Tác động của tái cơ cấu ngành kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động ở Việt Nam

Mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm qua và cho đến nay chủ yếu vẫn

là tăng trưởng theo số lượng và phát triển theo chiều rộng, có nghĩa là tăng trưởng nhờ vào vốn

đầu tư và số lượng lao động. Việc tăng trưởng theo chất lượng, phát triển theo chiều sâu dựa vào

năng suất lao động chưa nhiều. Tái cơ cấu ngành kinh tế sẽ tác động đến dịch chuyển lao động từ

các ngành, nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang ngành, nhóm ngành có năng suất lao

động cao, từ đó đáp ứng được chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực canh

tranh của nền kinh tế.

Nghiên cứu của bài viết sử dụng phương pháp vector để phân tích “góc chuyển dịch” của cơ

cấu ngành kinh tế tác động đến cơ cấu lao động của các ngành, đồng thời tác giả sử dụng phương

pháp hệ số co dãn để tính toán hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh đến dịch chuyển cơ cấu

lao động, tăng năng suất lao động của Việt nam trong thời gian qua.

pdf 11 trang kimcuc 19060
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của tái cơ cấu ngành kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của tái cơ cấu ngành kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động ở Việt Nam

Tác động của tái cơ cấu ngành kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động ở Việt Nam
3Tác động của . . .
Kinh tế - Xã hội 
TÁC ĐỘNG CỦA TÁI CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ 
ĐẾN CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU LAO ĐỘNG, 
TĂNG NĂNG SUẤT LAO ĐỘNG Ở VIỆT NAM 
Nguyễn Quốc Tế (*) 
Nguyễn Thị Đông (**) 
TÓM TẮT
Mô hình phát triển kinh tế của Việt Nam trong nhiều năm qua và cho đến nay chủ yếu vẫn 
là tăng trưởng theo số lượng và phát triển theo chiều rộng, có nghĩa là tăng trưởng nhờ vào vốn 
đầu tư và số lượng lao động. Việc tăng trưởng theo chất lượng, phát triển theo chiều sâu dựa vào 
năng suất lao động chưa nhiều. Tái cơ cấu ngành kinh tế sẽ tác động đến dịch chuyển lao động từ 
các ngành, nhóm ngành có năng suất lao động thấp sang ngành, nhóm ngành có năng suất lao 
động cao, từ đó đáp ứng được chuyển đổi mô hình tăng trưởng, nâng cao hiệu quả và năng lực canh 
tranh của nền kinh tế.
Nghiên cứu của bài viết sử dụng phương pháp vector để phân tích “góc chuyển dịch” của cơ 
cấu ngành kinh tế tác động đến cơ cấu lao động của các ngành, đồng thời tác giả sử dụng phương 
pháp hệ số co dãn để tính toán hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh đến dịch chuyển cơ cấu 
lao động, tăng năng suất lao động của Việt nam trong thời gian qua.
Từ khoá: Tái cơ cấu ngành kinh tế, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng năng suất lao động
THE EFFECT OF THE ECONOMY RECONSTRUCTION 
TO THE MOVEMENT OF THE LABOR FORCE AND 
THE LABOR PRODUCTIVITY GROWTH
ABSTRACT 
So far, Vietnamese model of economic development has been mainly developed in quantity 
and grown by width. It means the development bases on investment and the labor force. Qualitative 
growth as well as deep development have not been achieved much. Economic reconstruction would 
affect the labor force from all areas or low productivity sectors and move them to high ones, as a 
result would meet the demand of converting economic development models to increase the labor 
productivity growth and competitive likeability of the economy.
* PGS.TS. Trường Đại học Kinh tế Tp. Hồ Chí Minh
** ThS. GV Học viện Ngân hàng, Phân viện Phú Yên
4Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Đặt vấn đề
Chuyển dịch cơ cấu lao động để tăng năng 
suất lao động, tăng trưởng kinh tế là một vấn 
đề nghiên cứu đã được các nhà khoa học quan 
tâm trong các giai đoạn phát triển kinh tế - xã 
hội của đất nước. Tuy vậy, đánh giá đúng vai 
trò, thực trạng chuyển dịch cơ cấu lao động 
vẫn luôn là một trong những đề tài hấp dẫn 
từ nhiều cách tiếp cận nghiên cứu khác nhau. 
Bài viết phân tích chuyển dịch cơ cấu lao 
động theo ngành dưới góc độ của chuyển dịch 
cơ cấu ngành kinh tế. Hai yếu tố này có mối 
quan hệ mật thiết với nhau, chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế định hướng cho quá trình chuyển 
dịch cơ cấu lao động. Nhưng để cơ cấu kinh 
tế chuyển dịch thành công nhất thiết phải có 
sự chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp, vì 
một cơ cấu lao động không phù hợp sẽ làm 
nảy sinh các vấn đề tiêu cực như thất nghiệp, 
khoảng cách giàu nghèo, mất cân đối, mất 
bình đẳng trong xã hội.
1. Tái cơ cấu ngành kinh tế và chuyển 
dịch cơ cấu lao động
Cơ cấu ngành kinh tế được hiểu là tương 
quan giữa các ngành trong tổng thể nền kinh 
tế, thể hiện mối quan hệ hữu cơ và sự tác động 
qua lại cả về số lượng và chất lượng giữa các 
ngành với nhau. Xuất phát từ yêu cầu phát 
triển, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu ngành kinh tế 
luôn thay đổi theo từng thời kỳ phát triển bởi 
các yếu tố hợp thành cơ cấu không cố định. 
