Tác động của hỗ trợ tư liệu sản xuất và thu nhập đến phúc lợi hộ gia đình Việt Nam

Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các nhân tố quyết định tiếp cận hỗ trợ tư liệu sản

xuất và thu nhập và tác động của chúng đến phúc lợi hộ gia đình. Nghiên cứu cho thấy độ tuổi chủ hộ

và tỷ lệ người già có tác động đến khả năng hỗ trợ tư liệu sản xuất và trình độ giáo dục, tỷ lệ người già,

diện tích đất lại quyết định việc nhận hỗ trợ về thu nhập. Nhóm nhận hỗ trợ thu nhập có mức tăng về

thu nhập/chi tiêu cao hơn trong khi nhóm hỗ trợ tư liệu sản xuất lại không cho thấy sự thay đổi trong

thu nhập. Đặc biệt các hộ nhận càng nhiều hỗ trợ thu nhập chi cho đầu tư hoạt động sản xuất kinh

doanh cao hơn, ngược lại, điều này không đúng với nhóm nhận hỗ trợ tư liệu sản xuất. Những phát

hiện từ nghiên cứu này đặt ra câu hỏi đối với tác động dài hạn của các chương trình hỗ trợ.

pdf 9 trang kimcuc 18420
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của hỗ trợ tư liệu sản xuất và thu nhập đến phúc lợi hộ gia đình Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của hỗ trợ tư liệu sản xuất và thu nhập đến phúc lợi hộ gia đình Việt Nam

Tác động của hỗ trợ tư liệu sản xuất và thu nhập đến phúc lợi hộ gia đình Việt Nam
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
11Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
1. Giới thiệu
Thực hiện xóa đói giảm nghèo và bảo đảm 
bền vững là một chủ trương lớn của Đảng, Nhà 
nước nhằm cải thiện đời sống người nghèo nói 
riêng và nâng cao chất lượng mức sống dân cư 
nói chung. Việt Nam đã đạt được những kết quả 
ấn tượng về giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm 
mạnh từ 37,1% năm 1998 xuống 7,2% trong 
năm 2015. Nhìn chung, các chương trình hỗ 
trợ cho các hộ nghèo đã được thực hiện có hiệu 
quả, đời sống của nhóm người nghèo trong xã 
hội được quan tâm và cải thiện đáng kể.
Bên cạnh những thành tựu đó, thực tiễn cho 
thấy tỷ lệ các hộ thoát nghèo bền vững chưa 
TÁC ĐỘNG CỦA HỖ TRỢ TƯ LIỆU SẢN XUẤT VÀ THU NHẬP 
ĐẾN PHÚC LỢI HỘ GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Hồ Đình Bảo*
* TS, Đại học Kinh tế Quốc dân, email: hodinhbao@yahoo.com 
Tóm tắt
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm xác định các nhân tố quyết định tiếp cận hỗ trợ tư liệu sản 
xuất và thu nhập và tác động của chúng đến phúc lợi hộ gia đình. Nghiên cứu cho thấy độ tuổi chủ hộ 
và tỷ lệ người già có tác động đến khả năng hỗ trợ tư liệu sản xuất và trình độ giáo dục, tỷ lệ người già, 
diện tích đất lại quyết định việc nhận hỗ trợ về thu nhập. Nhóm nhận hỗ trợ thu nhập có mức tăng về 
thu nhập/chi tiêu cao hơn trong khi nhóm hỗ trợ tư liệu sản xuất lại không cho thấy sự thay đổi trong 
thu nhập. Đặc biệt các hộ nhận càng nhiều hỗ trợ thu nhập chi cho đầu tư hoạt động sản xuất kinh 
doanh cao hơn, ngược lại, điều này không đúng với nhóm nhận hỗ trợ tư liệu sản xuất. Những phát 
hiện từ nghiên cứu này đặt ra câu hỏi đối với tác động dài hạn của các chương trình hỗ trợ.
Từ khóa: hỗ trợ tư liệu sản xuất, hỗ trợ thu nhập, khác biệt kép (DID), phương pháp kết nối 
điểm xu hướng (PSM)..
Mã số: 246. Ngày nhận bài: 30/012016. Ngày hoàn thành biên tập: 06/04/2016. Ngày duyệt đăng: 06/04/2016.
Abstract
The study was targeted at identifying the determinants affecting subsidy access including 
production means and income, as well as evaluating their impact on households’ benefits in 
Vietnam. The study figures out that household heads’ age and elder dependence positively affect 
the access of production means subsidy. While education, elder dependence and households’ land 
area are determinants of the income subsidy access. Households with income subsidy achieved 
income/expenditure improvements, while those with subsidy of production means have no benefits. 
Especially, those with income subsidy invested more in production activities, while this is not 
significant for those with subsidy of production means. These findings questions the long-run 
impacts of the subsidy programs.
Key words: Subsidy of Production Means, Income Subsidy, Difference–in–Difference (DID), 
Propensity Score Matching (PSM).
