Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam - Những vấn đề cần tháo gỡ
Việt Nam hiện đã xác định tăng trưởng xanh là một chiến lược để phát triển
bền vững, đặc biệt trong bối cảnh đang là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ
thiên tai và biến đổi khí hậu. Để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, đòi
hỏi một nguồn vốn lớn tập trung cho các dự án xanh. Cùng với hệ thống
ngân hàng, thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng là
những kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án xanh, từ đó dần hình
thành nên hệ thống tài chính xanh phục vụ cho mục tiêu chiến lược quốc gia
về tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này phân tích thực trạng tài chính xanh
phục vụ cho yêu cầu tăng trưởng kinh tế xanh trên cơ sở hệ thống các công
Bạn đang xem tài liệu "Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam - Những vấn đề cần tháo gỡ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam - Những vấn đề cần tháo gỡ
57 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 210- Tháng 11. 2019 Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Trần Thị Xuân Anh Nguyễn Thị Lâm Anh Trần Anh Tuấn Ngô Thị Hằng tiếp theo kỳ trước Việt Nam hiện đã xác định tăng trưởng xanh là một chiến lược để phát triển bền vững, đặc biệt trong bối cảnh đang là quốc gia chịu ảnh hưởng lớn từ thiên tai và biến đổi khí hậu. Để thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, đòi hỏi một nguồn vốn lớn tập trung cho các dự án xanh. Cùng với hệ thống ngân hàng, thị trường vốn nói chung và thị trường trái phiếu nói riêng là những kênh huy động vốn quan trọng cho các dự án xanh, từ đó dần hình thành nên hệ thống tài chính xanh phục vụ cho mục tiêu chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh. Nghiên cứu này phân tích thực trạng tài chính xanh phục vụ cho yêu cầu tăng trưởng kinh tế xanh trên cơ sở hệ thống các công Green finace for Vietnam economic development- the problems need to improve Abstract: Green growth has been recently identified as a strategy for sustainable development in Vietnam, particularly in the context of being a country heavily affected by natural disasters and climate change. In order to implement a green growth strategy, a large capital source is required for green projects. In addition with the banking system, the capital market in general and the bond market in particular, are important capital mobilization channels for green projects, thereby gradually forming a green financial system to serve the national strategic targets. This article analyses the current state of green finance used for the requirements of green economic growth, based on the system of green financial instruments, green financial institutions, and green financial markets. Thence, the authors assess the positive aspects as well as the shortcomings and limitation in the development of green finance to serve the green economic growth in Vietnam. Keywords: green growth, green finance, green credit, green bonds. Anh Thi Xuan Tran, PhD Email: anhttx@hvnh.edu.vn Anh Thi Lam Nguyen, PhD Email: nguyenlamanh@hvnh.edu.vn Tuan Anh Tran, MEc Email: trantuan@hvnh.edu.vn Hang Thi Ngo, MEc Email: ngothihang.taichinh@gmail.com Organization of all: Finance faculty, Banking Academy of Vietnam Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201958 2.2. Các định chế tài chính xanh Về cơ bản hiện nay tại Việt Nam, các định chế tài chính tham gia vào lĩnh vực tài chính xanh chủ yếu là các ngân hàng thương mại (NHTM). Chưa có định chế tài chính xanh thuần tuý nào được thành lập tại Việt Nam. Công ty bảo hiểm, công ty quản lý quỹ có tham gia tuy nhiên vẫn đang ở mức khá dè dặt và khiêm tốn. ○ Ngân hàng thương mại: Theo thống kê của NHNN, tính tới quý III/2018, có