Quá trình thay đổi cơ cấu của ngành từ trạng 
thái này sang trạng thái khác ngày càng hoàn 
thiện hơn, phù hợp với môi trường và điều 
kiện phát triển gọi là sự chuyển dịch cơ cấu 
ngành kinh tế (Phạm Ngọc Linh & Nguyễn 
Thị Kim Dung, 2011).
Xét trên khía cạnh tăng trưởng và phát 
triển kinh tế thì cơ cấu ngành được xem là 
quan trọng nhất, được quan tâm nghiên cứu 
nhất vì nó phản ánh sự phát triển của khoa 
học công nghệ, lực lượng sản xuất, phân công 
lao động, chuyên môn hóa và hợp tác hóa 
sản xuất. Trạng thái cơ cấu ngành là dấu hiệu 
phản ánh trình độ phát triển kinh tế của mỗi 
quốc gia. Quá trình chuyển dịch cơ cấu ngành 
là một quá trình diễn ra liên tục và gắn với 
sự phát triển kinh tế. Mặt khác, nhịp độ phát 
triển và tính chất bền vững của quá trình tăng 
trưởng kinh tế lại phụ thuộc vào khả năng 
chuyển dịch cơ cấu ngành linh hoạt, phù hợp 
với những điều kiện bên trong, bên ngoài và 
các lợi thế tương đối của nền kinh tế.
 Tái cơ cấu ngành kinh tế sẽ kéo theo 
cơ cấu lao động thay đổi, lao động được phân 
bổ và ngành, vùng sẽ khác nhau. Ở các nước 
đang phát triển, khi tiến hành CNH, HĐH 
nhất thiết phải thay đổi cơ cấu kinh tế, trong 
đó cơ cấu ngành có vị trí quan trọng. Việc đầu 
tư cho các ngành thuộc khu vực CN, XDCB 
và DV, TM sẽ dịch chuyển lao động từ các 
ngành có năng suất lao động thấp như nông, 
lâm nghiệp-thuỷ sản sang các ngành có năng 
suất lao động cao như : CN, XDCB và TM-
DV. Theo nhà kinh tế Dương Ngọc, trong 
năm 2012, năng suất lao động của các ngành 
 This research uses vector method to analyze the “triangle shift “of the economic structure 
toward the labor force in all areas. At the same time, the author also uses “elasticity method” to 
estimate the effect of movement of economic sectors to the movement of the labor force structure, 
increase productivity of the labor force in Vietnam for the past few years.
Key words: economic sectors, movement of the labor force structure, labor productivity 
growth
5Tác động của . . .
nông, lâm nghiệp - thủy sản thấp xa so với 
năng suất lao động của toàn nền kinh tế và so 
với các nhóm ngành khác. Cụ thể: của toàn bộ 
nền kinh tế là 57,1 triệu VND/người, tương tự 
ngành nông, lâm nghiệp – thủy sản là 26 triệu; 
CN, XDCB là 110,2 triệu và của TM, DV là 
68,4 triệu.(Thời báo: Kinh tế 2012-2013 Việt 
nam và thế giới) 
Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình 
phân bổ, bố trí lao động theo những quy luật, 
những xu hướng tiến bộ nhằm mục đích sử 
dụng đầy đủ và có hiệu quả cao các nguồn 
lực để tăng trưởng và phát triển (Nguyễn 
Tiệp, 2007). Đây được coi là một trong những 
chỉ tiêu quan trọng, phản ánh thực nhất mức 
chuyển biến của nền kinh tế. Ở một số quốc 
gia vẫn tồn tại hiện tượng lao động phi nông 
nghiệp chiếm tỷ trọng nhỏ trong khi cơ cấu 
GDP lại chiếm tỷ trọng lớn hơn nhiều. Lý 
giải vấn đề này, các nhà kinh tế học đã chỉ ra 
tình trạng méo mó về giá cả, nhất là trong các 
trường hợp có sự chênh lệch giá giữa sản phẩm 
công nghiệp và dịch vụ so với sản phẩm nông 
nghiệp khiến cho cơ cấu GDP giữa các ngành 
không phản ánh đúng thực trạng chuyển dịch 
cơ cấu của nền kinh tế. Lúc này, vai trò của 
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành được 
nâng cao, đặc biệt các nhà kinh tế học ở Trung 
Quốc còn xem đây như là chỉ tiêu quyết định 
nhất để chỉ ra thực trạng nền kinh tế đang tồn 
tại ở Trung Quốc đầu thế kỷ 21: (1) Kinh tế 
nông nghiệp, tạo việc làm cho gần 50% lao 
động, tương đương với các nước Mỹ, Pháp, 
Đức năm 1870. (2) Kinh tế công nghiệp, xây 
dựng, sử dụng 20% lao động đang làm việc. 
(3) Kinh tế dịch vụ, sử dụng 22% lao động. 
(4) Kinh tế tri thức, bao gồm giáo dục, y tế, 
văn hóa, khoa học kỹ thuật – công nghệ, tài 
chính ngân hàng, bảo hiểm, tạo việc làm cho 
5% lao động (Hồ An Cương, 2003).
