Tác động của tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam

Nghiên cứu về tác động của tài chính vi mô (TCVM) đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam sử dụng

phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình hồi quy tuyến tính logarit, ứng dụng phần mềm STATA

12, với dữ liệu chéo được thu thập từ bộ dữ liệu kết quả khảo sát mức sống dân cư 2012 (VHLSS 2012).

Kết quả phân tích hồi quy cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nghèo gồm: Độ tuổi, qui

mô hộ, tỷ lệ phụ thuộc, tổng tài sản, tín dụng vi mô và khu vực. Nghiên cứu cũng cho thấy tác động của

TCVM đến thu nhập của từng nhóm hộ nghèo là khác nhau. Từ kết quả tìm được, tác giả đưa ra những

khuyến nghị chính sách phù hợp để nâng cao hơn nữa hoạt động của TCVM, nhằm giúp hộ nghèo có

điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó cải thiện thu

nhập.

pdf 8 trang kimcuc 4680
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam

Tác động của tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam
TÁC ĐỘNG CỦA TÀI CHÍNH VI MÔ 
ĐẾN THU NHẬP CỦA HỘ NGHÈO Ở VIỆT NAM
Mai Thị Hồng Đào
Trường Đại học Văn Hiến
Daomth@vhu.edu.vn
Ngày nhận bài: 07/7/2016; Ngày duyệt đăng: 30/8/2016
1. Đặt vấn đề
Ở Việt Nam đói nghèo vẫn đang là vấn đề bức 
xúc. Xóa đói giảm nghèo, nâng cao thu nhập của 
người nghèo luôn được Đảng, Nhà nước quan 
tâm và xác định là mục tiêu xuyên suốt trong 
quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước. 
Nghèo đói không chỉ nói đến những người dân 
có mức thu nhập hay tiêu dùng dưới một ngưỡng 
nào đó mà nó còn liên quan đến những cơ chế, 
chính sách, phúc lợi xã hội và các vấn đề khác 
của các tầng lớp người dân. Vì vậy, giải quyết 
tình trạng đói nghèo không những cải thiện điều 
kiện sống cho những người nghèo mà còn góp 
phần tăng trưởng kinh tế, chính trị, xã hội và môi 
trường của quốc gia. 
Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội 
(2013), kết quả điều tra rà soát hộ nghèo, hộ cận 
nghèo năm 2012, tính trên toàn quốc thì tỷ lệ 
hộ nghèo của Việt Nam là 2.149.110 hộ (chiếm 
9,6%) và hộ cận nghèo là 1.469.727 hộ (chiếm 
6,57%). Từ kết quả điều tra cho thấy tỷ lệ hộ 
nghèo và hộ cận nghèo ở Việt Nam còn khá cao. 
Theo Mai Trí (2011), ước tính của một số tổ 
chức quốc tế tại phần lớn các nước đang phát 
triển, khoảng 20 - 25% dân số tiếp cận được các 
tổ chức tài chính chính thức, còn lại khoảng 75% 
dân số không thể tiếp cận được. Các tổ chức 
TCVM đã góp phần cung cấp các dịch vụ tài 
chính cho những đối tượng khách hàng là người 
nghèo hoặc rất nghèo, giúp họ cải thiện thu nhập 
để có cuộc sống tốt đẹp hơn. Xóa đói giảm nghèo, 
hỗ trợ sinh kế cho đối tượng dễ bị tổn thương 
nhằm nâng cao thu nhập, thu hẹp khoảng cách 
giàu nghèo, chính là mục tiêu của TCVM. Chính 
TÓM TẮT 
Nghiên cứu về tác động của tài chính vi mô (TCVM) đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt Nam sử dụng 
phương pháp nghiên cứu định lượng, mô hình hồi quy tuyến tính logarit, ứng dụng phần mềm STATA 
12, với dữ liệu chéo được thu thập từ bộ dữ liệu kết quả khảo sát mức sống dân cư 2012 (VHLSS 2012). 
Kết quả phân tích hồi quy cho thấy các yếu tố ảnh hưởng đến thu nhập của hộ nghèo gồm: Độ tuổi, qui 
mô hộ, tỷ lệ phụ thuộc, tổng tài sản, tín dụng vi mô và khu vực. Nghiên cứu cũng cho thấy tác động của 
TCVM đến thu nhập của từng nhóm hộ nghèo là khác nhau. Từ kết quả tìm được, tác giả đưa ra những 
khuyến nghị chính sách phù hợp để nâng cao hơn nữa hoạt động của TCVM, nhằm giúp hộ nghèo có 
điều kiện tiếp cận nguồn vốn vay để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, qua đó cải thiện thu 
nhập.
Từ khóa: tài chính vi mô, nghèo, Việt Nam.
ABSTRACT
The impact of microfinance on incomes of poor households in Vietnam
The research was about the impact of microfinance on incomes of poor households in Vietnam, us-
ing the quantitative research methods, linear regression model, applyins STATA 12 software, with cross 
- sectionnal Data gathered from the Survey of Living standards in Vietnam 2012 (VHLSS 2012). Re-
sults of regression analysis showed that factors affecting the income of poor households include: age, 
household size, dependency ratio, total asset, microcredit and region. The study also showed that the 
impact of microfinance on incomes of each poor households were different. From the findings, recom-
mendations on policy support are proposed to further enhance the operations of microfinance, to help 
poor households gain access to loans to invest in production and business activities, thereby improve 
earnings.