khoảng 24% dự án xanh được các NHTM xây dựng quy trình thẩm định tín dụng, chủ yếu được thực hiện tại hội sở chính và chi nhánh của các ngân hàng như BIDV, Vietcombank, Vietinbank, Sacombank, Agribank, SHB, ACB, Viet A Bank, OCB, Kien Long Bank, PVCombank, HSBC Ngoài ra, có 26% số ngân hàng đã thực hiện xây dựng và triển khai quy trình quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng, bao gồm cả các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài như Standard Chartered và HSBC. Tuy nhiên hoạt động công bố thông tin và truyền thông của các ngân hàng liên quan tới các dự án sử dụng tín dụng xanh còn rời rạc, khó tạo được hiệu ứng trong xã hội. Theo Quỹ Quốc tế Bảo vệ Thiên nhiên (WWF, 2018), các ngân hàng cần xác định rõ rằng phát triển bền vững là điều kiện cần thiết để phát triển trong dài hạn. Để đạt được mục tiêu phát triển bền vững, các ngân hàng cần thiết lập các chính sách hướng dẫn tích hợp các nguyên tắc môi trường và xã hội (Environment & Social- E&S) vào các quy trình nội bộ và các chính sách với khách hàng. Để thực hiện điều này, các ngân hàng cần có đội ngũ nhân lực được đào tạo bài bản, được giao vai trò và trách nhiệm rõ ràng. Tích hợp các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (Environment, social & governance- ESG) không chỉ là về quản lý rủi ro E&S mà còn về việc hướng mục đích của ngân hàng vào việc thiết lập các sản phẩm ngân hàng bền vững. Để thực hiện việc quản lý rủi ro và đảm bảo mô hình kinh doanh của ngân hàng phù hợp với chiến lược phát triển bền vững, các ngân hàng cần phải thực hiện quản lý rủi ro ở cấp danh mục đầu tư. Trong năm 2017 và 2018, WWF đã thực hiện báo cáo Ngân hàng bền vững trong khu vực ASEAN. Báo cáo này thực hiện điều tra bối cảnh tài chính bền vững trong khu vực ASEAN, nhằm tóm tắt những phát triển trong tiến trình hội nhập của các ngân hàng trong thời gian gần đây. Báo cáo này điều tra các ngân hàng đến từ 6 nước ASEAN, bao gồm: Indonesia, Malaysia, Phillippines, Singapore, Thái Lan và Việt Nam. Đối với trường hợp của Việt Nam, WWF thực hiện thu thập dữ liệu ESG của 5 ngân hàng: BIDV, Vietcombank, Eximbank, VietinBank và VPBank. Đây là 5 ngân hàng thoả mãn hai điều kiện của WWF: (i) Thực hiện quản trị doanh nghiệp hợp lý (hội đồng quản trị, cổ đông và các bên liên quan, công bố và minh bạch, kiểm toán và rủi ro); (ii) thực hiện tích hợp chính cụ tài chính xanh, định chế tài chính xanh và thị trường tài chính xanh. Từ đó đánh giá những mặt tích cực cũng như những điểm còn bất cập, hạn chế trong việc phát triển tài chính xanh phục vụ cho tăng trưởng kinh tế xanh ở Việt Nam hiện nay. Từ khoá: Tăng trưởng xanh, Tài chính xanh, Tín dụng xanh, Trái phiếu xanh TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 59 Bảng 3. Các công bố thông tin của ngân hàng liên quan tới hoạt động tín dụng xanh Agribank - 2016: Chương trình tín dụng xanh phục vụ sản xuất nông nghiệp sạch, quy mô vốn 50.000 tỷ đồng. - Agribank ban hành văn bản về việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. - 2017: Tham gia cấp tín dụng cho dự án điện mặt trời Long Thành (tỉnh Đắk Lắk) và dự án nhà máy điện mặt trời Phong Điền (tỉnh Thừa Thiên Huế). BIDV - 2017: Thực hiện cung ứng tín dụng xanh đạt 2.000 tỷ đồng với mức tăng trưởng 18- 20%/năm. - 2019: Tham gia tài trợ cho hơn 10 dự án năng lượng tái tạo với tổng mức tín dụng cam kết là 346 triệu USD. Vietcombank - 2017: Giải ngân 2.500 tỷ đồng vào các dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch. Công bố các gói tín dụng cho nông nghiệp sạch (10.000 tỷ đồng); cấp nước sạch (10.000 tỷ đồng); phát triển ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ (10.000 tỷ đồng); cho vay phát triển y tế (30.000 tỷ đồng) - 2018: công bố tài trợ cho 2 dự án năng lượng sạch, năng lượng tái