Tái cơ cấu ngành kinh tế và chuyển dịch 
cơ cấu lao động có mối quan hệ tác động qua 
lại với nhau: tái cơ cấu ngành kinh tế vừa là 
tiền đề, cơ sở nhưng đồng thời lại vừa là kết 
quả có được từ quá trình chuyển dịch cơ cấu 
lao động. 
Trước hết, cơ cấu lao động phải được 
chuyển dịch theo sự chuyển dịch của cơ cấu 
ngành kinh tế, phục vụ và đáp ứng các yêu cầu 
của chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch 
cơ cấu ngành kinh tế đóng vai trò là đầu tàu, 
định hướng và dẫn dắt quá trình dịch chuyển 
cơ cấu lao động. Fisher đã phân tích, theo xu 
thế phát triển của khoa học công nghệ, ngành 
nông nghiệp dễ có khả năng thay thế lao động 
nhất, việc tăng cường sử dụng máy móc thiết 
bị và các phương thức canh tác mới đã tạo 
điều kiện cho nông dân nâng cao năng suất 
lao động. Kết quả là để đảm bảo nhu cầu 
lương thực, thực phẩm cho xã hội thì không 
cần đến một lực lượng lao động như cũ nên 
tỷ lệ lao động nông nghiệp có xu hướng giảm 
dần trong cơ cấu ngành kinh tế. Trong khi đó 
ngành công nghiệp là ngành khó có khả năng 
thay thế hơn nông nghiệp do tính chất phức 
tạp hơn của việc sử dụng công nghệ kỹ thuật 
mới, đồng thời sản phẩm công nghiệp thường 
có độ co giãn của cầu tiêu dùng là lớn hơn 0, 
vì vậy theo sự phát triển của kinh tế, tỷ trọng 
lao động công nghiệp có xu hướng tăng lên. 
Ngành dịch vụ được coi là khó có khả năng 
thay thế lao động nhất do đặc điểm kinh tế kỹ 
thuật của việc tạo ra nó, rào cản cho sự thay 
thế kỹ thuật này rất cao, trong khi đó độ co 
giãn của nhu cầu sản phẩm dịch vụ khi nền 
kinh tế ở trình độ phát triển cao là lớn hơn 1, 
do đó tỷ trọng lao động trong ngành dịch vụ 
sẽ có xu hướng tăng nhanh và ngày càng tăng 
khi nền kinh tế càng phát triển (Phạm Ngọc 
Linh & Nguyễn Thị Kim Dung, 2011)
6Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Như vậy, trong nghiên cứu của Fisher, một 
ngành phát triển sẽ kéo theo nhu cầu về lao 
động của ngành đó tăng lên, khẳng định rằng 
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế là một định 
hướng cho chuyển dịch cơ cấu lao động. Tuy 
nhiên, nếu cơ cấu lao động được chuyển dịch 
thuận lợi, nó lại tạo điều kiện cho cơ cấu kinh 
tế phát triển và thúc đẩy cơ cấu kinh tế chuyển 
dịch nhanh hơn. Nhà kinh tế học A. Lewis cho 
rằng nếu như lao động ở khu vực nông nghiệp 
với năng suất thấp dịch chuyển sang khu vực 
công nghiệp và dịch vụ với năng suất cao hơn 
sẽ làm tăng năng suất lao động của toàn nền 
kinh tế, đồng nghĩa với việc đạt được tốc độ 
tăng trưởng kinh tế cao và chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế mạnh (E. Wayne Nafziger, 1998).
2. Lượng hóa tác động của chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế đến chuyển dịch cơ cấu 
lao động ở Việt Nam bằng phương pháp 
vector và hệ số co giãn
2.1 Phuơng pháp tính toán
Phương pháp vector (hay hệ số Cos) do các 
chuyên gia ngân hàng thế giới đề xuất được 
dùng để đánh giá mức độ chuyển dịch cơ cấu 
giữa các thời kỳ (Công Văn Dị, 2008). Nghiên 
cứu này sử dụng phương pháp vector để tính 
góc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo ngành và 
góc chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành. 
Theo đó ta có thể tính toán như sau:
 y Hệ số chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo 
ngành:
( ), ( )
( ), ( )
( )cos
t t
t t
1
ii
n
ii
n
ii
n
i
2
1 0
2
1 1
01 1{
b b
b b
=
= =
=
/ /
/
D e m o
Trong đó:
 – βi(t0) là tỷ trọng giá trị sản lượng của 
ngành i trong GDP tại thời điểm t
0
 – βi(t1) là tỷ trọng giá trị sản lượng của 
ngành i trong GDP tại thời điểm t
1
 φ là góc hợp bởi hai vector cơ cấu βi(t0) và 
βi(t1). Khi cosφ = 1 thì góc giữa hai vector này 
bằng 00, điều đó có nghĩa là hai cơ cấu đồng 
nhất; còn khi cosφ = 0 thì góc giữa hai vector 
này bằng 900 thể hiện các vector cơ cấu là trực 
giao với nhau. Như vậy, cosφ càng lớn bao 
nhiêu thì các cơ cấu càng gần nhau bấy nhiêu 
và ngược lại, nên giá trị của φ sẽ nằm trong 
đoạn 0o ≤ φ ≤ 900 , với φ = 00 thì không có sự 
dịch chuyển cơ cấu kinh tế; và φ = 900 thì cơ 
cấu kinh tế dịch chuyển hoàn toàn.