Keywords: microfinance, poor, Vietnam.
38
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
vì vậy các tổ chức TCVM có vai trò rất lớn trong 
việc xoá đói, giảm nghèo, tạo ra công ăn việc 
làm bền vững giúp nâng cao thu nhập cho những 
người nghèo. Các tổ chức TCVM mang lại cho 
người nghèo nguồn tài chính để giúp họ tự vươn 
lên, tạo nên giá trị gia tăng cho bản thân, gia đình 
và xã hội. 
TCVM có tác động tích cực đến các hộ 
nghèo, tuy nhiên tác động của nó đến thu nhập 
của hộ nghèo ở mức độ nào thì đến nay vẫn còn 
là vấn đề được mọi người quan tâm. Xuất phát 
từ tình hình thực tế trên, vấn đề “Tác động của 
tài chính vi mô đến thu nhập của hộ nghèo ở Việt 
Nam” được chọn để nghiên cứu. Mục tiêu chính 
là nhằm đánh giá những tác động của TCVM 
đến thu nhập của hộ nghèo, qua đó đề xuất và 
khuyến nghị một số giải pháp để phát triển các 
tổ chức TCVM, cải thiện thu nhập của hộ nghèo 
ở Việt Nam. 
2. Cơ sở lý luận
2.1. Các khái niệm
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank, 
2012), người nghèo là người có mức thu nhập 
trung bình thấp hơn 1 USD (qui đổi)/ngày/người 
vào những năm 90 của thế kỷ 20 và hiện giờ là 
thấp hơn 2 USD/ngày/người.
Tổng cục Thống kê (2010) định nghĩa “thu 
nhập của hộ là toàn bộ số tiền và giá trị hiện vật 
quy thành tiền sau khi đã trừ chi phí sản xuất 
mà hộ và các thành viên của hộ nhận được trong 
một thời gian nhất định, thường là 1 năm”. Thu 
nhập của hộ bao gồm: Thu nhập từ tiền công, 
tiền lương, thu nhập từ sản xuất nông, lâm 
nghiệp, thủy sản (sau khi đã trừ chi phí và thuế 
sản xuất); thu nhập từ sản xuất ngành nghề phi 
nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy sản (sau khi đã 
trừ chi phí và thuế sản xuất); thu khác được tính 
vào thu nhập như thu cho, biếu, mừng, lãi tiết 
kiệm Các khoản thu không tính vào thu nhập 
gồm rút tiền tiết kiệm, thu nợ, bán tài sản, vay 
nợ, tạm ứng và các khoản chuyển nhượng vốn 
nhận được do liên doanh, liên kết trong sản xuất 
kinh doanh Trong nghiên cứu này, thu nhập 
của hộ gia đình dựa theo khái niệm thu nhập hộ 
gia đình của Tổng cục Thống kê năm 2010.
Công thức tính TNBQ đầu người theo Tổng 
cục Thống kê Việt Nam: 
Thu nhập bình quân 1 người/1 tháng = Tổng 
thu nhập trong năm của hộ/(Tổng số người trong 
hộ x 12 tháng).
Chỉ tiêu TNBQ 1 người/1 tháng phản ánh mức 
thu nhập và cơ cấu thu nhập của các tầng lớp dân 
cư, để đánh giá mức sống, phân hoá giàu nghèo, 
tính tỷ lệ nghèo, từ đó làm cơ sở cho hoạch định 
chính sách nhằm xoá đói giảm nghèo, nâng cao 
mức sống của người dân.
Bennett và Cuevas (1996), TCVM là việc 
cung cấp một phạm vi rộng các dịch vụ tài chính 
như tiền gửi, tài khoản tiết kiệm, thanh toán, bảo 
hiểm, chuyển tiền đến người nghèo hoặc các hộ 
gia đình có thu nhập thấp, cho những hoạt động 
kinh doanh cá thể hoặc doanh nghiệp rất nhỏ.
2.2. Cơ sở lý luận 
Cơ sở kinh tế học của tài chính vi mô: giá trị 
hoàn trả biên của những khoản vay nhỏ có hình 
dạng đường cong hữu dụng biên. Người nghèo 
có khả năng kinh doanh sinh lợi đạt được lợi 
nhuận trên mỗi đơn vị vốn lớn hơn người khá 
giả và sẵn sàng trả lãi vay cao hơn cho những 
khoản tín dụng từ ngân hàng (Võ Khắc Thường 
và Trần Văn Hoàng, 2013).