Paper No. 246. Date of receipt: 30/012016. Date of revision: 06/04/2016. Date of approval: 06/04/2016.
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
12 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
cao. Số hộ có thu nhập sát chuẩn nghèo rất 
lớn, tỷ lệ hộ tái nghèo cao và chênh lệch giàu 
- nghèo giữa các vùng, nhóm dân cư không 
được cải thiện. Điều này đặt ra vấn đề nên hỗ 
trợ người nghèo như thế nào - hỗ trợ thu nhập 
hay tư liệu, phương tiện sản xuất. Câu trả lời 
hiện dễ nhận được sự đồng thuận nhất là hỗ 
trợ người nghèo, người có thu nhập thấp về tư 
liệu, phương tiên sản xuất sẽ giúp người nghèo 
cải thiện cuộc sống và thoát nghèo bền vững 
hơn so với việc chỉ hỗ trợ thu nhập. Khi tiếp 
cận và làm chủ được tư liệu sản xuất, người 
nghèo sẽ chủ động tìm ra cách thức vươn lên 
thoát nghèo (Chow, 2006; Mendola, 2006; Oi 
và Haas, 2008). Tuy nhiên, cũng có rất nhiều 
nghiên cứu chỉ ra rằng hiệu quả trên thực tế 
của các cách thức hỗ trợ này không phải lúc 
nào cũng rõ ràng (Phan Thị Nữ, 2010; Kumari, 
2013; Trần Thị Thanh Tú và cộng sự, 2015).
Nghiên cứu này được thực hiện nhằm đánh 
giá hiệu quả giảm nghèo của 2 chính sách hỗ 
trợ này trên cơ sở bộ điều tra mức sống dân cư 
trong các năm 2012 và 2014. Bảy chính sách 
được lựa chọn để đánh giá bao gồm: dạy nghề 
cho người thu nhập thấp; cấp đất sản xuất cho hộ 
nghèo dân tộc thiểu số; tín dụng ưu đãi đối với 
người nghèo; hỗ trợ máy móc, vật tư sản xuất; 
hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở; trợ cấp lương thực; 
trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo. Các chính 
sách này được phân thành hai nhóm là hỗ trợ 
tư liệu sản xuất và hỗ trợ thu nhập. Kết quả của 
việc nhận hỗ trợ từ các chính sách được đánh 
giá thông qua việc so sánh sự thay đổi trong các 
chỉ tiêu phúc lợi (thu nhập/chi tiêu) của các hộ 
gia đình giữa nhóm tham gia và nhóm không 
tham gia các chính sách này. Nghiên cứu này 
ngoài phần giới thiệu, được kết cấu thành 4 nội 
dung chính: (i) Tổng kết các nghiên cứu có liên 
quan (ii) Mô hình lý thuyết; (iii) Kết quả thực 
nghiệm; và (iv) Kết luận.
2. Tổng quan về các nghiên cứu liên quan
Đánh giá chung về hiệu quả của hệ thống 
các chính sách giảm nghèo của Chính phủ, 
Elkins, Feeny và Prentice (2015) đặt ra câu hỏi 
liệu các quốc gia xây dựng hệ thống chính sách 
giảm nghèo và hướng tới các mục tiêu Thiên 
niên kỷ của Liên hợp quốc đề ra với các quốc 
gia không cam kết thực hiện mục tiêu này thì sẽ 
cải thiện tình trạng nghèo đói như thế nào. Với 
mẫu so sánh bao gồm 52 quốc gia thực hiện các 
chiến lược giảm nghèo cho thấy việc xây dựng 
một hệ thống chính sách giảm nghèo phù hợp là 
vô cùng quan trọng và có ảnh hưởng quyết định 
đến các kết quả giảm nghèo. 
Trong hệ thống các chính sách giảm nghèo, 
đã có rất nhiều nghiên cứu cho thấy vai trò của 
từng chính sách trong bối cảnh cụ thể. Chow 
(2006) cho rằng giải pháp hiệu quả nhất cho 
tình trạng nghèo đói ở Trung Quốc là việc hỗ 
trợ đất sản xuất nông nghiệp cho lao động nông 
thôn. Oi và Haas (2008) trong một nghiên cứu 
khác cũng về Trung Quốc đưa ra một trong 
những giải pháp cho giảm nghèo là các chính 
sách hỗ trợ giáo dục như miễn giảm học phí. 
Mendola (2006) cho rằng có mối quan hệ 
cùng chiều giữa giảm nghèo ở khu vực nông 
thôn Bangladesh với việc ứng dụng công nghệ 
cho khu vực Nông nghiệp. Tuy nhiên với 
những hộ nông thôn không có đất canh tác thì 
việc ứng dụng và phát triển công nghệ trong 
nông nghiệp chỉ có tác động giúp họ giảm 
nghèo chứ khó thoát nghèo. 
Kumari (2013) cho rằng tính chất của nhóm 
người nghèo rất phức tạp và không chỉ đơn 
thuần được xem xét trên khía cạnh kinh tế. 