tạo. Vietinbank - 2011: Ban hành chính sách môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. - 2018: Cấp tín dụng 1.000 tỷ đồng cho dự án Nhà máy điện mặt trời TTC số 1 (tỉnh Ninh Thuận). ABBank - 2015: Công bố hoàn thiện hệ thống quản lý rủi ro môi trường và xã hội. - Công bố triển khai ba chương trình cho vay dựa trên vốn ODA với các yêu cầu khắt khe về môi trường: Chương trình cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEFPIII), chương trình cho vay tài chính nông thôn (RDFII), chương trình cho vay phát triển nông nghiệp bền vững (VNSAT). - 2019: Tham gia nhóm Sáng kiến Tài chính chương trình Môi trường Liên Hiệp Quốc. Techcombank - 2007: Được lựa chọn là một trong 3 ngân hàng tài trợ cho các dự án đầu tư công nghệ sạch của Quỹ tín dụng xanh (GCTF). - 2010: IFC và Techcombank đã ký một hợp đồng hợp tác tín dụng cho vay các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong lĩnh vực tiết kiệm năng lượng và sản xuất sạch. 2016: giải ngân 4 triệu USD. - 2015: Ký thoả thuận hợp tác với ĐSQ Đan Mạch tại Việt Nam về hỗ trợ các sáng kiến sử dụng năng lượng hiệu quả trong lĩnh vực tư nhân. Nam A Bank - 2018: Công bố dự án “Tôi chọn sống xanh” với mục tiêu nâng cao ý thức của người dân về bảo vệ môi trường. - 2019: Ký kết với Quỹ hợp tác khí hậu toàn cầu (GCPF) về việc thực hiện chương trình “Tín dụng xanh” cấp vốn cho doanh nghiệp và cá nhân tại Việt Nam. Sacombank - 2011: Công bố chính sách môi trường của mình dựa trên các nguyên tắc phát triển bền vững. Sacombank đã thực hiện xây dựng tiêu chuẩn “Tín dụng xanh” để phân loại các dự án đầu tư theo rủi ro môi trường. - 2012: Chính thức tiếp nhận và áp dụng Hệ thống quản lý trách nhiệm với môi trường và xã hội (ESMS) theo chuẩn mực quốc tế. HD Bank - 2019: Đưa ra gói tín dụng 10.000 tỷ đồng cho các dự án nông nghiệp công nghệ cao, nông nghiệp sạch; 7.000 tỷ đồng tài trợ cho các dự án điện mặt trời; và 3.000 tỷ đồng phát triển năng lượng tái tạo. VP Bank - 2012: Công bố các cam kết về môi trường và xã hội. - 2012- 2018: Ban hành danh sách không cấp tín dụng của VP Bank, bao gồm 12 dự án, phương án kinh doanh có rủi ro môi trường- xã hội cao. Nguồn: Tác giả tự tổng hợp Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201960 sách ESG một cách tích cực (mục tiêu, chính sách, quy trình, nguồn nhân lực, sản Bảng 4. Đánh giá tích hợp chính sách ESG năm 2018 Các tiêu chí đánh giá ESG BIDV Exim Bank Vietcom Bank Vietin Bank VP Bank Bình quân 1. Mục tiêu 1. Sự phù hợp giữa tính bền vững và chiến lược phát triển bền vững của doanh nghiệp 2. Mức độ tham gia vào các cam kết dựa trên sáng kiến tài chính bền vững (BEI, Nguyên tắc đường xích đạo, UNEPFI, v.v) 2. Chính sách 3. Công bố thông tin về nguyên tắc, khẩu vị rủi ro và các khía cạnh của ESG, ESRM 4. Chính sách cụ thể của ngành 3. Quy trình 5. Quy trình đánh giá rủi ro ESG trong phê duyệt khách hàng và giao dịch 6. Quy trình giám sát khách hàng 4. Nhân sự 7. Trách nhiệm với ESG 8. Đánh giá năng lực và hiệu suất của nhân viên E&S 5. Sản phẩm 9. Tích hợp ESG trong các sản phẩm và dịch vụ 6. Danh mục đầu tư 10. Đánh giá và giảm thiểu rủi ro ESG ở cấp danh mục đầu tư 11. Công bố mục tiêu và phơi nhiễm rủi ro ESG Nguồn: WWF, 2018 Ghi chú: Tăng Không thay đổi Giảm TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 61 phẩm, danh mục đầu tư). Kết quả từ báo cáo năm 2017, 2018 của WWF về phát triển bền vững ngân hàng ở ASEAN, việc thực hiện tích hợp chính sách ESG của 5 ngân hàng trên được đánh giá như sau: Mục tiêu: Bốn ngân hàng (Eximbank, Vietcombank, Vietinbank, VpBank) đề cập đến tính bền vững trong chiến lược kinh doanh của mình, so với 3 ngân hàng (cụ thể) trong năm 2017. Bốn ngân hàng thừa nhận và công nhận việc thực hiện chính sách ESG trong hoạt động khách hàng hàng của mình, tăng