Hình 1: Lý thuyết lợi ích của TCVM cho 
sản xuất 
Nguồn: 
Microfinance Industry Report Vietnam (2010)
Nhờ có nguồn TCVM, sản xuất tăng từ Q1 
đến Q2, thặng dư người sản xuất thay đổi từ 
(a+b) sang (b+c+f+g). Nếu a> (c+f+g) thì người 
sản xuất không được lợi và ngược lại. Thặng dư 
người tiêu dùng tăng thêm (a+d+e). Như vậy, tài 
chính vi mô có tác động đến quá trình tạo ra giá 
trị thặng dư nhiều hơn nhờ tăng trưởng sản xuất, 
từ đó gia tăng tích lũy đầu tư và tiêu dùng của 
hộ gia đình.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng giữa người 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
39
cho vay và người đi vay: Thông tin bất cân xứng 
là tình trạng trong một giao dịch một bên có 
thông tin đầy đủ hơn và tốt hơn so với bên còn 
lại. Hai hành vi thường được đề cập đến trong 
hoạt động tài chính là lựa chọn bất lợi (lựa chọn 
ngược) của người cho vay và tâm lý ỷ lại (rủi ro 
đạo đức) của người đi vay do thông tin bất cân 
xứng. Lựa chọn ngược là hậu quả của thông tin 
bất cân xứng trước khi giao dịch xảy ra. Tâm lý 
ỷ lại là hậu quả của thông tin bất cân xứng sau 
khi giao dịch đã xảy ra (Begg và cộng sự, 2007)
Lý thuyết kinh tế phát triển: nguồn vốn cho 
người nghèo rất quan trọng. Thiếu vốn đầu tư 
dẫn đến năng suất thấp, kéo theo thu nhập hộ gia 
đình thấp. Thu nhập thấp dẫn đến tiết kiệm thấp. 
Tiết kiệm thấp lại là nguyên nhân của sự thiếu 
hụt vốn đầu tư, và lại dẫn đến thu nhập thấp, 
đó chính là vòng lẩn quẩn của nghèo (Nguyễn 
Trọng Hoài, 2007).
Lý thuyết sinh kế bền vững: một trong những 
tính năng mạnh mẽ của TCVM là một phương 
tiện giải quyết đói nghèo, nó đặt nguồn lực tài 
chính trực tiếp vào tay của người nghèo, cung 
cấp vốn tài chính cần thiết theo mức cho phép 
để người nghèo sử dụng hiệu quả hơn vốn con 
người và vốn xã hội mà họ đang sở hữu (Lê 
Kiên Cường, 2013).
Hulme và Mosley (1996, trích trong Nich-
ols 2004), đã nghiên cứu ảnh hưởng của TCVM 
đến từng đối tượng hộ nghèo, nghiên cứu được 
thực hiện ở 13 tổ chức TCVM tại 7 quốc gia. 
Bằng chứng cho thấy tác động của một khoản 
vay vào thu nhập của những đối tượng người 
nghèo theo mức độ khác nhau, đối tượng nghèo 
nằm ở “giữa” và “trên” nghèo có nhiều khả năng 
được hưởng lợi nhiều hơn “lõi” nghèo. Khách 
hàng ở “trên” ngưỡng nghèo sẵn sàng chấp nhận 
rủi ro và đầu tư công nghệ để tăng khả năng tạo 
ra thu nhập. Trong khi đó những người ở “lõi” 
của nghèo thường vay để lại trang trải chi phí 
sinh hoạt, có xu hướng đầu tư nhỏ, manh mún, 
hiếm khi đầu tư vào công nghệ mới. Thu nhập từ 
khoản vay của người nghèo (1988 - 1992) tăng 
bình quân trên các nhóm khác nhau, từ 10 - 12% 
ở Indonesia, khoảng 30% ở Bangladesh và Ấn 
Độ đối với những hộ nghèo có tham gia chương 
trình TCVM.
Nichols (2004) đã nghiên cứu về các tác 
động của TCVM đến cuộc sống của người nghèo 
ở nông thôn Trung Quốc. Nghiên cứu này sử dụng 
phương pháp điều tra thực tế tại huyện nghèo, có 
chương trình tín dụng vi mô đã hoạt động trong 7 
năm. Nghiên cứu cho thấy rằng, tham gia chương 
trình có tác động tích cực đến cuộc sống của 
khách hàng vay, đặc biệt về an ninh kinh tế, người 
dân cảm thấy tự tin vào bản thân và nâng cao khả 
năng quản lý tài chính của chính họ. Nghiên cứu 
cho thấy thu nhập của người vay vốn tăng hơn ba 
lần so với những người không vay vốn từ chương 
trình TCVM và những người đi vay là người 
nghèo nhất thì tốc độ tăng của thu nhập nhanh 
hơn những người vay có điều kiện tương đối. 
Nghiên cứu của Nguyễn Trọng Hoài và cộng 
sự (2005) đã thu thập số liệu từ 640 hộ nông dân 
ở Ninh Thuận và 619 hộ nông dân ở Bình Phước 
làm nguồn số liệu chính cho đề tài. Các số liệu 
được phân tích dựa trên mô hình kinh tế lượng, 
với hàm hồi quy Logistic. Biến phụ thuộc là chi 
tiêu bình quân/người, các biến giải thích là: việc 
làm, dân tộc thiểu số, diện tích đất canh tác, được 
vay vốn là những biến số có ý nghĩa thống kê để 
giải thích nguyên nhân ảnh hưởng tới nghèo đói 
của hộ nông dân. Khi các yếu tố khác không thay 
đổi, với xác suất nghèo của một hộ gia đình là 
30% ở Ninh Thuận cho thấy nếu hộ này được vay 
vốn tín dụng chính thức thì xác suất nghèo của hộ 
sẽ giảm xuống 20,7%; ở Bình Phước, cho thấy 
nếu hộ này được vay vốn tín dụng chính thức thì 
xác suất nghèo của hộ sẽ giảm xuống 29% .
