng để tài trợ cho công nghệ xanh, sản phẩm xanh 
và doanh nghiệp xanh. Bảo lãnh này cho phép các 
công ty vẫn vay được vốn từ ngân hàng khi không 
đủ tài sản thế chấp.
Quỹ công cộng: Là sự kết hợp giữa các nhà đầu tư 
tư nhân và nhà đầu tư công nhằm để đầu tư vào các 
doanh nghiệp xanh. Vì các ngành công nghiệp xanh 
có rủi ro cao và lợi nhuận cao, quỹ này được xem là 
phù hợp cho các ngành công nghiệp hơn so với các 
khoản vay thông thường.
Bảo hiểm công: Một loại sản phẩm bảo hiểm để loại 
bỏ các rủi ro trong xuất khẩu và thỏa thuận tín dụng 
của các doanh nghiệp xanh.
Theo Roopa và cộng sự (2012), các sản phẩm tài 
chính xanh dành cho khách hàng cá nhân và doanh 
nghiệp nêu trên đã và đang được triển khai hiệu quả 
tại Hàn Quốc. Hàn Quốc là một trong những quốc 
gia Châu Á đi tiên phong trong áp dụng tài chính 
xanh, tăng trưởng xanh và đã đạt được những thành 
công nhất định. Sản phẩm tài chính xanh trong ngân 
hàng tại Việt Nam là vấn đề  ... hệ hợp tác giữa 
các Sở GDCK với các cơ quan quản lý và cơ quan 
lập pháp, giới đầu tư, doanh nghiệp và những tổ 
chức có liên quan trên toàn thế giới. SSE Initiative 
mời các sàn GDCK trên toàn cầu trở thành đối tác 
cùng với SSE trong đó các sàn này tình nguyện cam 
kết một cách công khai đẩy mạnh việc hoàn thiện 
các thông tin ESG và việc thực hiện các nội dung 
này trong số các công ty niêm yết. Thêm vào đó, 
SSE chào đón các thành viên là những người làm 
luật, nhà đầu tư, công ty và các cổ đông chiến lược 
khác với tư cách là thành viên của nhóm tư vấn. Với 
sự hợp tác này, tính minh bạch trong việc quản trị 
doanh nghiệp sẽ được nâng cao. Bên cạnh đó, các 
bên tham gia có cơ hội thảo luận và cam kết về trách 
nhiệm của doanh nghiệp đối với môi trường và xã 
hội cũng như công bố các báo cáo phát triển bền 
vững của họ.
Thông qua việc tổ chức các hoạt động hỗ trợ, hội 
thảo, tọa đàm, ấn phẩm, nghiên cứu và các hoạt 
động chung khác, Sáng kiến SSE khuyến khích các 
Sở GDCK hướng tới các hoạt động đẩy mạnh đầu 
tư có trách nhiệm, cải thiện minh bạch thông tin về 
môi trường, xã hội và quản trị và hiệu quả hoạt động 
của các doanh nghiệp niêm yết. Diễn đàn đối thoại 
toàn cầu Sở GDCK phát triển bền vững là một trong 
những hoạt động chính yếu của Sáng kiến đươc 
định kỳ tổ chức 2 năm/lần. Đây là dịp để các Sở 
GDCK học hỏi kinh nghiệm và tìm kiếm cơ hội hợp 
tác nhằm thúc đẩy đầu tư bền vững trên thị trường 
chứng khoán (Tường Vi và Trịnh Hằng, 2015).
Năm 2015, Sở GDCK TP.HCM và Sở GDCK Hà 
Nội chính thức trở thành đối tác của Sáng kiến Sở 
GDCK Phát triển Bền vững của Liên Hợp quốc 
cùng 19 Sở GDCK hàng đầu trên toàn cầu. Với việc 
gia nhập SSE, Sở GDCK TP.HCM thể hiện cam 
kết sẽ chia sẻ và thúc đẩy các thông lệ liên quan 
đến phát triển bền vững đối với các công ty niêm 
yết. Trong khi đó, Sở GDCK Hà Nội có cơ hội chia 
sẻ và học hỏi kinh nghiệm các thông lệ tốt về quản 
trị công ty và phát triển bền vững để từ đó khuyến 
khích áp dụng cho các doanh nghiệp niêm yết nhằm 
tăng cường quản trị công ty và trách nhiệm với xã 
hội. Tham gia SSE, cả hai Sở GDCK Việt Nam đều 
28 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016
đưa ra mục tiêu thúc đẩy các doanh nghiệp niêm 
yết thực hiện trách nhiệm lập báo cáo phát triển bền 
vững hàng năm, hướng các doanh nghiệp đến văn 
hóa phát triển bền vững trong dài hạn. Khái niệm 
báo cáo phát triển bền vững đã được nhiều doanh 
nghiệp niêm yết biết đến khi từ năm 2013, trong 
khuôn khổ Cuộc bình chọn Báo cáo thường niên do 
Sở GDCK TP. HCM và Báo Đầu tư Chứng khoán 
khởi xướng (Tường Vi, 2015).