Từ đó suy ra tỷ lệ chuyển dịch k của cơ 
cấu kinh tế ngành sẽ là:
* ( )90 100 2l
{
=D e m o
Công thức tính tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu 
theo ngành này cũng được áp dụng để đánh 
giá chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo lãnh thổ 
hoặc theo thành phần kinh tế, lúc đó tỷ trọng 
ngành i (βi) sẽ được thay bằng tỷ trọng vùng i 
hay tỷ trọng thành phần kinh tế i.
 y Hệ số chuyển dịch cơ cấu lao động theo 
ngành:
( ), ( )
( ) . ( )
( )cos
S t S t
S t S t
3
i ii
n
i
n
i ii
n
2
0
2
111
0 11a =
==
=
//
/
D e m o
Trong đó:
 – Si(t0) là tỷ trọng lao động ở ngành i 
trong tổng lao động đang làm việc 
trong nền kinh tế tại thời điểm t
0
 – Si(t1) là tỷ trọng lao động ở ngành i 
trong tổng lao động đang làm việc 
trong nền kinh tế tại thời điểm t
1
Tương tự như công thức tính mức độ 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, α cũng là góc hợp 
bởi hai vector cơ cấu Si(t0) và Si(t1). Do đó, tỷ lệ 
chuyển dịch l của cơ cấu lao động theo ngành 
sẽ là: 
* ( )l 90 100 4
a=D e m o
7Tác động của . . .
Kết hợp tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
và cơ cấu lao động theo ngành để đánh giá 
hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến 
chuyển dịch cơ cấu lao động thông qua các hệ 
số co giãn sau:
( )E 5l
k=lk
Elk là hệ số co giãn của chuyển dịch cơ 
cấu lao động theo mức độ chuyển dịch cơ 
cấu ngành kinh tế, đo lường độ nhạy cảm 
của chuyển dịch việc làm khi cơ cấu kinh tế 
chuyển dịch 1%. Nếu hệ số này dương, có 
nghĩa chuyển dịch cơ cấu kinh tế tác động 
thuận chiều đến chuyển dịch việc làm, kết 
quả của chuyển dịch là phù hợp với mục 
tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. 
Trường hợp ngược lại, nền kinh tế có thể bị 
rơi vào tình trạng tăng truởng âm, do cơ cấu 
kinh tế chuyển dịch không phù hợp.
2.2 Kết quả tính toán
Ứng dụng phương pháp vector và hệ số 
co giãn trình bày ở trên, sử dụng bộ số liệu 
thống kê của Ngân hàng phát triển Châu Á 
(ADB) cùng số liệu thống kê Việt Nam để 
tính tác động của chuyển dịch cơ cấu kinh 
tế ngành đến tạo việc làm trong nền kinh 
tế giai đoạn 1994 – 2012, kết quả có được 
như sau:
Bảng 1: Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành theo hệ số cosφ
Thời gian Mức độ 
chuyển dịch
hệ số cosφ Độ chuyển 
dịch φ (độ)
Tỷ lệ chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế k (%)
1994 – 1997
NN – CN 0.992523 4.206591 4.67399
CN – DV 0.997999 2.175326 2.417029
CHUNG 0.996428 2.906371 3.229301
1997 – 2000
NN – CN 0.998441 1.919746 2.133052
CN – DV 0.998096 2.121802 2.357558
CHUNG 0.998281 2.016091 2.240101
2000 – 2004
NN – CN 0.994654 3.556169 3.951299
CN – DV 0.997869 2.244516 2.493906
CHUNG 0.996547 2.857598 3.175109
2004 -2008
NN – CN 0.996921 2.698422 2.998246
CN – DV 0.999783 0.716462 0.796069
CHUNG 0.998306 2.001152 2.223502
2008 – 2012
NN – CN 0.999492 1.095982 1.217758
CN – DV 0.999906 0.470415 0.522684
CHUNG 0.999524 1.060308 1.178121
1994 - 2012
NN – CN 0.924136 13.47691 14.97434
CN – DV 0.980571 6.787691 7.541879
CHUNG 0.959838 9.775995 10.86222
Nguồn: tính toán từ số liệu ADB và Niên giám Thống kê Việt Nam
8Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
Nghiên cứu này phân tích quá trình chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế ngành theo 5 giai đoạn của 
thời gian, dựa vào những biến động về mặt 
kinh tế - xã hội trong nước và trên thế giới. 
Giai đoạn 1994 – 1997 được coi là giai 
đoạn phát triển thành công của Việt Nam 
bởi cả về quyết định chuyển sang kinh tế thị 
trường và đạt được mục tiêu kiềm chế lạm 
phát, tạo nên sự tăng trưởng và chuyển dịch 
cơ cấu ngành kinh tế mạnh nhất cho đến nay, 
với góc chuyển dịch cơ cấu chung là 2,90, đạt 
3,23%. Mức chuyển dịch từ nông nghiệp sang 
công nghiệp cũng đạt cao nhất ở thời kỳ này 
(4,67%).
Sự kiện khủng hoảng tài chính châu Á 
bùng nổ vào năm 1997 đã tác động đến nền 
kinh tế Việt Nam ở giai đoạn tiếp theo (1997 
– 2000), khiến tăng trưởng GDP đang ở mức 
9,3% năm 1996 đã bị kéo tuột xuống mức 
5,8% vào năm 1998 và năm 1999 là 4,8%. 
GDP sụt giảm là nguyên nhân khiến cơ cấu 
kinh tế chuyển dịch chậm chạp ở mức 2,24% 
với góc chuyển dịch là 20.
