Tác động của các quy định về sở hữu trí tuệ trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
Chương Sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình
Dương (CPTPP) đặt ra nhiều nghĩa vụ mới cho Việt Nam, đòi hỏi pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
phải được sửa đổi một cách toàn diện để thực thi các điều khoản trong Chương này. Bài viết phân
tích các điều khoản sở hữu trí tuệ trong CPTPP, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành và với
Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ vừa được
Quốc hội thông qua ngày 14/6/2019 để chỉ ra những điểm tương thích và những điểm cần tiếp tục
sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện.
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của các quy định về sở hữu trí tuệ trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của các quy định về sở hữu trí tuệ trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam
VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 9 Review Article Impacts of the CPTPP on the Improvement of Vietnam’s Intellectual Property Law Nguyen Thi Que Anh*, Nguyen Bich Thao VNU, School of Law, 144 Xuan Thuy, Cau Giay, Hanoi, Vietnam Received 05 August 2019 Revised 15 September 2019; Accepted 19 September 2019 Abstract: The Intellectual Property Chapter in the Comprehensive and Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership imposes many new obligations on Vietnam, which requires an overhaul of Vietnam’s intellectual property law in order to implement the IP provisions in this Agreement. This article anaylyzes the IP provisions in CPTPP, compares with the current Vietnamese law and with the newly amended Law on Intellectual Property, which was adopted by the National Assembly on June 14, 2019, then identifies which provisions have met the requirements of CPTPP and which provisions need further amendment and supplement. Keywords: CPTPP, intellectual property, law on Intellectual Property. ________ Corresponding author. E-mail address: queanhthu@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4236 VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 10 Tác động của các quy định về sở hữu trí tuệ trong hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đối với việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam Nguyễn Thị Quế Anh*, Nguyễn Bích Thảo Khoa Luật, Đaih học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 05 tháng 8 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 15 tháng 9 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 19 tháng 9 năm 2019 Tóm tắt: Chương Sở hữu trí tuệ trong Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) đặt ra nhiều nghĩa vụ mới cho Việt Nam, đòi hỏi pháp luật sở hữu trí tuệ Việt Nam phải được sửa đổi một cách toàn diện để thực thi các điều khoản trong Chương này. Bài viết phân tích các điều khoản sở hữu trí tuệ trong CPTPP, đối chiếu với pháp luật Việt Nam hiện hành và với Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ vừa được Quốc hội thông qua ngày 14/6/2019 để chỉ ra những điểm tương thích và những điểm cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện. Từ khóa: CPTPP, sở hữu trí tuệ, Luật Sở hữu trí tuệ. 1. Tổng quan về Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương * Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) là một hiệp định thương mại tự do được ký kết giữa các quốc gia Úc, Brunei, Canada, Chi lê, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam. CPTPP kế thừa phần lớn những điều khoản của Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) đã được ký ngày 04 tháng 2 năm 2016 nhưng chưa có hiệu lực do Hoa Kỳ rút khỏi ________ * Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: queanhthu@yahoo.com https://doi.org/10.25073/2588-1167/vnuls.4236 hiệp định. Vào tháng 5 năm 2017, 11 thành viên còn lại của TPP đã đồng