Lê Việt Phương (2012) nghiên cứu về tác động 
của TCVM đến khả năng thoát nghèo của hộ gia 
đình nghèo tại huyện Bình Chánh, Thành phố Hồ 
Chí Minh. Tác giả khảo sát 250 mẫu ngẫu nhiên 
đại diện cho những hộ nghèo tham gia TCVM 
trên phạm vi toàn huyện Bình Chánh. Các biến 
trình độ học vấn, có việc làm, số tiền vay vốn, 
tập huấn, tương quan ý nghĩa với biến tình trạnh 
nghèo với mức ý nghĩa 1%, và mục đích sử dụng 
vốn vay với mức ý nghĩa 5%; biến giới tính của 
chủ hộ và quy mô hộ không có ý nghĩa thống kê. 
Kết quả nghiên cứu đã cho thấy 2 nhóm nhân tố 
có tác động tích cực đến khả năng thoát nghèo 
của hộ đó là nhóm nhân tố thuộc bản thân hộ gia 
đình nghèo (trình độ học vấn và số người có việc 
làm trong hộ) và nhóm nhân tố thứ 2, nhóm nhân 
tố TCVM, cũng góp phần không nhỏ cho việc 
40
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
thoát nghèo của hộ (tổng số tiền vay, số lần tham 
gia tập huấn từ chương trình TCVM, mục đích 
sử dụng vốn của hộ). 
3. Phương pháp, mô hình và kết quả 
nghiên cứu
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích thống 
kê, thu thập số liệu từ các báo cáo để phân tích 
tổng quan tình hình hoạt động của các tổ chức 
TCVM, xử lý số liệu từ bộ dữ liệu Kết quả khảo 
sát mức sống dân cư 2012 của Tổng cục Thống 
kê Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu trong đề tài này là 
những hộ nghèo, được xếp theo diện hộ nghèo 
của địa phương. Tổng số hộ điều tra năm 2012 
của cả nước là 9.399 hộ (theo mẫu khảo sát thu 
nhập và chi tiêu), có 4.231 hộ được điều tra lặp 
lại năm 2010 (bao gồm hộ nghèo và hộ không 
nghèo), trong số này có 515 hộ nghèo (có vay và 
không vay). Từ 515 hộ nghèo này, tác giả lọc ra 
được 234 hộ nghèo có vay vốn (và 281 hộ không 
có vay ở năm 2010).
Nghiên cứu này ứng dụng phần mềm STATA 
12 (Statistics and data), là một trong những phần 
mềm phân tích số liệu phổ biến hiện nay. Tác 
giả sử dụng phương pháp phân tích định lượng 
để đánh giá tác động của TCVM đến thu nhập 
của hộ nghèo. Đề tài sử dụng mô hình hồi quy 
tuyến tính logarit, uớc lượng mô hình hồi quy 
bằng phương pháp bình phương tối thiểu thông 
thường (OLS). Theo Gujarati (1993), phương 
pháp bình phương tối thiểu thông thường có một 
số tính chất thống kê hấp dẫn làm cho nó trở 
thành phương pháp phân tích hồi quy mạnh nhất 
và phổ biến nhất. 
3.1. Mô hình nghiên cứu
Ký hiệu Tên biến Tác giả nêu 
cơ sở chọn biến
Kỳ vọng 
dấu
Y: Biến phụ thuộc: Thu nhập bình quân. Đvt: Nghìn đồng/người/tháng
X1: tuoi Biến thể hiện độ tuổi của chủ hộ Lê Việt Phương (2012) +
X2: gioi_tinh Biến giới tính của chủ hộ (Nam = 1, 
nữ = 0)
Lê Việt Phương (2012) +
X3: tdhv Biến thể hiện trình độ học vấn của 
chủ hộ
Lê Việt Phương (2012) +
X4: qui_mo_ho Biến qui mô hộ gia đình Nguyễn Trọng Hoài và 
cộng sự (2005)
-
X5: ty_le_phu_thuoc Biến tỷ lệ phụ thuộc Nguyễn Trọng Hoài 
(2005)
-
X6: tong_tai_san Biến tổng tài sản của hộ Nguyễn Trọng Hoài và 
cộng sự (2005)
+
X7: td_ngheo Biến tín dụng nghèo, thể hiện số tiền 
vay của hộ nghèo
Hulme và Mosley 
(1996) và Shame (2004) 
+
X8: td_ngheo_tb Biến tín dụng nghèo trung bình, thể 
hiện số tiền vay của hộ nghèo trung 
bình
+
X9: noi_vay Biến thể hiện nơi vay vốn của hộ 
(Bán chính thức = 1, chính thức = 0)
Shame (2004) +
X10: khu_vuc Biến thể hiện nơi sinh sống của hộ 
(Thành thị = 1, nông thôn = 0)
Nguyễn Trọng Hoài 
(2005)
+
Bảng 1: Tóm tắt các biến trong mô hình nghiên cứu
Hình 2: Sơ đồ lọc dữ liệu hộ nghèo có vay vốn tín dụng năm 2010
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
41
Trong đó: thu nhập bình quân của hộ nghèo 
là biến phụ thuộc và là biến định lượng. Biến 
này được đo lường bằng cách lấy tổng thu nhập 
của hộ trong năm/(số người trong hộ x 12 tháng). 