từ hai ngân hàng trong năm trước. Các ngân hàng không công bố tài liệu tham khảo rõ ràng về mục tiêu phát triển bền vững hoặc danh sách các vấn đề E&S ảnh hưởng đến ngân hàng và các bên liên quan; như năm trước, chỉ có hai ngân hàng công nhận rủi ro biến đổi khí hậu đến các doanh nghiệp và xã hội. Điều này bất chấp việc Công ty tài chính Quốc tế (IFC- International Finance Corporation) và Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước Việt Nam (SSC) trong Cẩm nang báo cáo phát triển bền vững đã khuyến nghị các công ty liệt kê các khía cạnh liên quan tới E&S. Hai ngân hàng công bố họ có tham gia với các bên liên quan chính về các hoạt động ngân hàng có các yếu tố E&S, nhưng không có ngân hàng nào cung cấp danh sách các tổ chức phi chính phủ hoặc các tổ chức xã hội trong số các bên liên quan của mình. Chính sách: Trong năm 2018, không có sự thay đổi nào liên quan tới chính sách. Trong khi đó năm 2017 có một ngân hàng công bố cam kết không tài trợ cho các dự án có tác động tiêu cực đến môi trường, trong năm 2018 không có ngân hàng nào thực hiện công bố thông tin trên. Không có ngân hàng nào công bố thông tin về khẩu vị rủi ro hoặc chính sách ngành. Quy trình: NHNN đã có Chỉ thị 04/CT- NHNN ngày 02/8/2018 yêu cầu các ngân hàng xem xét rủi ro E&S trong hoạt động Bảng 5. Giá trị khoản vốn tín dụng và viện trợ không hoàn lại đã nhận giai đoạn 2010- 2017 Nhà tài trợ (*) Các chính sách tài trợ đã nhận 2010 2011 2012 2013 2014 2015 2016 2017 Khoản vay JICA (triệu USD 110 153 100 100 100 AFD (triệu EUR) 20 20 20 20 50 WB (triệu USD) 70 70 70 90 90 KEXIM (triệu USD) 30 20 10 Viện trợ không hoàn lại CIDA (triệu AUD) 4,5 AusAID/DFAT (triệu AUD) 8 6 Nguồn: Báo cáo Bộ Tài nguyên môi trường, 2017 (*): Tên các nhà tài trợ được sử dụng kí hiệu viết tắt. Trong đó JICA: Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản; AFD: Cơ quan phát triển Pháp; WB: Ngân hàng thế giới; KEXIM: Ngân hàng xuất nhập khẩu Hàn Quốc; CIDA: Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thụy Điển; AusAID/DFAT: Cơ quan phát triển quốc tế/Bộ ngoại giao và thương mại Úc. Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201962 cho vay của mình. Tuy nhiên, chỉ có ba ngân hàng công bố rằng họ thực hiện đánh giá rủi ro E&S đối với khách hàng và các giao dịch. Đây là một sự cải tiến so với năm trước. Không có ngân hàng nào công bố bổ sung các chi tiết về quy trình đánh giá rủi ro này, chẳng hạn như liệu đánh giá này có ảnh hưởng đến đến kết quả cho vay hoặc liệu các ngân hàng có thực hiện phân loại khách hàng dựa trên kết quả đánh giá. Có hai ngân hàng công bố về việc tiến hành đánh giá định kỳ hồ sơ rủi ro E&S của khách hàng, so với một ngân hàng công bố trong năm trước. Nhân sự: Không có ngân hàng nào công bố thông tin về việc phân bổ trách nhiệm ESG. Tuy nhiên có một ngân hàng (BIDV) công bố rằng ban quản trị và các uỷ ban cấp dưới (ví dụ: quản trị rủi ro, nguồn nhân lực) chịu trách nhiệm về phát triển bền vững, và cung cấp chi tiết về các chương trình đào tạo nội bộ cho nhân viên về quy trình quản lý rủi ro E&S trong hoạt động tín dụng. Đây là một bước lùi so với năm trước, khi có hai ngân hàng (BIDV và VPBank) công bố thông tin về đào tạo nội bộ và quản lý rủi ro E&S. Sản phẩm: Chỉ thị của NHNN 04/CT- NHNN ngày 02/8/2018 nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tăng cường tín dụng xanh và ưu tiên tài trợ cho các dự án xanh trong nước. Mặc dù vậy, chỉ có một ngân hàng tiết lộ thông tin về việc phát hành các khoản vay ưu đãi trong hợp tác với các đối tác quốc tế để hỗ trợ các dự án năng lượng tái tạo và phát triển nông nghiệm bền vững, không có thay đổi gì so với năm trước. Các ngân hàng không công bố bất cứ thông tin nào khác về cách các yếu tố E&S được sử dụng cho các quyết định phân bổ vốn. Danh mục đầu