Sau khủng hoảng, đã có những chuyển 
biến thực sự về tư duy  ... thông qua dấu hiệu lạm phát 
có xu hướng tăng dần: 9,5% cho năm 2004 
đến 12,63% của năm 2007 và 19,89% vào 
năm 2008 (Tổng cục Thống kê, 2013). Sự bất 
ổn này đã bộc lộ rõ hơn khi nền kinh tế tài 
chính Mỹ lâm vào khủng hoảng, ảnh hưởng 
xấu đến cả xuất khẩu và đầu tư của Việt Nam 
khiến tốc độ tăng GDP Việt Nam 2008 chỉ đạt 
xấp xỉ 6,23%, kéo theo đó là chuyển dịch cơ 
cấu công nghiệp sang dịch vụ giai đoạn 2004 
– 2008 chỉ còn ở mức 0,79% và đạt 2,22% 
tính cho toàn bộ quá trình chuyển dịch.
Kinh tế Việt Nam giai đoạn 2008 - 2012 
vẫn chưa thoát khỏi tình trạng lạm phát cao 
và tăng trưởng thấp. Tốc độ tăng trưởng GDP 
2009 tụt xuống còn 5,32% và năm 2012 là 
5,03%, thấp nhất trong vòng 10 năm qua. 
Chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế phản ánh 
đúng thực trạng của quá trình tăng trưởng, số 
liệu tính toán cũng cho thấy giai đoạn này có 
độ chuyển dịch nhỏ nhất trong tất cả các kỳ 
nghiên cứu, với góc chuyển dịch là 1,060, đạt 
1,18%.
Như vậy, kinh tế Việt Nam trong gần 
20 năm qua tuy có rất nhiều biến động 
nhưng nhìn chung cơ cấu kinh tế ngành 
vẫn có chuyển biến tích cực theo hướng 
tăng dần tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ với 
mức chuyển dịch chung là 10,86%, trong 
đó nông nghiệp – công nghiệp dịch chuyển 
gần 15% và công nghiệp – dịch vụ dịch 
chuyển hơn 7,5%. Tác động của chuyển 
dịch cơ cấu ngành kinh tế đã làm thay đổi 
cơ cấu lao động nước ta theo xu hướng công 
nghiệp hóa, hiện đại hóa. Số lao động trong 
các ngành công nghiệp, dịch vụ ngày càng 
tăng lên, trong khi số lao động ngành nông 
nghiệp ngày càng giảm xuống. Sự thay đổi 
này được thể hiện trong bảng 2.
9Tác động của . . .
Bảng 2: Tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành theo hệ số cosα
Thời gian Mức độ 
chuyển dịch
hệ số cosα Độ chuyển 
dịch α (độ)
Tỷ lệ chuyển dịch cơ 
cấu lao động l (%)
1994 – 1997
NN – CN 0.999989 0.161436 0.179373
CN – DV 0.999875 0.542763 0.60307
CHUNG 0.999988 0.167365 0.185961
1997 – 2000
NN – CN 0.999599 0.973876 1.082085
CN – DV 0.999565 1.013658 1.126286
CHUNG 0.995915 3.108553 3.453947
2000 – 2004
NN – CN 0.991514 4.481724 4.979693
CN – DV 0.967427 8.798447 9.776052
CHUNG 0.992607 4.182763 4.647515
2004 -2008
NN – CN 0.997688 2.338342 2.598158
CN – DV 0.999416 1.17528 1.305867
CHUNG 0.992778 4.134218 4.593576
2008 – 2012
NN – CN 0.997951 2.201163 2.445737
CN – DV 0.999964 0.290161 0.322401
CHUNG 0.995651 3.207156 3.563507
1994 – 2012
NN – CN 0.956674 10.15654 11.28505
CN – DV 0.980144 6.862111 7.624568
CHUNG 0.931898 12.76044 14.17826
Nguồn: tính toán từ số liệu ADB và Niên giám Thống kê Việt Nam
Tính toán ở bảng 2 cho thấy tỷ lệ chuyển 
dịch cơ cấu lao động nông nghiệp sang công 
nghiệp qua các giai đoạn có chịu ảnh hưởng 
của quá trình tăng trưởng kinh tế. Riêng giai 
đoạn 1994 – 1997, trong khi tăng trưởng kinh 
tế ở mức cao thì sự chuyển dịch còn diễn ra 
chậm chạp, chỉ đạt gần 0,18%, sự chậm chạp 
này đánh giá đúng thực trạng của một nền nông 
nghiệp truyền thống, nơi mà người nông dân 
đã trải qua bao đời trên đồng ruộng, luôn có 
tư tưởng “bám đất, bám làng” và tự bằng lòng 
với những gì mà thiên nhiên ban tặng, cho nên 
việc chấp nhận thay đổi nghề nghiệp đối với 
người nông dân không thể diễn ra nhanh được. 