Giảm nghèo sẽ hiệu quả nếu Chính phủ nhìn 
từ góc độ vĩ mô và tập trung hướng tới hỗ trợ y 
tế, các điều kiện sinh hoạt hàng ngày như chỗ 
ở, nước sạch, trong đó hỗ trợ giáo dục có tác 
động mạnh. 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
13Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
Nói chung, các nghiên cứu về chính sách 
giảm nghèo đều đưa ra những minh chứng tích 
cực cho mục tiêu giảm nghèo, nhưng việc lựa 
chọn và ưu tiên cho các nhóm giải pháp chính 
sách hỗ trợ nào thì các nghiên cứu thực tiễn 
ở Việt Nam cũng đưa ra nhiều kết luận khác 
nhau. Nguyễn Ngọc Sơn (2012) đã đưa ra 3 
chính sách hiệu quả nhất để giảm nghèo và 
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người thu 
nhập thấp ở Việt Nam là miễn giảm chi phí 
khám chữa bệnh, miễn giảm học phí và tín 
dụng ưu đãi cho người nghèo. Ba chính sách 
kể trên được đánh giá là có tác động trực tiếp 
đến người nghèo, nâng cao phúc lợi xã hội 
cũng như khả năng tiếp cận đến các chương 
trình hỗ trợ là cao nhất. Vương Quốc Duy 
(2012) cho rằng tiếp nhận hỗ trợ tín dụng cải 
thiện đời sống của trẻ em vì chính sách này 
đem lại khả năng chi tiêu cho y tế và giáo dục 
cao hơn cho các hộ gia đình thu nhập thấp. 
Điều này sẽ đem lại lợi ích trong dài hạn.
Ngược lại, Phan Thị Nữ (2010) khi đánh giá 
chính sách hỗ trợ tín dụng cho người nghèo ở 
khu vực nông thôn Việt Nam đã nhận định tín 
dụng làm tăng chi tiêu cho hộ nghèo nhưng 
không có tác động làm gia tăng thu nhập. Cách 
tốt nhất để thoát nghèo bền vững là đầu tư cho 
các hoạt động giáo dục. Trần Thị Thanh Tú, 
Nguyễn Quốc Việt, và Hoàng Hữu Lợi (2015) 
cho rằng trong ngắn hạn, tiếp cận tín dụng 
chính thức không có tác động cải thiện mức 
sống ngoại trừ chi cho giáo dục. Các khoản 
cho vay ưu đãi là không đủ để xoá đói giảm 
nghèo và hỗ trợ cho vay ưu đãi chỉ hiệu quả 
khi các hộ gia đình nghèo được tư vấn tốt hơn 
và hỗ trợ tốt trong việc sử dụng vốn. 
Như vậy tác động của từng loại chính sách 
hỗ trợ người nghèo được đánh giá rất khác 
nhau. Điều đó đòi hỏi phải có những nghiên 
cứu với số liệu cập nhật hơn, phương pháp tốt 
hơn để có thể đánh giá một cách chính xác hơn 
hiệu quả của các chính sách này đến phúc lợi 
của các hộ gia đình. 
3. Mô hình lý thuyết
Các phương pháp đánh giá tác động 
chính sách
Mục tiêu của đánh giá tác động chính sách 
là xem xét sự thay đổi của nhóm đối tượng 
hưởng lợi trước và sau khi nhận được hỗ trợ từ 
chính sách tương ứng. Tuy nhiên, chính điều 
này thường gây ra những sai lầm. Trong rất 
nhiều trường hợp, người đánh giá chỉ so sánh 
tình huống của hoàn cảnh trước khi có chính 
sách và sau khi có chính sách, để đưa ra kết 
luận về hiệu quả. Nghĩa là, kể cả khi không 
có chính sách thì các đối tượng tham gia vẫn 
có thể thay đổi theo hướng mà mục tiêu chính 
sách hướng đến. Hoặc sự thay đổi có thể xảy 
ra không phải là do hưởng lợi từ chính sách 
này. Vì vậy, nguyên tắc cơ bản của việc đánh 
giá tác động là so sánh “thực tế” với “phản 
thực tế”. Để so sánh với thực tế, chúng ta cần 
ước lượng được thế giới “phản thực tế” này 
càng rõ ràng càng tốt bằng cách tìm được một 
“nhóm so sánh” đạt được 2 tiêu chí: (i) không 
nhận được chính sách, không bị tác động từ 
xa bởi chính sách; (ii) Càng giống nhóm được 
nhận chính sách càng tốt. 
Nghiên cứu này sử dụng phương pháp kết 
nối điểm xu hướng (PSM) để xác định các 
nhân tố quyết định khả năng tham gia các 
chương trình hỗ trợ với phương pháp khác 
biệt kép (DID) để đánh giá tác động của các 
chương trình đó phúc lợi hộ gia đình. 