Theo xu hướng phát triển chung của thế giới thì 
các doanh nghiệp có khả năng quản lý tốt khía 
cạnh bền vững thường thành công về mặt tài chính. 
UBCKNN khuyến khích các doanh nghiệp đưa 
hoạt động đầu tư có trách nhiệm với môi trường và 
xã hội vào hoạt động kinh doanh của mình. Trong 
tương lai, các tiêu chí báo cáo bền vững có khả 
năng trở thành quy định bắt buộc. Sự nỗ lực cao 
của cơ quan quản lý cùng với hoạt động vinh danh 
các doanh nghiệp quan tâm đến phát triển bền vững 
sẽ là yếu tố quan trọng khởi tạo văn hóa báo cáo 
bền vững trong các doanh nghiệp niêm yết trên thị 
trường chứng khoán Việt Nam. 
2.3. Thách thức trong quá trình phát triển tài 
chính xanh
Theo Roopa và cộng sự (2012), những rào cản trong 
phát triển tài chính xanh trong việc tài trợ phát triển 
công nghệ sử dụng các-bon thấp bao gồm: 
Rào cản về tài chính: Những chính sách trợ giá của 
Chính phủ cho một số hoạt động sản xuất như khai 
thác nhiên liệu hóa thạch, khiến các doanh nghiệp 
này khai thác, sản xuất sản phẩm mà không quan 
tâm đến giá cả. Chính vì vậy, các doanh nghiệp 
không được khuyến khích theo đuổi sử dụng công 
nghệ các-bon thấp. Các ngành sử dụng công nghệ 
các-bon thấp đòi hỏi chi phí đầu tư rất cao, lợi 
nhuận thấp trong giai đoạn đầu phát triển.
Rào cản về cấu trúc: Khi các ngành sử dụng công 
nghệ các-bon thấp còn nhỏ và manh mún thì các 
doanh nghiệp này chưa thể tận dụng lợi thế theo quy 
mô. Điều này không hấp dẫn các doanh nghiệp theo 
đuổi công nghệ các-bon thấp bởi lẽ khả năng phát 
triển là rất khó.
Rào cản về công nghệ: Những công nghệ sử dụng 
các-bon thấp vẫn còn mới mẻ với phần lớn các quốc 
giá trên thế giới, đặc biệt là các quốc gia đang phát 
triển. Những chính sách đầu tư và nguồn lực tài 
chính không thể phát huy tác dụng nếu không vượt 
qua được những rào cản về công nghệ.
Phát triển tài chính xanh ở Việt Nam là hướng đi 
đúng đắn trong chiến dịch tăng trưởng xanh. Song 
cũng như các quốc gia đang phát triển khác, con 
đường này còn nhiều thách thức lớn trước mắt cần 
vượt qua. Những thách thức chủ yếu bao gồm:
Thứ nhất: Nhận thức về tài chính xanh còn hạn chế. 
Thứ hai: Chính sách, luật pháp còn thiếu hoặc chưa 
hỗ trợ phát triển tài chính xanh.
Thứ ba: Sự sẵn sàng chưa cao cho tài chính xanh.
Thứ tư: Nguồn tài chính hỗ trợ cho các dự án xanh, 
sản phẩm xanh còn eo hẹp.
Tài chính xanh là khái niệm rất mới, mới với cơ 
quan quản lý nhà nước và mới với cả những thành 
viên tham gia thị trường. Các giải pháp về tài chính 
xanh còn ít trong chiến lược tăng trưởng xanh. Các 
ngân hàng thương mại truyền thống chưa sẵn sàng 
cung ứng sản phẩm và dịch vụ tài chính xanh. Đó 
chính là những hoạt động nghiệp vụ của ngân hàng 
khuyến khích các hoạt động vì môi trường và giảm 
phát thải khí các-bon.