Chỉ sau khi họ nhìn thấy sự chênh lệch về mức 
sống giữa lao động công nghiệp và lao động 
nông nghiệp ngày càng tăng cao, thì lao động 
lúc này mới chuyển dịch mạnh mẽ: nếu giai 
đoạn 1997 – 2000 chỉ mới ở ngưỡng 1,08% thì 
giai đoạn tiếp theo sau (2000 – 2004) đã tăng 
lên thành 4,98%. Những năm 2006 đến nay, 
kinh tế tăng trưởng chậm lại khiến quá trình 
chuyển dịch cũng giảm theo. Bên cạnh đó, số 
liệu tính toán ở bảng 1 và bảng 2 cũng chứng 
minh rằng cơ cấu lao động công nghiệp – dịch 
vụ có mối tương quan rất chặt chẽ với cơ cấu 
kinh tế công nghiệp – dịch vụ theo hướng thuận 
chiều, chứng tỏ giữa lao động công nghiệp và 
lao động dịch vụ có sự tương đồng về tính chất, 
trình độ, kỹ năng, nên một sự thay đổi về cơ 
10
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
cấu kinh tế giữa hai khu vực này sẽ dễ dàng 
dẫn đến thay đổi về cơ cấu lao động. 
Xem xét tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu kinh tế 
ngành và tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu lao động 
theo ngành cho thấy cả hai sự chuyển dịch này 
đều có tương quan chặt chẽ với nhau, nhưng 
nếu chỉ dừng lại ở đây thì chưa thể đánh giá 
được mức hiệu quả của chuyển dịch cơ cấu 
kinh tế đối với sự thay đổi về cơ cấu lao động. 
Do đó, để định lượng một cách cụ thể mối 
quan hệ này, nghiên cứu sử dụng hệ số co giãn 
của cơ cấu lao động theo mức độ chuyển dịch 
cơ cấu kinh tế ngành. Kết quả tính toán được 
biểu diễn ở hình 1.
Nguồn: tính toán từ số liệu ADB và Niên giám Thống kê Việt Nam
Hệ số co giãn của cơ cấu lao động phản 
ánh sự thay đổi về tỷ lệ chuyển dịch cơ cấu 
lao động theo ngành ứng với mỗi phần trăm 
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế. Hệ số co 
giãn càng cao thể hiện khả năng chuyển dịch 
cơ cấu lao động càng cao, chứng tỏ quá trình 
chuyển dịch cơ cấu kinh tế đã tạo thêm được 
nhiều việc làm hơn cho người lao động.
Hệ số co giãn của cơ cấu lao động nông 
nghiệp – công nghiệp qua các giai đoạn chuyển 
biến theo xu hướng tích cực mặc dù kinh tế có 
lúc tăng trưởng chậm. Sự chuyển biến tích cực 
này chứa đựng tín hiệu đáng mừng về trình độ 
của người lao động thuộc khu vực nông thôn 
rằng họ đã có sự chuẩn bị tốt về các kỹ năng 
cần thiết để có thể kịp thời đáp ứng được việc 
làm ở khu vực công nghiệp. Ngược lại với sự 
tăng lên này theo thời gian, thì hệ số co giãn 
cơ cấu lao động công nghiệp – dịch vụ biến 
thiên rất lớn qua các giai đoạn. Trong giai đoạn 
2004 – 2008, nếu cơ cấu kinh tế hai ngành này 
chuyển dịch 1% sẽ kéo theo cơ cấu lao động 
dịch chuyển đến hơn 5,4%, thì đến giai đoạn 
2008 – 2012 hệ số co giãn chỉ còn lại gần 
0,62. Như đã phân tích ở trên, lao động công 
nghiệp và dịch vụ có nhiều tính chất giống 
nhau, nhưng mức lương trung bình ở khu vực 
dịch vụ cao hơn so với khu vực công nghiệp, 
nên một sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế công 
nghiệp – dịch vụ sẽ mở ra nhiều hy vọng cho 
những lao động công nghiệp muốn chuyển đổi 
ngành nghề. Mặt khác, giai đoạn 2008 – 2012 
là giai đoạn kinh tế thế giới khủng hoảng, và 
ngành dịch vụ lại chịu ảnh hưởng nặng nề nhất 
từ cuộc khủng hoảng này, thất nghiệp tăng cao 
khiến người lao động e ngại chuyển đổi công 
việc, đây cũng có thể là nguyên nhân làm hệ số 
co giãn cơ cấu lao động công nghiệp – dịch vụ 
trở nên thấp. Như vậy, trong 19 năm qua, cứ 
trung bình 1,31% cơ cấu lao động dịch chuyển 
khi cơ cấu kinh tế ngành dịch chuyển 1%. Tính 
chung trong toàn bộ các ngành, chuyển dịch cơ 
cấu lao động diễn ra nhanh hơn so với chuyển 
dịch cơ cấu kinh tế.
11
Tác động của . . .
3. Khuyến nghị chính sách và giải pháp.
Cơ cấu ngành kinh tế và cơ cấu lao động 
luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, tái cơ 
cấu ngành kinh tế thay đổi kéo theo sự thay 
đổi của cơ cấu lao động. Nghiên cứu chỉ ra 
sự thay đổi cơ cấu lao động cao hơn so với 
sự thay đổi về cơ cấu ngành kinh tế, cho thấy 
sự chuyển dịch này đã giải quyết được nhiều 
việc làm hơn, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp 
trong tổng số lao động xã hội, tạo điều kiện 
thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, hiện 
đại hóa đất nước. 
Bảng 3: Hệ số co giãn cơ cấu lao động theo mức độ chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế của 
một số nước khu vực Châu Á.