tư: Giống như năm 2017, tất cả các ngân hàng thực hiện công bố mức cho vay theo lĩnh vực. Tuy nhiên, các ngân hàng lại không cung cấp thông tin chi tiết hơn về phơi nhiễm tổng thể đối với các rủi ro E&S, ví dụ như phần phụ phân tích danh mục đầu tư năng lượng, cường độ các-bon hoặc tỷ lệ phần trăm của d ... rộng. Phương pháp lập chỉ số được dựa trên giá trị vốn hóa thị trường và tỉ lệ cổ phiếu có thể giao dịch miễn phí. Chỉ số xanh thuộc về rổ chỉ số toàn bộ cổ phiếu của Việt Nam. HNX và HOSE dựa vào kinh nghiệm của Sở Giao dịch Chứng khoán Sao Paulo và Johannesburg để sử dụng cho các chỉ số xanh của riêng mình (UBCKNN, 2018). 2.4. Các quỹ viện trợ phát triển kinh tế xanh Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược tăng trưởng xanh quốc gia là giảm lượng phát thải khí nhà kính, tạo ra những sản phẩm, thực hiện những quy trình sản xuất sạch hơn với môi trường. Trong thời gian qua, Việt Nam nhận được nhiều sự hỗ trợ, giúp đỡ từ các tổ chức, nhà tài trợ quốc tế vào các dự án chống lại biến đổi khí hậu. Ngoài ra, Chính phủ Việt Nam cũng nhận được nhiều khoản cam kết hỗ trợ tài chính để thực hiện các dự án phục vụ mục tiêu tăng trưởng xanh như: Giảm phát thải khí nhà kính, xây dựng phát triển nguồn năng lượng tái tạo, giải pháp phòng chống lũ lụt, bảo vệ nguồn nước, xây dựng đô thị thân thiện với môi trường 3. Những vấn đề đặt ra cho hệ thống tài chính xanh tại Việt Nam và một số khuyến nghị Cho đến hết quý 1/2019, về mặt chính sách, có thể thấy khung pháp lý quy định về nguồn tài chính cho phát triển kinh tế xanh đã được xây dựng song hành với chiến lược tăng trưởng xanh. Điều này TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 65 tạo tiền đề cơ sở cho việc tập trung nguồn lực từ tài chính công và tài chính tư nhân vào chiến lược quốc gia thực hiện mục tiêu chung về kinh tế xanh. Tuy nhiên, với thực trạng nêu trên, tài chính xanh của Việt Nam đang đối mặt với một số tồn tại: + Công cụ tài chính xanh chưa đa dạng, phong phú và được khai thác hiệu quả. Về cơ bản, việc phát triển các sản phẩm tài chính xanh đa dạng sẽ là yếu tố trọng tâm trong lĩnh vực tài chính xanh. Trên thị trường tài chính Việt Nam hiện nay mới chỉ tập trung vào trái phiếu xanh của các chính quyền địa phương, các sản phẩm khác hầu như chưa được khai thác phát triển như cổ phiếu xanh, chỉ số liên quan đến carbon; ETF, CERs Futures và Bảo hiểm. Ngoài ra, các sản phẩm tài chính mới liên quan đến thời tiết cũng cần được giới thiệu để thích ứng về mặt tài chính với biến đổi khí hậu. + Các định chế tài chính tham gia chưa chủ động và tích cực, chủ yếu mới từ phía các NHTM. Tuy nhiên, hiệu quả hoạt động tài chính xanh từ bản thân các NHTM hiện nay cũng đang tồn tại một số bất cập: Một là, mặc dù một số ngân hàng đã có nhận thức rất rõ ràng về việc phát triển ngân hàng xanh và tín dụng xanh, hầu hết các ngân hàng dừng lại ở việc xác định mục tiêu phát triển bền vững và chiến lược phát triển bền vững; và đề cập tới mục tiêu và mức độ phơi nhiễm rủi ro môi trường- xã hội ở cấp danh mục đầu tư trong báo cáo phát triển bền vững của mình. Cụ thể, theo khảo sát của WWF, tính tới năm 2018, không ngân hàng nào tham gia khảo sát công bố mức độ tham gia vào các cam kết dựa trên các sáng kiến tài chính bền vững; thực hiện công bố thông tin về nguyên tắc, khẩu vị rủi ro và các khía cạnh của rủi ro môi trường- xã hội cũng như chính sách cụ thể của ngành; thực hiện đánh giá và giảm thiểu rủi ro môi trường- xã hội ở cấp danh mục đầu tư. Chỉ có 3 ngân hàng xây dựng quy trình đánh giá rủi ro môi trường- xã hội trong phê duyệt khách hàng và giao dịch (BIDV, Eximbank, Vietcombank), tuy nhiên chỉ có 2 ngân hàng tích hợp rủi ro môi trường- xã hội vào quy trình giám sát khách hàng (BIDV, Vietcombank). Chỉ có 1 ngân hàng thực hiện tổ chức nhân