Phương pháp Kết nối điểm xu hướng (PSM)
Bản chất của phương pháp PSM là xây 
dựng nhóm so sánh bằng các phương pháp 
thống kê. Dựa vào các đặc tính quan sát được 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
14 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
giữa nhóm tham gia và nhóm so sánh, chúng 
ta xây dựng một chỉ số gọi là điểm xu hướng 
(propensity score) được tính toán dựa trên các 
đặc tính quan sát được. Phương pháp PSM yêu 
cầu việc lựa chọn mẫu chỉ phụ thuộc vào các 
đặc tính có thể thấy được, các đặc tính không 
quan sát được không ảnh hưởng đến quá trình 
chọn nhóm tham gia hay nhóm so sánh. 
Phương pháp này giả định rằng: (i) Giả 
định độc lập có điều kiện - sau khi đã kiểm 
soát các yếu tố khác quan sát được, sự khác 
biệt về tác động chính sách lên nhóm tham gia 
hay nhóm so sánh không phụ thuộc vào việc 
phân bổ chính sách; (ii) Giả định có vùng hỗ 
trợ chung (hoặc điều kiện trùng lặp) - vùng có 
ước lượng điểm xu hướng của cả nhóm tham 
gia và nhóm so sánh, đảm bảo tìm được các 
quan sát trong nhóm so sánh có các đặc tính 
giống với các quan sát tương ứng trong nhóm 
tham gia. Quan sát không nằm trong vùng hỗ 
trợ chung sẽ bị loại. 
Để xác định xác suất (điểm xu hướng) của 
mỗi đối tượng, chúng ta thực hiện một mô 
hình hồi quy với biến phụ thuộc nhị phân và 
các biến giải thích là các đặc trưng có thể quan 
sát được của đối tương. Sau đó, thực hiện xây 
dựng vùng hỗ trợ chung và phân chia xác suất 
vào các khối nhằm đảm bảo các đặc trưng là 
không quá khác biệt giữa hai nhóm trong từng 
khối. 
Phương pháp khác biệt kép (DID)
Phương pháp này sử dụng một nhóm 
không tham gia chính sách làm nhóm so sánh. 
Sau đó thu thập số liệu của nhóm tham gia 
và không tham gia, trước và sau chính sách. 
Khác biệt của thay đổi giữa hai nhóm (khác 
biệt kép) chính là tác động của chính sách. 
Với T là biến giả nhận giá trị 0 hoặc 1 cho 
biết trạng thái tham gia chính sách, Y
i 
 là chỉ 
tiêu kết quả của đối tượng thứ i, thì khác biệt 
này được tính bằng 
D = E[(Y
i
 - Yo
i
 )|T = 1] - E[(Y
i
 - Yo
i
)|T = 0]
Trong đó [E(Y
i
 - Yo
i
|T = 1)] chính là tác 
động của chính sách đối với những hộ tham 
gia, so sánh với trước khi họ tham gia chính 
sách (khác biệt thứ nhất). Tác động này được 
gọi là tác động trung bình với người tham gia. 
Tương tự E[(Y
i
 - Yo
i
)|T = 0] là trung bình thay 
đổi về thu nhập của các hộ không tham gia 
chính sách giữa thời điểm áp dụng chính sách 
và thời điểm nghiên cứu. 
Quy trình ước lượng
Nghiên cứu này sử dụng đồng thời hai 
phương pháp PSM và phương pháp DID. Ý 
tưởng của việc kết hợp này là sử dụng nhóm 
so sánh dựa trên điểm xu hướng để khắc phục 
nhược điểm không kiểm soát được đặc trưng 
của hai nhóm tham gia và không tham gia 
chính sách trước khi tính toán chỉ số khác biệt 
trong khác biệt.
+ Trước hết, sử dụng mô hình probit hoặc 
logit để tính điểm xu hướng: 
Pscore = P(C
i 
= 1) = α
o 
+ + u
i 
 (1)
Trong đó: C
i
 là biến nhị phân, C
i 
= 1 nếu có 
tham gia chính sách; X
ji
 là đặc trưng của hộ 
gia đình.
+ Sau đó xây dựng vùng hỗ trợ chung và 
loại bỏ các quan sát không nằm trong vùng 
này. Đồng thời, phân chia các quan sát dựa 
theo điểm xu hướng vào các khối, nhằm đảm 
bảo giá trị trung bình của mỗi biến số kiểm 
soát các đặc trưng của nhóm tham gia là cân 
bằng với nhóm so sánh trong từng khối. 
+ Cuối cùng, sử dụng hồi quy mô hình để 
đánh giá tác động bằng khác biệt kép:
Y
i 
 = β
o
 + β1.Ti + β2.Year + β3.(T*Year) + εi (2)
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
15Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
Trong đó: Y
i
 là phúc lợi hộ gia đình thứ i; 
T là biến trạng thái tham gia chính sách (T=0, 
1), Year là biến thời gian trước và sau khi tham 
gia chính sách. Hệ số của biến tương tác T và 
Year là giá trị khác biệt trong khác biệt (DID), 
hay chính là tác động của chính sách.