Nền kinh tế Giai đoạn
CDCC
kinh tế ngành
CDCC lao 
động ngành
Hệ số 
co giãn
Việt Nam 1994 – 2012 10.86222 14.23328 1.310348
Thái Lan 1994 -2010 3.42654 10.35742 3.022707
Indonesia 1994 - 2011 4.90006 6.81190 1.390166
Trung Quốc 1994 - 2010 8.08365 13.5034 1.670464
Hàn Quốc 1994 - 2011 1.15170 5.58004 4.845033
Nguồn: tính toán từ số liệu thống kê ADB cho các nước Việt Nam, Thái Lan, Indonesia, Trung Quốc, Hàn Quốc.
Nếu so sánh với một số nước thuộc khu 
vực châu Á theo từng yếu tố chuyển dịch cơ 
cấu như bảng 3, nhận thấy Việt Nam là quốc 
gia có tốc độ dịch chuyển cả về cơ cấu kinh tế 
lẫn cơ cấu lao động mạnh mẽ nhất trong gần 
20 năm qua, điều này vừa chứng tỏ kinh tế 
Việt Nam đang thực sự khơi dậy và phát huy 
được những nguồn lực còn tiềm tàng trong xã 
hội, vừa thể hiện đây là quốc gia mới bước 
vào thời kỳ đầu của quá trình công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa nên tốc độ dịch chuyển 
thường rất nhanh. Tuy nhiên, hệ số co giãn ở 
cột cuối cùng của bảng 3 mới là yếu tố được 
sử dụng để đánh giá mức độ hiệu quả của quá 
trình chuyển dịch cơ cấu, thì tính toán lại chỉ 
ra rằng Việt Nam là nước có mức độ chuyển 
dịch cơ cấu lao động theo sự chuyển dịch cơ 
cấu kinh tế ngành đạt thấp nhất: bằng 0,94 
lần so với Indonesia, 0,78 lần so với Trung 
Quốc, 0,43 lần so với Thái Lan và 0,27 lần 
so với Hàn Quốc. Cơ cấu lao động chậm 
chuyển dịch là dấu hiệu của một quốc gia có 
quá nhiều lao động trình độ thấp. Theo kết 
quả khảo sát “Thiếu hụt lao động kỹ năng ở 
Việt Nam” do Viện Khoa học lao động và xã 
hội (Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội) 
phối hợp với tập đoàn Manpower tiến hành 
tại 6.000 doanh nghiệp thuộc 9 lĩnh vực kinh 
tế tại 9 tỉnh, thành phố ở Việt Nam, các doanh 
nghiệp đánh giá chất lượng lao động Việt 
Nam nằm trong nhóm 10% thấp nhất của khu 
vực. Trong tổng số các doanh nghiệp tham gia 
khảo sát, có đến 1/4 doanh nghiệp cho rằng 
lao động Việt Nam thiếu hiểu biết về công 
nghệ và khả năng sáng tạo; 1/5 nhận xét lao 
động Việt Nam thiếu khả năng thích nghi với 
công nghệ mới; 1/3 doanh nghiệp không tìm 
được lao động có kỹ năng mà họ cần; và 2/5 
giám đốc điều hành gặp khó khăn trong tuyển 
dụng lao động (Dũng Hiếu, 2012). Do đó, để 
12
Taïp chí Kinh teá - Kyõ thuaät
đáp ứng được nhu cầu nhân lực chất lượng 
cao phục vụ cho các ngành công nghiệp hiện 
đại, Việt Nam nên tập trung vào việc đổi mới 
nhanh chóng hệ thống giáo dục theo hướng 
phát triển năng lực tư duy, năng lực sáng tạo; 
bồi dưỡng tác phong công nghiệp, tăng tính tổ 
chức, kỷ luật, tinh thần hợp tác, tính tự trọng, 
lòng tin, tính cộng đồng, lương tâm và trách 
nhiệm công dân. Cần phải xác định đây là 
việc làm rất khó khăn, không thể hoàn thành 
trong thời gian ngắn, song nhất thiết phải thực 
hiện và cần phải thực hiện một cách thường 
xuyên, liên tục, bền bỉ, kiên trì, sâu rộng ngay 
từ trong giáo dục mầm non, tiểu học đến cả 
trung học phổ thông, đại học sao cho những 
đức tính đó ngấm dần một cách tự nhiên và 
trở thành thói quen tự giác của mọi người. 
Không những thế, Việt Nam còn cần có chiến 
lược và tư duy đúng đắn về đào tạo và phát 
triển nguồn nhân lực theo hướng công nghiệp 
hóa, hiện đại hóa hướng tới toàn cầu hóa trên 
cơ sở xây dựng và điều chỉnh các chính sách 
hướng nghiệp, dạy nghề; chính sách dự báo 
nhu cầu lao động và cân đối lao động theo 
ngành nghề, cấp trình độ; chính sách thu hút 
các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào 
lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước; 
chính sách chi ngân sách đào tạo nguồn nhân 
lực; chính sách bảo đảm quyền lợi hợp pháp 
cho nhân dân lao động
Ngoài ra, như đã đề cập, chuyển dịch cơ 
cấu ngành kinh tế có ảnh hưởng quyết định 
đến quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động. 
Vậy nên cơ cấu lao động chậm chuyển dịch 
cũng được giải thích bởi nguyên nhân từ phía 
cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch chưa phù 
hợp với tiềm năng vốn có của đất nước. Nhìn 
nhận lại thời gian qua, để đạt được mục tiêu 
cơ bản trở thành nước công nghiệp vào năm 
2020, nhiều ngành công nghiệp như: sản xuất 
ô tô, sắt thép, đóng tàu đã được đầu tư hay 
trợ cấp thông qua ưu đãi thuế nhiều tỷ đô-la, 
tuy nhiên chưa có một số liệu thống kê nào 
chứng tỏ rằng đây là những thế mạnh và hứa 
hẹn của Việt Nam trong tương lai, bởi việc 
phát triển những ngành công nghiệp này trong 
thời gian qua chưa thực sự dựa vào nội lực 
của đất nước mà còn do những yếu tố khác. 