Chuyên gia Roland Gross- Giám đốc Quỹ vùng đặc 
biệt về phát triển hệ thống tài chính ở Hội sở của 
Tổ chức Hợp tác Phát triển Đức (GIZ) cho rằng các 
rào cản, thất bại thị trường trong triển khai hệ thống 
tài chính xanh xuất hiện ở cả ba cấp độ: Cấp chính 
sách; cấp ngân hàng và cấp doanh nghiệp. Các ngân 
hàng thường gặp khó khăn khi đánh giá các dự án 
tài chính xanh, đặc biệt liên quan đến các rủi ro do 
hạn chế về nhân sự có chuyên môn. Bên cạnh đó, 
các ngân hàng thường có thói quen cho vay dựa vào 
tài sản thế chấp hơn là dựa vào dòng tiền; các ngân 
hàng thường tập trung vào các dự án ngắn hạn hơn 
là các dự án dài hạn. Và một điều quan trọng không 
kém, đó là sự nhận thức và sẵn sàng cho tài chính 
xanh từ các định chế tài chính và các doanh nghiệp 
còn ở mức thấp. Đây đều là những yếu tố cản trở sự 
phát triển của tài chính xanh. 
2.4. Cơ hội khi phát triển tài chính xanh
Phát triển tài chính xanh hướng đến tăng trưởng 
xanh và phát triển bền vững là con đường tất yếu mà 
nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Việt Nam 
lựa chọn. Bên cạnh những thử thách nói trên, trong 
29THAÙNG 8.2016 - SOÁ 171
bối cảnh vốn từ ngân sách Nhà nước và sự hỗ trợ 
từ các tổ chức quốc tế còn hạn chế thì đây cũng có 
thể xem là một cơ hội cho các tổ chức tài chính và 
doanh nghiệp Việt Nam. Phát triển tài chính xanh 
đem lại nhiều lợi ích bền vững cho chính các định 
chế tài chính, cho các doanh nghiệp được vay vốn 
và cho cả cộng đồng. Lợi ích có thể kể ra như lợi 
nhuận, danh tiếng, giá trị tăng thêm cho các định 
chế tài chính và các doanh nghiệp, công nghệ xanh 
và sạch, sản phẩm xanh, lối tiêu dùng xanh cho cả 
cộng đồng.
Các doanh nghiệp tham gia các dự án xanh và sản 
xuất sản phẩm xanh cần phải đầu tư vào cơ sở hạ 
tầng và công nghệ xanh, sạch, thân thiện với môi 
trường. Trong dài hạn, điều này sẽ giúp cho các 
doanh nghiệp có thể giảm chi phí về năng lượng 
và chi phí sản xuất, từ đó gia tăng lợi nhuận. Các 
quốc gia, đặc biệt là các quốc gia đang phát triển, 
có thể tránh được mô hình phát triển theo kiểu tăng 
trưởng trước, giải quyết hậu quả về thảm họa môi 
trường sau. Nhờ đó, môi trường sinh thái của quốc 
gia không bị đe dọa, tránh được chi phí lớn cho việc 
giải quyết hậu quả về môi trường.
Lợi thế cạnh tranh, danh tiếng của doanh nghiệp, 
của quốc gia cũng được tăng thêm khi tài chính 
xanh hỗ trợ cho các dự án xanh và sản phẩm xanh 
trong nền kinh tế. Doanh nghiệp đầu tư vào công 
nghệ xanh và sản xuất sản phẩm xanh có thể phải 
cần nhiều vốn và gặp nhiều khó khăn trong giai 
đoạn đầu triển khai và áp dụng. Tuy nhiên, những 
doanh nghiệp áp dụng công nghệ xanh sẽ thu hút 
được nhiều vốn từ các nhà đầu tư, gia tăng lượng 
khách hàng, từ đó làm gia tăng giá trị của doanh 
nghiệp.
Tài chính xanh cho các dự án xanh, công nghệ xanh 
và sản phẩm xanh sẽ thay đổi lối tiêu dùng xanh 
trong cộng đồng. Mục tiêu mà tài chính xanh hướng 
đến chính là việc giảm phát thải khí nhà kính, sử 
dụng nhiên liệu xanh sạch, thân thiện với môi 
trường, tránh sự kiệt quệ tài nguyên thiên nhiên, bảo 
vệ môi trường sinh thái, tạo nên sự tăng trưởng và 
phát triển bền vững cho quốc gia.