Bảng 1: Phương pháp khác biệt kép (DID) 
Year = 0 Year = 1 
T = 0 = β
0
 = β
0 
+ β
2 
T = 1 = β
0 
+ β1 = β0 + β1 + β2 + β3
Δ β1 β1 + β3
Khác biệt 
kép
DID = β
3
4. Kết quả thực nghiệm 
Nghiên cứu này thực hiện đánh giá tác 
động của hai nhóm chính sách hỗ trợ thu nhập 
và hỗ trợ tư liệu sản xuất dựa trên bộ số liệu 
Điều tra mức sống hộ gia đình (VHLSS) năm 
2012 và 2014. Có 7 chính sách được chia ra 
thành hai nhóm: (i) hỗ trợ tư liệu sản xuất 
bao gồm dạy nghề cho người thu nhập thấp; 
cấp đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu 
số; tín dụng ưu đãi; (ii) hỗ trợ thu nhập gồm: 
hỗ trợ nhà ở; trợ cấp lương thực; trợ cấp khó 
khăn hộ nghèo. Sau khi loại bỏ các quan sát 
không đủ thông tin và ghép hai năm, ta có bộ 
số liệu mảng cân bằng gồm tất cả 8230 quan 
sát, tương ứng với 4115 hộ gia đình. 
4.1. Mô tả số liệu 
Những hộ tham gia nhận hỗ trợ tư liệu sản 
xuất có quy mô lớn hơn, độ tuổi trung bình 
thấp hơn và diện tích đất canh tác rộng hơn. 
Đồng thời những hộ này có tỷ lệ trẻ em dưới 
15 tuổi thấp hơn hẳn so với nhóm nhận hỗ trợ 
thu nhập (7,6% và 26,7% tương ứng cho mỗi 
nhóm). Hai nhóm này có tỷ lệ người già tương 
đồng nhau, trong khi tỷ lệ trẻ em ở nhóm nhận 
hỗ trợ thu nhập cao hơn. Đa phần các hộ nhận 
hỗ trợ tư liệu sản xuất có chủ hộ nam (81,9%) 
và có người đi làm ăn xa, các đặc tính này đối 
với hộ nhận hỗ trợ thu nhập là 19,8% và 3,1%. 
 Bảng 2: Đặc điểm các hộ gia đình
Tiêu chí Hộ nhận hỗ trợ tư liệu SX Hộ nhận hỗ trợ thu nhập
Quy mô hộ trung bình (Người) 4,25 3,54
Tổng diện tích đất canh tác trung bình (m2) 10181 9011
Độ tuổi trung bình chủ hộ (tuổi) 46,88 51,5
Số năm đi học trung bình chủ hộ (Năm) 6,47 4,9
Tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi trung bình (%) 7,6 26,7
Tỷ lệ người già trên 60 tuổi trung bình (%) 23 22,5
Tỷ lệ kết hôn (%) 100 30,4
Tỷ lệ chủ hộ là nam giới (%) 81,9 19,8
Tỷ lệ hộ có người làm ăn xa (%) 12 3,1
Tỷ lệ hộ có chủ hộ đi làm xa (%) 0 0
Tỷ lệ hộ ở thành thị (%) 13,3 1 ,7
Tỷ lệ hộ ở nông thôn (%) 14,7 6 ,5
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu VHLSS 2012, 2014
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
16 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
Chính sách tín dụng ưu đãi có tỷ lệ tham gia 
lớn nhất, sau đó đến hỗ trợ về nhà ở, tham gia 
thấp nhất là chính sách cấp đất sản xuất cho hộ 
nghèo dân tộc thiểu số và dạy nghề cho người 
thu nhập thấp. 
4.2. Kết quả ước lượng thực nghiệm 
Để đánh giá tác động của các chính sách hỗ 
trợ theo phương pháp đã trình bày trong phần 
3, trước hết ta sử dụng phương pháp PSM 
để xác định 2 nhóm hộ tham gia và tham gia 
(nhóm so sánh) có đặc tính như nhau. Sau đó, 
áp dụng phương pháp DID để tính tác động 
của các chính sách này đến phúc lợi của các 
hộ gia đình (thu nhập/chi tiêu).