sự chuyên về mảng quản lý rủi ro môi trường- xã hội và tích hợp rủi ro môi trường xã hội trong các sản phẩm và dịch vụ là BIDV. Như vậy có thể thấy, mặc dù các ngân hàng đã được khuyến khích lập Báo cáo phát triển bền vững, trong đó có phần tích hợp đánh giá rủi ro môi trường- xã hội vào hoạt động của mình, trong thực tế việc báo cáo của các ngân hàng còn rất hạn chế, chưa đề cập đến đầy đủ các khía cạnh của rủi ro môi trường- xã hội. Trong năm 2013, UBCKNN và IFC đã ra mắt cuốn “Hướng dẫn lập Báo cáo phát triển bền vững” nhằm thúc đẩy công bố thông tin về môi trường và xã hội của các doanh nghiệp Việt Nam. Cuốn Hướng dẫn này đã đưa ra các chỉ dẫn rất chi tiết về việc lập Báo cáo phát triển bền vững, đặc biệt là thông tin về các bước chính của quy trình báo cáo và các khía cạnh hoạt động kinh doanh cần được đề cập trong Báo cáo. Tuy nhiên, cuốn Hướng dẫn này chỉ mang tính chỉ dẫn mà không mang tính bắt buộc nên các doanh nghiệp có thể công bố các thông tin về rủi ro môi trường- xã hội đầy đủ hoặc không đầy đủ theo nội dung đề xuất. Hiện tại NHNN chưa có quy định chính thức để bắt buộc các ngân hàng thực hiện Báo cáo phát triển bền vững. Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201966 Hai là, mặc dù hoạt động truyền thông về ngân hàng xanh và tín dụng xanh đã bắt đầu được các ngân hàng chú trọng trong những năm gần đây, các hoạt động truyền thông này chỉ chủ yếu tập trung vào việc thông tin về các hoạt động cấp tín dụng xanh cho các dự án nông nghiệp sạch, nông nghiệp công nghệ cao hoặc các dự án năng lượng sạch, năng lượng tái tạo trong khi có rất nhiều dự án trong các lĩnh vực khác cũng có tác động lớn lên môi trường- xã hội. Hơn nữa, một số ngân hàng đã chú trọng vào tham gia và hợp tác với các tổ chức quốc tế trong hoạt động cấp tín dụng xanh, tuy nhiên hoạt động truyền thông chỉ dừng lại ở việc ký kết giữa các bên tham gia mà chưa chú trọng vào mức độ thực hiện các cam kết hoặc các hợp đồng hợp tác trên. Hơn nữa, hoạt động truyền thông về ngân hàng xanh và tín dụng xanh của các ngân hàng chưa đề cập đến đầy đủ các khía cạnh của chiến lược phát triển bền vững (chính sách, sản phẩm, quản lý rủi ro, nhân sự) và chưa đủ đa dạng để tiếp cận đến phần lớn các bên liên quan của ngân hàng (nhà đầu tư, khách hàng, người lao động, chính phủ, các tổ chức phi chính phủ, cộng đồng). Ba là, do thiếu các quy định và hướng dẫn cụ thể của NHNN về phát triển ngân hàng xanh/ tín dụng xanh, hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng khung chiến lược và lộ trình thực hiện hướng tới phát triển ngân hàng xanh một cách cụ thể. Chỉ một số ít ngân hàng đã xây dựng và thiết lập hệ thống quản lý rủi ro môi trường- xã hội một cách toàn diện, bao gồm: Xây dựng các hướng dẫn nội bộ về quản lý rủi ro môi trường- xã hội trong hoạt động cấp tín dụng; xây dựng hệ thống báo cáo về hoạt động quản lý rủi ro môi trường- xã hội; xây dựng các chương trình nâng cao năng lực thể chế của ngân hàng về quản lý rủi ro môi trường- xã hội. Các ngân hàng hầu hết chưa kết hợp việc đánh giá rủi ro môi trường- xã hội trong hoạt động đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng, chưa đưa việc đánh giá rủi ro môi trường- xã hội trong hướng dẫn về kiểm toán nội bộ và trong các báo cáo chung của ngân hàng; chưa phát triển kế hoạch quản lý rủi ro môi trường- xã hội sau khi đánh giá và giám sát các dự án và các khoản vay đã triển khai. Hầu hết các ngân hàng chưa xây dựng chính sách cho vay cụ thể đối với các lĩnh vực môi trường nhạy cảm, hiện tại chỉ có VP Bank thực hiện công bố rộng rãi về các dự án, phương án kinh doanh có ảnh hưởng tiêu cực tới môi trường và xã hội mà ngân hàng này từ chối cấp tín dụng. + Cơ sở hạ tầng thị trường tài chính xanh chưa được thiết lập và phát triển: Thị trường tài chính xanh Việt Nam