3. Định hướng và gợi ý chính sách
Tài chính xanh được ví như cơ sở hạ tầng cho quá 
trình tăng trưởng xanh. Trong quá trình phát triển tài 
chính xanh tồn tại không ít những khó khăn, bởi lẽ 
các dự án xanh cần được tài trợ bởi tài chính xanh 
tồn tại nhiều rủi ro. Vì vậy, ngân hàng và các định 
chế tài chính khác không mấy mặn mà với việc tài 
trợ này. Đối với các quốc gia đang phát triển trong 
giai đoạn đầu triển khai tăng trưởng xanh và kinh tế 
xanh như Việt Nam, sự tham gia và hỗ trợ tích cực 
của Chính phủ và sự hỗ trợ từ bên ngoài cho chiến 
lược tài chính xanh có vai trò hết sức quan trọng. 
Chương trình Cải cách kinh tế vĩ mô- Tăng trưởng 
xanh của GIZ đã nêu cam kết sẽ hỗ trợ UBCKNN 
phát triển chứng khoán xanh với mục tiêu xây dựng 
chính sách, quy định nhằm hỗ trợ huy động vốn trên 
thị trường vốn phục vụ cho đầu tư xanh (Chu Thái, 
2015).
Một số kiến nghị nhằm phát triển tài chính xanh ở 
Việt Nam được đưa ra như sau:
Thứ nhất, Nhà nước nên ưu tiên và dành kinh phí 
thỏa đáng từ ngân sách trung ương và ngân sách địa 
phương để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, 
đặc biệt nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng và 
phát triển năng lượng nhân tạo. Nhà nước tạo cơ 
sở pháp lý khuyến khích các tổ chức tài chính, các 
doanh nghiệp đầu tư nguồn lực để thực hiện các 
nhiệm vụ của Chiến lược Tăng trưởng xanh, trong 
đó có phát triển tài chính xanh.
Thứ hai, Chính phủ nên đảm bảo một mức lợi nhuận 
tối thiểu để khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư 
vào các ngành sử dụng công nghệ xanh và sản xuất 
các sản phẩm xanh. Khi nhận thức của người dân về 
việc bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế xanh 
nâng cao thì nhu cầu sử dụng các sản phẩm xanh, 
công nghệ xanh cũng có cơ hội phát triển. Việc đa 
dạng hóa sản phẩm xanh và các ngành sử dụng công 
nghệ sạch từ đó càng được mở rộng. Những doanh 
nghiệp đi tiên phong trong việc áp dụng công nghệ 
sử dụng các-bon thấp và sản xuất những sản phẩm 
sạch sẽ hưởng lợi nhiều nhất, bởi có hình ảnh đẹp 
trong mắt công chúng, lợi thế cạnh tranh cao và sản 
xuất đã đi vào ổn định. Các định chế tài chính được 
đánh giá cao bởi vai trò của chúng trong việc tài 
trợ để phát triển các doanh nghiệp xanh, công nghệ 
xanh, hướng đến sự phát triển bền vững của quốc 
gia.
Thứ ba, các chính sách liên quan đến tài chính xanh 
sớm được ban hành cụ thể song song với những 
30 SOÁ 171 - THAÙNG 8.2016
chính sách về tăng trưởng xanh. Ngành Tài chính 
sớm hoàn thiện khung chính sách tài chính nhằm 
phát triển thị trường vốn xanh và các sản phẩm tài 
chính xanh, trong đó có các quy định, điều kiện khi 
niêm yết cổ phiếu- niêm yết xanh, báo cáo- báo cáo 
bền vững và giám sát doanh nghiệp theo các tiêu chí 
tài chính xanh. 
Thứ tư, nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh, tài 
chính xanh cho mọi đối tượng liên quan trong xã hội 
một cách thiết thực, hiệu quả và rộng rãi.
Thứ năm, tranh thủ sự hỗ trợ của các tổ chức quốc 
tế và học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia đi trước 
trong việc triển khai tài chính xanh.