Đvt: nghìn đồng/người/tháng. 
Nhìn vào kết quả hồi quy, ta thấy: Có tám 
biến có tác động cùng chiều với thu nhập bình 
quân (TNBQ) và hai biến có tác động trái chiều 
với TNBQ, cả mười biến này đều có dấu đúng 
với kỳ vọng dấu ban đầu. Có bảy biến có ý nghĩa 
thống kê ở mức 1%, 5%, 10% và ba biến không 
có ý nghĩa thống kê.
Biến tuổi của chủ hộ: kết quả hồi quy cho 
thấy, tuổi có ảnh hưởng đến TNBQ của hộ gia 
đình với mức ý nghĩa 5%. Tuổi có mối quan hệ 
cùng chiều với TNBQ, đúng với kỳ vọng dấu ban 
đầu (+). Thông thường, những người lớn tuổi sẽ 
có nhiều kinh nghiệm, chín chắn và thận trọng 
trong sản xuất kinh doanh hơn những người có 
tuổi đời trẻ hơn hay thích mạo hiểm nhưng ít 
kinh nghiệm. Hệ số hồi quy của biến tuổi có giá 
trị là 0,0041. Có thể giải thích rằng, trong điều 
kiện các yếu tố khác không đổi, khi tăng thêm 
một tuổi thì TNBQ của hộ sẽ tăng thêm 0,41%. 
Ở Việt Nam nói chung và khu vực nông thôn nói 
riêng, chủ hộ đóng vai trò quan trọng, thường là 
người tạo thu nhập chính cho hộ gia đình. Đa số 
người nghèo đều tập trung ở nông thôn nên việc 
làm chủ yếu là nông nghiệp, điều đó cho thấy chủ 
hộ càng lớn tuổi thì càng có nhiều kinh nghiệm, 
càng có nhiều lợi thế hơn so với người trẻ tuổi 
hơn, năng suất lao động cao hơn, thu nhập tạo ra 
cũng nhiều hơn. Dữ liệu cho thấy, 130 chủ hộ từ 
41 tuổi trở hầu hết đều có việc làm, tổng tài sản 
từ 105 triệu đồng đến cao nhất là 2,4 tỷ. Điều này 
cũng cho thấy, thông thường tuổi càng cao thì 
khả năng tích luỹ của cải càng nhiều, có nhiều cơ 
hội đầu tư, đổi mới phương cách sản xuất, kinh 
doanh để gia tăng thu nhập.
Qui mô hộ có ảnh hưởng nhiều đến TNBQ 
của hộ gia đình với mức ý nghĩa 1%. Qui mô 
hộ có mối quan hệ trái chiều với TNBQ, kết quả 
dấu đúng với kỳ vọng dấu ban đầu (-). Hệ số hồi 
quy của biến qui mô hộ có giá trị là - 0,0724. Có 
thể hiểu rằng, trong điều kiện các yếu tố khác 
không đổi, khi qui mô hộ tăng thêm một người 
thì TNBQ của hộ sẽ giảm đi 7,24%. Lý thuyết về 
kinh tế phát triển và nghiên cứu này cho kết quả 
giống nhau, qui mô hộ càng tăng thì TNBQ của 
hộ càng giảm. Hộ có qui mô từ 3 đến 4 người 
chiếm tỷ lệ cao nhất 45,7%, hộ có qui mô hộ trên 
5 người chiếm tỷ lệ 44%, còn lại là hộ có qui mô 
từ 1 đến 2 người chiếm tỷ lệ thấp nhất 10,3%. 
Những người nghèo thường có qui mô hộ lớn 
hơn so với người khá giả, dẫn đến nghèo càng 
Biến Hệ số hồi quy 
(B)
Sai số
chuẩn
Thống 
kê t
Giá trị P
(P value)
VIF
X1: tuổi 0,0041** 0,0020 1,99 0,048 1,22
X2: gioi_tinh 0,1098 0,0808 1,36 0,176 1,35
X3: tdhv 0,0075 0,0083 0,90 0,368 1,23
X4: qui_mo_ho - 0,0724*** 0,0185 -3,91 0,000 1,25
X5: ty_le_phu_thuoc - 0,2351* 0,1202 -1,95 0,052 1,12
X6: ln_tong_tai_san 0,1421*** 0,0380 3,74 0,000 1,45
X7: td_ngheo 0,0000391*** 5,42e-06 7,20 0,000 1,60
X8: td_ngheo_tb 9,21e-06** 3,72e-06 2,48 0,014 1,27
X9: noi_vay 0,1568 0,1042 1,50 0,134 1,14
X10: khu_vuc 0,2254* 0,1363 1,65 0,100 1,25
Hằng số 4,9427 0,4357 11,34 0,000
X1: tuổi 0,0041** Trị số Prob>F = 0,000
Bảng 2: Kết quả hồi quy mô hình nghiên cứu
42
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
thêm nghèo do gánh nặng về chi phí trang trải 
cho cuộc sống. 