Bảng 3: Tỷ lệ tham gia các chính sách hỗ trợ
Nhóm chính sách Tỷ lệ tham gia (%)
Nhóm chính sách 
hỗ trợ công cụ sản xuất
(Nhóm 1)
Dạy nghề cho người nghèo, người thu nhập thấp 0,12
Cấp đất sản xuất cho hộ nghèo dân tộc thiểu số 0,02
Tín dụng ưu đãi đối với người nghèo 11,47
Hỗ trợ máy móc, vật tư sản xuất 5,23
Nhóm chính sách
 hỗ trợ thu nhập
(Nhóm 2)
Hỗ trợ hộ nghèo về nhà ở 8,7
Trợ cấp lương thực 5,2
Trợ cấp khó khăn đối với hộ nghèo 4,8
Nguồn: Tổng hợp từ số liệu VHLSS 2010, 2012
Bảng 4: Mô hình Probit ước lượng xác suất tham gia các nhóm chính sách hỗ trợ
Tham gia hỗ trợ tư liệu sản xuất Tham gia hỗ trợ thu nhập
Biến số Hệ số SE Z-stats Hệ số SE Z-stats
Đặc điểm chủ hộ
Giới tính (Nam = 1) 0,023 0,099 0,23 -0,004 0,145 -0,02
Độ tuổi của chủ hộ -0,014*** 0,004 -3,19 -0,006 0,006 -1,05
Trình độ giáo dục -0,006 0,012 -0,46 -0.032* 0,018 -1,81
Bằng cấp cao nhất 0,041 0,034 1,18 0,055 0,045 1,24
Đặc trưng hộ
Quy mô hộ 0,014 0,027 0,52 -0,075 0,048 -1,59
Tỉ lệ trẻ em -0,09 0,253 -0,35 0,446 0,423 1,05
Tỉ lệ người già -0,3* 0,173 -1,7 0,579** 0,232 2,50
Tổng diện tích đất (m2) 0,000 0,000 1,24 0,00003* 0,0000 1,90
Có người đi làm ăn xa (Có = 1) -0,002 0,078 -0,03 0,117 0,122 0,95
 Khu vực thành thị (Có = 1) -0,137 0,125 -1,09 -0,138 0,223 -0,62
Thu nhập bình quân -0,0002*** 0,000 -5,69 -0.0003*** 0,000 -4,99
Hệ số chặn -0,009 0,308 -0,03 -0,761 0,463 -1,64
Mức ý nghĩa *: 10%, **: 5%, ***: 1% 
Nguồn: Ước lượng từ số liệu VHLSS 2012, 2014
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
17Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
Kết quả ước lượng mô hình probit trong đó 
các biến độc lập là các đặc tính của hộ và chủ 
hộ để tính toán xác suất tham gia các chính 
sách hỗ trợ được báo cáo trong bảng 4. Các hộ 
có độ tuổi bình quân càng cao càng có ít khả 
năng tham gia hỗ trợ tư liệu sản xuất. Tỷ lệ 
người già trong hộ cũng có mối quan hệ ngược 
chiều với xác suất tham gia chính sách này. 
Điều này tương tự như đặc điểm của hộ được 
tính toán ở bảng 2. Điều đáng chú ý nữa là 
trong khi tỷ lệ người già có tác động đến khả 
năng tham gia của hộ gia đình đối với hai nhóm 
chính sách thì tỷ lệ trẻ em lại hoàn toàn không 
có tác động gì. Trình độ giáo dục (đo bằng số 
năm đi học) không ảnh hưởng gì đến xác suất 
tham gia hỗ trợ tư liệu sản xuất, nhưng lại có 
tác động ngược chiều với xác suất tham gia 
hỗ trợ thu nhập. Diện tích đất nông nghiệp có 
ý nghĩa trong việc phân bố xác suất tham gia 
vào hỗ trợ thu nhập.
Bảng 5 cho thấy việc nhận hỗ trợ về tư liệu 
sản xuất gần như không có ý nghĩa đối với 
thu nhập cũng như cơ cấu chi tiêu. Kết quả 
tính toán từ phương pháp DID cho thấy mối 
liên hệ giữa nhận hỗ trợ tư liệu sản xuất có tác 
động cùng chiều với gia tăng tổng chi tiêu hộ. 
Cụ thể, những hộ có tham gia chính sách này 
có mức gia tăng chi tiêu chênh lệch khoảng 
42,5 triệu so với các hộ không tham gia bất cứ 
chính sách nào. 