4. Kết luận
Thúc đẩy nền kinh tế xanh hướng đến tăng trưởng 
và phát triển bền vững là con đường mà Việt Nam 
đã lựa chọn. Trong quá trình đó, tài chính xanh là 
một giải pháp quan trọng. Đây là vấn đề còn mới mẻ 
tại Việt Nam trong nhận thức cũng như trong thực 
tiễn, với nhiều cơ hội và thách thức trước mắt. Vì 
vậy, trong giai đoạn hiện nay, cần có sự quyết tâm 
và sự vào cuộc của nhiều ngành, nhiều lĩnh vực, 
nhiều đơn vị để tài chính xanh trở thành hiện thực 
và có ý nghĩa thiết thực trong chiến lược xanh hóa 
nền kinh tế Việt Nam. ■
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính (2015), “Kế hoạch hành động của ngành Tài chính thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh đến năm 
2020” tại Quyết định số 2183/QĐ-BTC. 
2. Chu Thái (2015), “Xây lộ trình xanh hóa thị trường tài chính”, truy cập tại <
khoan/2015-10-30/xay-lo-trinh-xanh-hoa-thi-truong-tai-chinh-25726.aspx>, [truy cập ngày 12/05/2016].
3. Tường Vi (2015), “Sở GDCK chính thức “nhập cuộc” phát triển bền vững”, truy cập tại <
khoan/so-gdck-chinh-thuc-nhap-cuoc-phat-trien-ben-vung-120154.html>, [truy cập ngày 12/05/2016].
4. Tường Vi và Trịnh Hằng (2015), “Muốn hút vốn lớn, doanh nghiệp trước hết phải “sạch nước cản”, truy cập tại <
hchungkhoan.vn/chung-khoan/muon-hut-von-lon-doanh-nghiep-truoc-het-phai-sach-nuoc-can-124760.html>, [truy cập ngày 
12/05/2016].
5. Chowdhury T., Datta R., and Mohajan H. (2013), “Green finance is essential for economic development and sustainability”, 
International Journal Of Research In Commerce, Economics & Management, vol. 3, no. 10.
6. Roopa T N., Rajan N, and Suhasini (2012), “Green Finance-The Trends and opportunities”, Journal of Management & Entrepre-
neurship Research, vol. 1, no. 2, pp. 239-248.
7. The United Nations Environment Program, Finance Initiative, truy cập tại <
ness/SectoralActivities/UNEPFI/tabid/78946/Default.aspx>, [truy cập ngày 26/04/2016]. 
8. Xu, L. (2013), “On the Evaluation of Performance System Incorporating “Green Credit” Policies in China’s Financial Industry”, 
Journal of Financial Risk Management, vol.2, no. 2, pp. 33–37.
SUMMARY
Green finance for sustainable growth and development in Vietnam
Green growth strategy in Vietnam is a way to accelerate the process of restructuring the economy towards efficient use of 
natural resources, reduction of greenhouse gas emissions and adaptation to climate change. This strategy will contribute 
to poverty reduction and will be the motivation for fast, efficient and sustainable economic development. Green finance 
is an important financial support in green growth strategy. This paper describes opportunities and challenges of green 
finance development in Vietnam. At the same time, the paper also provides some suggestions to develop green finance 
efficiently in Vietnam in current period.
Keywords: green finance, green growth, sustainable development.
THÔNG TIN TÁC GIẢ
Hồ Hạnh Mỹ, Thạc sỹ
Đơn vị công tác: Đại học Ngân hàng TP. HCM
Lĩnh vực nghiên cứu chính: Hệ thống tài chính, tài chính doanh nghiệp, tín dụng ngân hàng.
Tạp chí tiêu biểu đã có bài viết đăng tải: Tạp chí Công nghệ Ngân hàng, Tạp chí Khoa học và Đào tạo Ngân hàng.
Email: myhh@buh.edu.vn
kết và thực hiện đúng tỷ lệ bội chi ngân sách theo 
chỉ tiêu được duyệt, sẽ tạo niềm tin cho thị trường. 
Nhưng nếu ngược lại, khi niềm tin của công chúng 
bị suy giảm, thì khó có thể kiểm soát được mặt bằng 
lãi suất. Ngân hàng HSBC dự báo mức bội chi ngân 
sách của Việt Nam 2016 sẽ rơi vào khoảng 6,6% 
GDP (cao hơn 1,65% so với chỉ tiêu 4,95% Quốc 
hội duyệt từ đầu năm). ■
tiếp theo trang 15

File đính kèm:

  • pdftai_chinh_xanh_cho_tang_truong_va_phat_trien_ben_vung_tai_vi.pdf