hiện nay gần như thiếu vắng hệ thống cơ sở hạ tầng khung cho việc xây dựng và phát triển trong thời gian tới. Với những bất cập nêu trên, trong thời gian tới để hệ thống tài chính xanh phát triển phù hợp với thông lệ quốc tế nhằm hỗ trợ tích cực cho tăng trưởng kinh tế xanh, một số giải pháp cần được triển khai thực hiện: (1) Xây dựng bộ quy tắc và quy định về tài chính xanh làm nền tảng cho việc xây dựng hệ thống tài chính xanh gồm công cụ tài chính xanh, định chế tài chính xanh và thị trường tài chính xanh. (2) Phát triển các sản phẩm tài chính xanh mới. Các sản phẩm tài chính xanh, như Quỹ CERs; Chỉ số liên quan đến carbon; ETF, CERs Futures, và Bảo hiểm bảo lãnh, sẽ cần thiết. Đặc biệt, các sản phẩm TRẦN THỊ XUÂN ANH - NGUYỄN THỊ LÂM ANH - TRẦN ANH TUẤN - NGÔ THỊ HẰNG Số 210- Tháng 11. 2019- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 67 tài chính xanh sẽ hỗ trợ hiệu quả năng lượng xanh và các công ty tham gia phát triển năng lượng thay thế được khuyến nghị phát triển. Các sản phẩm tài chính mới liên quan đến thời tiết cũng cần được giới thiệu để thích ứng về mặt tài chính với biến đổi khí hậu. (3) Xây dựng cơ sở hạ tầng cho tài chính xanh gồm: (i) Cần xây dựng Chỉ số doanh nghiệp xanh để thúc đẩy đầu tư xanh và thiết kế Chỉ số rủi ro xanh (Carbon) để thúc đẩy đầu tư vào trái phiếu xanh. Hiện nay, JP Morgan & Innovest đã hợp tác phát triển JENI Carbon Beta Index, chỉ số trái phiếu đầu tiên trên thế giới phản ánh rủi ro biến đổi khí hậu của các doanh nghiệp. (ii) Hệ thống cung cấp thông tin carbon cần phải được xây dựng nhằm tạo ra cơ chế truy cập thông tin carbon sẽ hữu ích cho các quyết định đầu tư và tổ chức tín dụng, đồng thời hệ thống này phải cập nhật thông tin trực tuyến về các sản phẩm tài chính carbon. (iii) Ngoài ra, Cơ quan xếp hạng doanh nghiệp xanh có thể thúc đẩy xếp hạng xanh. Trên thế giới hiện có ba cơ quan xếp hạng chính chuyên về hiệu suất môi trường của công ty: Đổi mới (Hoa Kỳ), EIRIS (Anh), SAM (Thụy Sĩ). (iv) Thông tin về các công ty xanh cần được chia sẻ giữa các tổ chức công cộng và các tổ chức xếp hạng tư nhân liên quan đến tăng trưởng xanh hoặc tài chính xanh. (v) Đào tạo các chuyên gia về cách nghiên cứu, xem xét và đầu tư để cung cấp dịch vụ tài chính carbon là điều cần thiết. Giới thiệu các chương trình đào tạo chuyên nghiệp và thúc đẩy chuyên môn được khuyến nghị để tăng cường giáo dục tài chính xanh. (vi) Giáo dục tiêu dùng tài chính xanh cũng cần thiết. Thông qua giáo dục công chúng và người tiêu dùng, nâng cao nhận thức về tăng trưởng xanh có thể ngăn chặn sự phát triển của bong bóng xanh, rủi ro môi trường và các rủi ro chính khác trong tài chính xanh. (4) Tăng cường vai trò của các định chế tài chính xanh, đặc biệt là vai trò của các NHTM. Để thúc đẩy phát triển tín dụng xanh tại Việt Nam, vai trò của NHNN rất quan trọng, không chỉ trong việc hoạch định chính sách mà còn trong công tác giám sát, hỗ trợ cũng như trong hoạt động phối hợp với các bộ ban ngành liên quan. Để hoàn thành được các vai trò trên, NHNN cần nhiều công cụ khác nhau. Theo đề xuất của Dikau và Ryan-Collins (2017), các công cụ mà NHNN dùng để khuyến khích hoạt động ngân hàng xanh/ tín dụng xanh có thể chia làm 3 nhóm chính sau: (i) Nhóm công cụ phân bổ tín dụng xanh: thực hiện mục tiêu phân bổ hiệu quả tín dụng cho các lĩnh vực xanh; (ii) Nhóm công cụ vĩ mô xanh: Thực hiện mục tiêu bảo vệ ổn định tài chính; (iii) Nhóm công cụ xanh khác như xây dựng các hướng dẫn phát triển tài chính xanh hay thiết lập thị trường trái phiếu xanh. ■ Tài liệu tham khảo 1. Báo cáo Bộ tài nguyên môi trường (2017), The Second Biennial Updated Report of Vietnam to the United Nations Framework Convention on Climate Change, truy cập ngày 24/02/2019 Tài chính xanh cho phát triển kinh tế xanh tại Việt Nam- những vấn đề cần tháo gỡ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 210- Tháng 11. 