Tỷ lệ phụ thuộc có ảnh hưởng lớn đến TNBQ 
của hộ gia đình với mức ý nghĩa 10%. Tỷ lệ phụ 
thuộc có mối quan hệ ngược chiều với TNBQ, 
kết quả dấu đúng với kỳ vọng dấu ban đầu 
(-). Những hộ có tỷ lệ phụ thuộc cao trên 50% 
(chiếm tỷ lệ 28,8%), đây là những hộ có ít người 
tham gia vào hoạt động tạo ra thu nhập, tất nhiên 
TNBQ của hộ này sẽ bị giảm vì thu nhập tăng ít 
hơn so với sự gia tăng của chi phí trong hộ. Hộ 
có tỷ lệ phụ thuộc thấp nhất (từ 0% đến 25%) 
chiếm tỷ lệ 30,8% là những hộ có TNBQ cao 
nhất. Hệ số hồi quy của biến tỷ lệ phụ thuộc có 
giá trị là - 0,2351. Có hàm ý, trong điều kiện các 
yếu tố khác không đổi, khi tỷ lệ phụ thuộc tăng 
thêm một đơn vị thì sẽ làm cho TNBQ của hộ 
giảm đi 23,51%. Theo lý thuyết về kinh tế phát 
triển, việc làm là nền tảng căn bản của phát triển, 
việc làm có vai trò quan trọng trong việc giảm 
nghèo, gia tăng thu nhập. 
Tổng tài sản có tác động mạnh nhất đến 
TNBQ của hộ gia đình với mức ý nghĩa 1%. 
Biến tổng tài sản có mối quan hệ cùng chiều với 
TNBQ, đúng với kỳ vọng dấu ban đầu (+). Đối 
với mỗi cá nhân, mỗi hộ gia đình, dù giàu hay 
nghèo thì yếu tố tổng tài sản đều rất quan trọng. 
Hệ số hồi quy của biến tổng tài sản có giá trị là 
0,1421. Có ý nghĩa, trong điều kiện các yếu tố 
khác không đổi, khi tổng tài sản tăng thêm 1% 
thì TNBQ của hộ sẽ tăng thêm 0,1421%. Kết quả 
nghiên cứu này hoàn toàn đúng với lý thuyết Thị 
trường vốn không hoàn hảo, khi người đi vay có 
tài sản càng lớn thì cơ hội tiếp cận nguồn vốn 
chính thức càng tăng, khi vay được vốn, họ có cơ 
hội đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh để 
gia tăng thu nhập. Trong cuộc sống, yếu tố tài sản 
gần như là điều kiện tiên quyết, là yếu tố quan 
trọng để cá nhân hay hộ gia đình có thể tham gia 
vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Nếu người đi 
vay có tài sản (tuy không nhiều) sẽ có cơ hội tiếp 
cận với nguồn vốn tín dụng chính thức dễ dàng 
hơn so với người không có bất kỳ tài sản nào, bởi 
bất kỳ tổ chức cho vay nào cũng muốn thu hồi lại 
số tiền đã cho vay, cả gốc lẫn lãi. 
Nghiên cứu này cho kết quả tương đồng với 
kết luận của Hulme và Mosley (1996, trích trong 
Shane 2004). Tác động của các khoản vay lên 
thu nhập của người nghèo theo mức độ khác 
nhau. Đối tượng nằm ở “giữa” và “trên” nghèo 
có khả năng hưởng lợi nhiều hơn so với “lõi” 
nghèo. Đồng thời nghiên cứu của Nguyễn Kim 
Anh và cộng sự (2011) cũng cho kết quả tương 
tự; khi vay tại các tổ chức TCVM, không phải hộ 
nghèo nào cũng có khả năng gia tăng thu nhập. 
Có hộ tăng lên nhiều, có hộ tăng ít, có hộ không 
tăng và thậm chí có hộ thu nhập còn bị giảm đi. 
Biến tín dụng hộ nghèo có tác động đến 
TNBQ của hộ nghèo với mức ý nghĩa 1%. Biến 
này có kết quả đúng với kỳ vọng dấu ban đầu 
(+). Điều này cho thấy tín dụng hộ nghèo tạo ra 
TNBQ cao hơn so với tín dụng hộ nghèo nhất. 
Hệ số hồi quy của biến tín dụng hộ nghèo có 
giá trị là 0,000039; có hàm ý, trong điều kiện 
các yếu tố khác không đổi, tín dụng hộ nghèo 
có TNBQ cao hơn so với tín dụng hộ nghèo 
nhất là 0,0039%. TCVM hướng đến khách hàng 
là những người nghèo, rất nghèo, cho vay chủ 
yếu qua tín chấp. Tiền vay có tác động tích cực 
trong việc cải thiện thu nhập của hộ nghèo, khi 
có vốn hộ nghèo có thể nắm bắt cơ hội sản xuất 
kinh doanh, đầu tư, cải tiến máy móc thiết bị để 
gia tăng lợi nhuận. Dựa vào lý thuyết về Sinh kế 
bền vững và thực tế có thể kết luận, người nghèo 
khi tiếp cận với nguồn vốn cần thiết để vận hành 
hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ có cơ hội cải 
thiện thu nhập và phá vỡ vòng lẩn quẩn nghèo. 