Trong khi đó, sau hơn 20 năm đổi mới, nhờ 
khai thác thế mạnh của mình, Việt Nam đã là 
“nước lớn” về xuất khẩu nông sản và các mặt 
hàng gia dụng như hồ tiêu, gạo, cà phê, chè, 
cao su, thủy sản, dệt may, da giày và đồ gỗ. 
Hơn thế, đây chính là những ngành giúp giải 
quyết việc làm và nâng cao đời sống cho phần 
lớn người dân Việt Nam, thế nhưng các mặt 
hàng này mới chỉ dừng ở mức sơ chế hoặc gia 
công, việc đầu tư vào những khâu có giá trị 
gia tăng cao hơn dường như chưa được chú 
trọng đúng mức. Do đó cần phải cơ cấu lại các 
ngành, nghề, sản phẩm theo hướng ưu tiên lựa 
chọn phát triển các sản phẩm tiếp theo dựa 
trên những sản phẩm hiện có, nhất là các sản 
phẩm xuất khẩu nhằm phát huy năng lực sẵn 
có của quốc gia. Đồng thời, để việc cơ cấu 
lại ngành nghề, sản phẩm diễn ra thuận lợi, 
Chính phủ cần thay đổi cơ cấu đầu tư theo 
hướng ưu tiên phát triển công nghiệp phục 
vụ nông nghiệp nông thôn, đặc biệt là công 
nghiệp sản xuất thiết bị, máy móc phục vụ 
sản xuất và thu hoạch nông sản, công nghiệp 
bảo quản sau thu hoạch, công nghiệp chế biến 
nông sản thực phẩm với trình độ công nghệ 
cao và sạch nhằm tăng sức cạnh tranh, thu hút 
đầu tư vào các ngành công nghiệp sử dụng 
nhiều lao động về địa bàn nông thôn để góp 
phần chuyển dịch nhanh cơ cấu lao động. 
Nói tóm lại, sau hơn 25 năm phát triển 
kinh tế theo đường lối đổi mới, Việt Nam đã 
có những chuyển đổi tiến hóa của tư duy mới 
13
Tác động của . . .
về CNH, HĐH khiến cơ cấu kinh tế và cơ 
cấu lao động tuy chuyển dịch chậm nhưng 
đúng hướng, đã thúc đẩy nền kinh tế tăng 
trưởng. Do đó, nếu Việt Nam tạo ra được các 
điều kiện thuận lợi và ứng dụng được các 
biện pháp cần thiết để đẩy nhanh quá trình 
chuyển dịch cơ cấu lao động theo ngành, 
chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế sẽ có đóng 
góp lớn vào tăng trưởng kinh tế thời gian 
tới. Hai lĩnh vực chính sách có thể tác động 
để đẩy nhanh tốc độ chuyển dịch cơ cấu lao 
động là chính sách đào tạo nguồn nhân lực 
và tái cơ cấu ngành kinh tế. Bằng phương 
pháp vector và hệ số co giãn, qua kết quả 
nghiên cứu của các nhà khoa học cũng như 
tính toán của tác giả đã phản ánh phần nào 
thực trạng về mối quan hệ giữa tái cơ cấu 
ngành kinh tế kéo theo sự dịch chuyển của 
cơ cấu lao động, tăng năng lao động để tăng 
trưởng và phát triển kinh tế qua thời gian. 
Song, phương pháp này ít có tính dự báo cho 
tương lai, do vậy cần phải tiếp tục nghiên 
cứu mối quan hệ này theo nhiều cách tiếp 
cận khác.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]. ADB (2012), Key indicators for Asia and the Pacific 2012, www.adb.org/statistics, truy cập ngày 
14/03/2013.
[2]. Tổng cục Thống kê (2013), Chỉ số giá tiêu dùng, chỉ số giá vàng và đô la Mỹ tháng 12 so với cùng 
kỳ năm trước,
[3]. Phạm Ngọc Linh & Nguyễn Thị Kim Dung (2011), Giáo trình Kinh tế phát triển, NXB Đại học 
Kinh tế Quốc dân, Hà Nội.
[4]. Công Văn Dị (2008), “Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 361, 
tr40-45.
[5]. Hồ An Cương (2003), Trung Quốc những chiến lược lớn, NXB Thông Tấn, Hà Nội.
[6]. Nguyễn Tiệp (2007), Giáo trình Nguồn nhân lực, NXB. Lao động – Xã hội, Hà Nội.
[7]. E. Wayne Nafziger (1998), Kinh tế học của các nước đang phát triển, NXB Thống Kê, Hà Nội.
[8]. Dũng Hiếu (2012), Năng suất lao động tại Việt Nam thuộc hàng đáy khu vực, www.vneconomy.vn, 
truy cập ngày 14/03/2013
[9]. Thời báo kinh tế Việt Nam (2013), Kinh tế 2012-2013 Việt nam & thế giới.

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_tai_co_cau_nganh_kinh_te_den_chuyen_dich_co_cau.pdf