201968 2. https://unfccc.int/sites/default/files/resource/97620135_Viet%20Nam-BUR2-1-Viet%20Nam%20-%20BUR2.pdf 3. Bộ Tài chính (2019), Phát triển trái phiếu xanh, truy cập ngày 24/02/2019 4. ID=155494&_afrLoop=33525752488083093#!%40%40%3FdID%3D155494%26_afrLoop%3D33525752488083093 %26dDocName%3DMOFUCM149098%26_adf.ctrl-state%3Dhvnrqoerg_4. 5. Climate Bonds Initiative (2017), Bonds and Climate Change, truy cập ngày 24/02/2019 6. https://www.climatebonds.net/files/files/CB-HSBC-2017-India-Final-01.pdf 7. Climate Bonds Initiative (2018), Korea Climate Bond Market: Overview and Opportunities, truy cập ngày 24/02/2019 8. https://www.climatebonds.net/files/reports/cbi-korea_market-final-01a.pdf 9. Climate Bonds Initiative (2018), ASEAN Green Finance - State of the Market 2018, truy cập ngày 24/02/2019 10. https://www.climatebonds.net/files/reports/asean_sotm_18_final_03_web.pdf 11. Climatescope (2018), Clean Energy Investment, truy cập ngày 24/02/2019 12. 13. Cục quản lý giám sát bảo hiểm (2018), Chung tay góp sức vào sự phát triển ổn định, bền vững của thị trường bảo hiểm, truy cập ngày 24/02/2019 14. 33523299072069484#!%40%40%3F_afrLoop%3D33523299072069484%26dDocName%3DMOFUCM149667%26_ adf.ctrl-state%3D9z7vxal5a_9 15. Dawson, Jack (2015), Learn the Effective Features of Green Finance, truy cập ngày 24/02/2019 16. https://www.renewableenergyworld.com/ugc/articles/2015/03/learn-the-effective-features-of-green-finance.html 17. Dikau, S., & Ryan-Collins, J. (2017), Green Central Banking in Emerging Market and Developing Country Economies, truy cập ngày 24/02/2019 18. 19. Mehta, A (2017), Catalyzing Green Finance: A Concept for Leveraging Blended Finance for Green Development, truy cập ngày 24/02/2019 20. 21. Ngân hàng phát triển Châu Á ADB (2019), Asia Bond Monitor 2010- 2018, truy cập ngày 24/02/1019 22. https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_nov_2018.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/ abm_mar_2018.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_mar_2017.pdf; https://asianbondsonline. adb.org/documents/abm_mar_2016.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_mar_2015.pdf; https:// asianbondsonline.adb.org/documents/abm_mar_2014.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_ mar_2013.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_apr_2012.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/ documents/abm_mar_2011.pdf; https://asianbondsonline.adb.org/documents/abm_mar_2010.pdf 23. NHNN (2018), Chỉ thị 03/CT-NHNN ngày 24/3/2014 về thúc đẩy tăng trưởng tín dụng xanh và quản lý rủi ro môi trường và xã hội trong hoạt động cấp tín dụng. 24. Quyết định 813/QĐ-NHNN ngày 24/4/2017 của Thống đốc NHNN về chương trình cho vay khuyến khích phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông nghiệp sạch theo NQ 30/NQ-CP ngày 07/3/2017 của Chính phủ. 25. Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày 7/8/2018 về việc phê duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại Việt Nam. 26. UNEP (2011), Definitions and Concepts: Background Note, truy cập ngày 24/02/2019 27. 28. UBCKNN (2018), Báo cáo thường niên. 29. Viện chiến lược chính sách tài nguyên và môi trường, Xây dựng cơ chế chính sách huy động nguồn lực tài chính đầu tư cho tăng trưởng, truy cập ngày 24/02/2019 30. xanh 31. WWF (2017), Sustainable Banking in ASEAN: Addressing ASEAN’s Forests, Landscapes, Climate, Water, Societies, truy cập ngày 24/02/2019 32. Addressing-ASEANs-Forests-Landscapes-Climate-Water-Societies 33. WWF (2018), Sustainable Banking in ASEAN 2018, truy cập ngày 24/02/2019 34.
File đính kèm:
- tai_chinh_xanh_cho_phat_trien_kinh_te_xanh_tai_viet_nam_nhun.pdf