Tổng số tiền vay càng lớn thì cơ hội đầu tư sản 
xuất kinh doanh càng cao từ đó nguồn TNBQ 
mang lại cũng sẽ nhiều hơn. 
Biến tín dụng hộ nghèo trung bình có tác động 
đến TNBQ của hộ gia đình với mức ý nghĩa 5%. 
Biến này có kết quả đúng với kỳ vọng dấu ban 
đầu (+). Có thể kết luận, tín dụng hộ nghèo trung 
bình tạo ra TNBQ cao hơn so với tín dụng hộ 
nghèo nhất. Hệ số hồi quy của biến tín dụng hộ 
nghèo trung bình có giá trị là 9,21e-06; có hàm 
ý, trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, tín 
dụng hộ nghèo trung bình có TNBQ cao hơn tín 
dụng hộ nghèo nhất là 9,21e-04%. 
Như vậy, tín dụng vi mô có tác động tích cực 
đến thu nhập của hộ nghèo và hộ nghèo trung 
bình, vốn vay giúp họ cải thiện cuộc sống và gia 
tăng thu nhập. Riêng đối với hộ nghèo nhất chưa 
thấy được hiệu quả do tín dụng vi mô mang lại, 
vay vốn không làm thu nhập họ tăng lên mà thậm 
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
43
chí còn bị giảm sút, có thể lý giải do bằng cấp quá 
thấp nên khả năng sản xuất, kinh doanh của họ 
thường yếu, thiếu nhạy bén, không theo kịp tốc 
độ phát triển của thị trường, bên cạnh đó những 
đối tượng này thường thiếu năng lực quản lý. 
Biến khu vực có ảnh hưởng đến TNBQ của hộ 
gia đình với mức ý nghĩa 10%. Biến khu vực có 
mối quan hệ cùng chiều với TNBQ, đúng với kỳ 
vọng dấu ban đầu (+). Hệ số hồi quy của biến khu 
vực có giá trị là 0,2254. Trong điều kiện các yếu 
tố khác không đổi, hộ ở thành thị sẽ có TNBQ cao 
hơn hộ ở nông thôn 22,54%. Kết quả này cũng 
đúng với lý thuyết về Bất bình đẳng trong xã hội, 
hộ ở khu vực thành thị (chiếm tỷ lệ 8%) có TNBQ 
cao hơn so với hộ ở vùng nông thôn (chiếm tỷ lệ 
92%). Thông thường những hộ ở nông thôn chủ 
yếu tập trung vào ngành nông nghiệp, không đòi 
hỏi kỹ năng và trình độ cao do vậy TNBQ của 
hộ thường thấp hơn so với những hộ ở khu vực 
thành thị do hoạt động trong ngành công nghiệp 
và dịch vụ. 
4. Đề xuất
Những yếu tố bên trong có tác động lớn đến 
thu nhập của hộ nghèo là qui mô hộ, tỷ lệ phụ 
thuộc, đây là những yếu tố có tác động trái chiều 
với TNBQ của hộ nghèo, làm cho họ dễ rơi vào 
vòng lẩn quẩn của nghèo. Các tổ chức TCVM cần 
có chính sách riêng, quan tâm, hỗ trợ và hướng 
dẫn hộ nghèo nhất trong việc lập kế hoạch sản 
xuất, kinh doanh. Thường xuyên mở các lớp tập 
huấn, đào tạo nghề miễn phí, hội thảo trao đổi kinh 
nghiệm nhằm giúp họ tháo gỡ khó khăn, có thêm 
kinh nghiệm để tăng hiệu quả trong việc sử dụng 
vốn vay. Nhà nước và chính quyền địa phương 
cần hỗ trợ cho người dân ở khu vực nông thôn 
có thể tiếp cận với nguồn vốn tín dụng (TCVM) 
nhằm gia tăng thu nhập, xoá dần khoảng cách 
giàu nghèo ở khu vực thành thị và nông thôn, từ 
đó góp phần ổn định xã hội.
Kết quả nghiên cứu cho thấy hộ có tỷ lệ phụ 
thuộc cao thì TNBQ thấp. Giảm tỷ lệ phụ thuộc 
bằng cách tạo ra việc làm phù hợp cho những 
người có khả năng lao động trong gia đình để tạo 
thêm thu nhập, nhằm giảm bớt gánh nặng trong 
việc chi tiêu cho trẻ em và người lớn tuổi (hoặc 
người tàn tật) trong gia đình. Chính quyền địa 
phương cần có sự quan tâm thiết thực và đúng đối 
tượng. Thông qua hội đoàn thể tuyên truyền, vận 
động hộ nghèo, giúp họ có nhận thức đúng đắn về 
kế hoạch hoá gia đình, hạn chế sinh con thứ 3 trở 
lên nhằm giảm quy mô hộ gia đình và giảm tỷ lệ 
người phụ thuộc trong hộ.