Ngược lại, việc tham gia nhận hỗ trợ thu 
nhập cho thấy mối liên hệ với việc thay đổi 
lớn về phúc lợi đối với hộ gia đình. Hỗ trợ trực 
tiếp về thu nhập làm tổng thu nhập và mức 
tiền lương mỗi tháng tăng so với các hộ không 
nhận hỗ trợ với mức chênh lệch kép tương ứng 
là 47,1 triệu và 3,9 triệu mỗi tháng. Thu nhập 
từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp tăng rõ 
rệt (mức chênh lệch là 30,9 triệu) và không 
thấy mối tương quan giữa việc nhận hỗ trợ thu 
nhập với gia tăng thu nhập từ hoạt động sản 
Bảng 5: Tác động của việc tham gia chính sách trợ giúp đến phúc lợi hộ gia đình
Chỉ tiêu phúc lợi Nhóm chính sách
Hỗ trợ tư liệu sản xuất Hỗ trợ thu nhập
Thu nhập (1000 đồng)
Tổng thu nhập cả năm 14477 47150 ***
Tiền lương/tháng 1270 3858 ***
Thu nhập từ HĐSX nông nghiệp -5683 16262
Thu nhập từ HĐSX phi nông nghiệp 20160 30888***
Chi tiêu (1000 đồng)
Tổng chi tiêu 42515* 85481***
Chi cho y tế & chăm sóc sức khỏe 1078 1381
Chi mua lương thực thực phẩm -386 1909***
Chi mua đồ dùng lâu bền -8206 701
Chi sinh hoạt 1025 583
Đầu tư cho hoạt động SXKD 6237,5 20351*
Mức ý nghĩa *: 10%, **: 5%, ***: 1% 
Nguồn: Ước lượng từ số liệu VHLSS 2012, 2014
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
18 Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏI Soá 81 (4/2016)
xuất nông nghiệp so với nhóm không nhận bất 
kỳ sự trợ giúp nào. Tương ứng với việc gia 
tăng thu nhập thì những hộ này có mức gia 
tăng chi tiêu khá lớn (85,5 triệu) so với các hộ 
không tham gia chính sách. Chênh lệch về gia 
tăng chi tiêu của những hộ này gần gấp đôi so 
với các hộ nhận hỗ trợ tư liệu sản xuất, đồng 
thời cũng cao hơn rất nhiều so với mức chênh 
lệch trong gia tăng về tổng thu nhập cả năm. 
Trong cơ cấu chi của nhóm này cho thấy chi 
mua lương thực, thực phẩm tăng so với nhóm 
không tham gia chính sách này. Điều này cũng 
khá hợp lý trong thực tế vì các hộ nhận hỗ trợ 
thu nhập thường là những hộ nghèo của địa 
phương. Do vậy, khi thu nhập tăng thì chi tiêu 
cho nhu cầu cơ bản nhất là lương thực, thực 
phẩm sẽ được ưu tiên. Trong khi đó, không 
tìm thấy bằng chứng rõ ràng cho việc gia tăng 
những khoản chi về y tế, giáo dục, đồ dùng lâu 
bền và chi sinh hoạt. Điều đáng ngạc nhiên là 
các hộ nhận hỗ trợ về thu nhập lại có khoản 
chi đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh 
cao hơn các hộ khác (mức chênh lệch khoảng 
20,3 triệu). 
Tóm lại các hộ nhận trợ giúp về thu nhập 
đều có phúc lợi gia tăng lớn hơn so với nhóm 
nhận trợ giúp về tư liệu sản xuất. Nhóm nhận 
hỗ trợ tư liệu sản xuất lại không cho thấy bằng 
chứng về việc gia tăng các khoản chi cho đầu 
tư sản xuất, ngược lại các hộ càng nhận nhiều 
hỗ trợ về thu nhập lại càng đầu tư cho hoạt 
động sản xuất kinh doanh nhiều hơn. Một 
điểm đáng chú ý nữa là các hộ nhận hỗ trợ thu 
nhập lại cải thiện thu nhập từ hoạt động sản 
xuất phi nông nghiệp lớn hơn so với hoạt động 
sản xuất nông nghiệp. 
Để đánh giá cụ thể hơn, khi xem xét về 
phân bố của nhóm người nghèo và người thu 
nhập thấp (đa phần các hộ ở khu vực nông 
thôn), nghiên cứu này cũng đánh giá tác động 
của 2 nhóm chính sách này ở khu vực nông 
thôn. Về cơ bản, kết quả ước lượng ở khu 
vực nông thôn cũng có cùng xu hướng với 
kết quả ước lượng cho các hộ nghèo, hộ thu 
nhập thấp trên cả nước. Đối với khu vực nông 
thôn, không tìm thấy bằng chứng cho thấy hộ 
tham gia chính sách nhận hỗ trợ tư liệu sản 
xuất có thể thay đổi thu nhập hoặc chi tiêu 
của mình. Điều này cho thấy chính sách này 
chưa thực sự hiệu quả. Ngược lại chính sách 
hỗ trợ mang lại lợi ích cho hộ nghèo trên cả 
phương diện thu nhập lẫn chi tiêu. Các chỉ số 
đo lường chênh lệch ở các chỉ tiêu về tổng thu 
nhập, lương tháng, tổng chi tiêu, chi lương 
thực, thực phẩm và chi đầu tư sản xuất kinh 
doanh của nhóm này đều cho thấy nhóm tăng 
lên về phúc lợi khi tham gia chính sách hỗ trợ 
về thu nhập. 