Những yếu tố bên ngoài có tác động lớn đến 
thu nhập của hộ nghèo là tín dụng vi mô và khu 
vực, đây là nhóm yếu tố có tác động cùng chiều 
với TNBQ của hộ nghèo. Có thể nói nhóm yếu 
tố bên ngoài góp phần lớn trong việc tác động 
đến thu nhập của hộ nghèo, bên cạnh đó nhóm 
yếu tố bên ngoài còn có tác động cộng hưởng 
đối với nhóm yếu tố bên trong của hộ nghèo, dần 
dần giúp cho hộ nghèo nâng cao về trình độ nhận 
thức, góp phần gia tăng thu nhập. Theo lý thuyết 
về kinh tế vĩ mô, khi đời sống hộ nghèo được 
nâng cao, khả năng tiết kiệm để đầu tư cũng tăng 
theo, từ đó hộ nghèo có thể gia tăng năng suất, 
góp phần phát triển kinh tế quốc gia.
Vai trò của Nhà nước là rất quan trọng, nhất 
là ở việc xây dựng hệ thống pháp lý, các thể chế 
tài chính, nhằm tạo ra khuôn khổ pháp lý đồng 
bộ để các tổ chức TCVM hoạt động hiệu quả. 
Ngân hàng Nhà nước cần có chính sách để hỗ trợ 
các tổ chức TCVM về nguồn vốn để cho vay, vì 
hiện nay đầu ra thì có (cho vay) nhưng đầu vào 
(huy động vốn) thì vẫn còn hạn chế. Bên cạnh 
đó, chính quyền địa phương cần đẩy mạnh công 
tác tuyên truyền đến đông đảo người dân biết 
và sử dụng dịch vụ TCVM. Thành lập các đoàn 
hội, nhóm trợ giúp để cùng hỗ trợ, học hỏi, trao 
đổi kinh nghiệm trong sản xuất, kinh doanh. Bên 
cạnh đó cần thường xuyên kiểm tra tình hình sử 
dụng vốn, đảm bảo nguồn vốn vay phải sử dụng 
đúng với mục đích sản xuất, kinh doanh. 
5. Kết luận
Thu nhập luôn là vấn đề quan tâm của mỗi hộ 
gia đình, nhất là với những hộ nghèo vấn đề này 
càng trở nên bức bách và nan giải. Kết quả nghiên 
cứu cho thấy TNBQ của hộ nghèo bị ảnh hưởng 
bởi nhiều yếu tố, trong đó tín dụng vi mô có vai 
trò quan trọng. TCVM chưa phải là phương án tối 
ưu nhất giúp toàn bộ hộ nghèo có thể thoát nghèo 
bền vững, nhưng thực tế cho thấy chương trình 
TCVM mang đến cơ hội cho hộ nghèo có thể vay 
vốn để đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh, 
tạo ra thu nhập giúp họ có điều kiện vươn lên, 
nâng cao chất lượng cuộc sống, giảm bớt gánh 
nặng cho xã hội.
44
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Begg D., Stanley F. and Rudiger D., 2007. Economics, McGraw Hill 7th edition.
[2] Bennett L. and Cuevas C., 1996. Sustainable banking with the Poor, Journal of International 
Development 8, pp.145-152.
[3] Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, 2013. Kết quả điều tra rà soát hộ nghèo, hộ cận nghèo 
năm 2012, số 749/QĐ-LĐTBXH, 
BXH-nam-2013-phe-duyet-ket-qua-dieu-tra-ra-soat-ho-ngheo-vb186936.aspx>, ngày truy cập 
 26/6/2014.
[4] Lê Kiên Cường, 2013. Tài chính vi mô hỗ trợ xóa đói giảm nghèo tại tỉnh Đồng Nai đến năm 
2020, Luận án Tiến sĩ, Viện nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương.
[5] Lê Việt Phương, 2012. Tác động của tài chính vi mô đến khả năng thoát nghèo của hộ gia đình 
nghèo tại huyện Bình Chánh, Luận văn Thạc sĩ, Trường Đại học Mở TP.HCM.
[6] Mai Trí, 2011. Tài chính vi mô - Thực trạng, cơ hội và thách thức, Tạp chí Ngân hàng số 13, 
tr.49-52.
[7] Nguyễn Kim Anh và cộng tác viên, 2011. Tài chính vi mô với giảm nghèo tại Việt Nam - Kiểm 
định và so sánh, NXB Thống kê, Hà Nội.
[8] Nguyễn Trọng Hoài, 2010. Kinh tế phát triển, NXB Thống kê, Hà Nội. 
[9] Nguyễn Trọng Hoài và cộng tác viên, 2005. Nghiên cứu ứng dụng các mô hình kinh tế lượng 
phân tích các nhân tố tác động đến nghèo đói và đề xuất xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh Đông 
Nam bộ, đề tài cấp Bộ, Trường Đại học Kinh tế TP.HCM, mã số B2004-22-60TĐ.
[10] Nichols S., 2004. A Case Study Analysis of the Impacts of Microfinance upon the Lives of the 
Poor in Rural China, School of Social Science and Planning RMT University.
[11] Tổng cục Thống kê, 2010. Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2010.
[12] Tổng cục Thống kê, 2012. Kết quả khảo sát mức sống dân cư năm 2012.
[13] World Bank, 2012. Báo cáo đánh giá nghèo Việt Nam 2012, Ngân hàng Thế giới tại Việt Nam, 
Hà Nội.
VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 4 NUMBER 3
45

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_tai_chinh_vi_mo_den_thu_nhap_cua_ho_ngheo_o_vie.pdf