5. Kết luận
Nghiên cứu này thực hiện đánh giá tác 
động của hai nhóm chính sách hỗ trợ tư liệu 
sản xuất và hỗ trợ thu nhập đối với phúc lợi 
của các hộ gia đình thông qua việc kết hợp hai 
phương pháp PSM và DID trong ước lượng 
các yếu tố tác động đến khả năng tham gia 
các chính sách hỗ trợ của các hộ gia đình và 
tác động của các chính sách hỗ trợ này. Kết 
quả của nghiên cứu chỉ ra rằng quan điểm 
nên hỗ trợ người nghèo, người thu nhập thấp 
bằng cách hỗ trợ cho họ tư liệu sản xuất - điều 
này cho thấy rằng cho người nghèo “cần câu” 
không hề đơn giản để có thể thu được hiệu quả 
về phúc lợi. Điều này tương đối khác biệt so 
với kết luận của một số nghiên cứu khác như 
Chow (2006), Mendola (2006), Oi và Haas 
(2008), Vương Quốc Duy (2012) và Kumari 
(2013). Ngược lại khá tương đồng so với các 
kết quả của Phan Thị Nữ (2010) và Trần Thị 
Thanh Tú và cộng sự (2015). 
Tuy nhiên, kết quả ước lượng từ PSM và 
đánh giá tác động từ DID (xem bảng 4 và 5) 
hàm ý rằng nhóm chính sách hỗ trợ này có ý 
KINH TEÁ VAØ HOÄI NHAÄP
19Taïp chí KINH TEÁ ÑOÁI NGOAÏISoá 81 (4/2016)
nghĩa lâu dài trong việc cải thiện đời sống hộ 
nghèo vì nó có tác động hướng người nghèo 
tới việc thay vì nhận các khoản hỗ trợ trực 
tiếp bằng tiền, sẽ học cách thức và làm chủ 
phương thức sản xuất để tự lựa chọn cho mình 
con đường giảm nghèo hiệu quả nhất. Trên 
thực tế các chính sách hỗ trợ này chưa thực 
sự có ý nghĩa đối với việc nâng cao thu nhập. 
Tham gia nhóm chính sách này, các hộ chủ 
yếu tham gia chính sách tín dụng ưu đãi nhưng 
lại không cho thấy dấu hiệu rõ ràng về việc 
tăng chi đầu tư sản xuất kinh doanh. Ngược 
lại, các hộ tham gia hỗ trợ về thu nhập thì chi 
đầu tư sản xuất kinh doanh có xu hướng tăng. 
Có lẽ, quan điểm giúp đỡ hay định hướng cho 
người nghèo tự tìm giải pháp thoát nghèo phải 
bắt đầu từ việc hỗ trợ về thu nhập để hộ ổn 
định đời sống cơ bản hàng ngày, sau đó hướng 
tới hỗ trợ tư liệu và phương thức sản xuất chứ 
không đơn giản chỉ là lựa chọn một trong hai 
con đường giữa việc cung cấp “cần câu” hay 
“con cá” cho người nghèo.q
Tài liệu tham khảo
1. Điều tra mức sống hộ gia đình VHLSS 2012, 2014, Tổng cục Thống kê, Việt Nam.
2. Gregory C Chow, 2006, Rural Poverty in China: Problem and Policy, Department of 
Economics, University of Chicago.
3. Jean C. Oi William Haa, 2008, Development Strategies, Welfare Regime and Poverty 
Reduction in China, UNRISD Project on Poverty Reduction and Policy Regimes.
4. Lalita Kumar, 2013, Poverty eradication in India: A study of national policies, plans and 
programs, ISSN 2231-4172, Journal of Arts, Science & Commerce.
5. Mariapia Mendola, 2006, Agriculture technology adoption and poverty reduction: A 
propensity-score matching analysis for rural Bangladesh, Food Policy 32 (2007)372-
393.
6. Meg Elkins, Simon Feeny & David Prentice, 2015, Do Poverty Reduction Strategy Papers 
reduce poverty and improve well-being? Discussion Paper No. 15/02 University of 
Nottingham, UK.
7. Nguyễn Ngọc Sơn, 2012, Chính sách giảm nghèo ở nước ta hiện nay: Thực trạng và định 
hướng hoàn thiện, Tạp chí Kinh tế & Phát triển.
8. Phan Thị Nữ, 2010, Đánh giá tác động của tín dụng đối với giảm nghèo ở nông thôn Việt 
Nam, Luận văn Thạc sỹ, Chương trình giảng dạy kinh tế FullBright, Đại học Kinh tế TP. 
Hồ Chí Minh.
9. Tagel Gebrehiwot and Anne van der Veen, 2014, Estimating the impact of a food security 
program by propensity-score matching, Journal of Development and Agricultural 
Economics.
10. Trần Thị Thanh Tú, Nguyễn Quốc Việt, Hoàng Hữu Lợi, 2015, Determinant of Access 
to Rural Credit and Its Effect on Living Standard: Case Study about Poor Households 
in Northwest, Vietnam, International Journal of Financial Research Vol. 6, No. 2; 2015.
11. Vương Quốc Duy, 2012, Impact of differential access to credit on long and short term 
livelihood outcomes: group-based and individual microcredit in the Mekong Delta 
of Vietnam, CAS Discussion paper No 86, Centre for International Management and 
Development Antwerp & Centre for ASEAN Studies.

File đính kèm:

  • pdftac_dong_cua_ho_tro_tu_lieu_san_xuat_va_thu_nhap_den_phuc_lo.pdf