ý khởi động lại hiệp định thương mại này. Tháng 1 năm 2018, các quốc gia đã đạt được thỏa thuận ký kết CPTPP và lễ ký được tổ chức vào ngày 8 tháng 3 năm 2018 tại Santiago, Chi lê. Mặc dù Hoa Kỳ rút khỏi Hiệp định, CPTPP vẫn là một trong những hiệp định thương mại tự do lớn nhất trên thế giới, có phạm vi thị trường khoảng 500 triệu dân và chiếm gần 13.5% GDP toàn cầu. Điểm khác biệt giữa Hiệp định CPTPP so với TPP thể hiện ở hai khía cạnh chủ yếu [1]: Thứ N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 11 nhất, CPTPP liệt kê những phần được tạm hoãn của TPP (Điều 2); nhìn chung đó là những điều khoản mà Hoa Kỳ mong muốn nhưng lại bị các quốc gia khác phản đối. Những phần được tạm hoãn chủ yếu nằm trong các chương về đầu tư và sở hữu trí tuệ của TPP. Tuy nhiên, toàn bộ những điều khoản còn lại của TPP đã được kế thừa trong CPTPP và được giữ nguyên vẹn (Điều 1). Thứ hai, CPTPP bao gồm những điều khoản mới xử lý chủ yếu vấn đề phê chuẩn, rút khỏi và tham gia hiệp định. Đặc biệt, CPTPP điều chỉnh thời điểm và cách thức hiệp định có hiệu lực. Cụ thể, Hiệp định quy định rằng “ít nhất 6 hoặc ít nhất 50%” các nước ký kết phải phê chuẩn hiệp định thì Hiệp định mới có hiệu lực và định mức được áp dụng sẽ là “định mức nào nhỏ hơn” (Điều 3). Việt Nam phê chuẩn CPTPP ngày 12/11/2018 và Hiệp định này chính thức có hiệu lực với Việt Nam từ ngày 14/1/2019. 2. Các điều khoản về sở hữu trí tuệ trong Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương và tác động tới pháp luật Việt Nam 2.1. Khái quát về Chương Sở hữu trí tuệ trong Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương Chương Sở hữu trí tuệ trong CPTPP là chương có nhiều cam kết chưa được quy định hoặc vượt quá phạm vi quy định của pháp luật Việt Nam. Do vậy, để thực hiện Chương này đòi hỏi Việt Nam phải xem xét và sửa đổi đáng kể Luật Sở hữu trí tuệ và các văn bản hướng dẫn thi hành. Thứ nhất, CPTPP yêu cầu các nước thành viên phải ban hành Luật Sở hữu trí tuệ quy định mức độ bảo hộ các quyền sở hữu trí tuệ cao hơn mức quy định trong pháp luật hiện hành của Việt Nam. Mức bảo hộ cao hơn liên quan đến mở rộng đối tượng được bảo hộ như dữ liệu thử nghiệm và dữ liệu khác về nông hoá phẩm, bảo hộ dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự chỉ dẫn địa lý; cho phép nộp đơn đăng ký bảo hộ bằng phương thức điện tử; tăng cường minh bạch thông tin về xử lý đơn yêu cầu bảo hộ và thiết lập cơ chế bảo vệ chống lại các hành vi vi phạm, bao gồm những vi phạm trong môi trường số. Thứ hai, về chế tài trong trường hợp vi phạm, bên cạnh các chế tài dân sự, hành chính, Hiệp định CPTPP còn yêu cầu các nước thành viên phải quy định chế tài hình sự đối với một số hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ như cố ý giả mạo nhãn hiệu hàng hóa hoặc quyền tác giả, sao chép bất hợp pháp tác phẩm điện ảnh, thậm chí không trên quy mô thương mại. Thứ ba, về các biện pháp hải quan đối với hàng hóa xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, Hiệp định CPTPP có một số quy định yêu cầu thực hiện các biện pháp hải quan nghiêm ngặt hơn các quy định hiện hành của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn. Ví dụ, cơ quan hải quan phải có quyền mặc nhiên kiểm soát đối với hàng hoá xuất khẩu, quá cảnh có dấu hiệu xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ (không cần yêu cầu từ chủ thể quyền). Mặt khác, CPTPP thông qua một loạt những quy định tạm hoãn, đã giới hạn đáng kể những khía cạnh quan trọng của việc bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ trong Chương 18 của TPP như sau: Thứ nhất, CPTTP tạm hoãn Điều 18.37(2), điều khoản mở rộng “các đối tượng có thể được cấp bằng sáng chế” đến những sản phẩm đã biết nhưng có công dụng mới, phương pháp sử dụng mới hoặc quy trình sử dụng mới. Việt Nam cũng không cần ban hành luật hoặc quy định mở rộng phạm vi của sáng chế đến những sáng chế bắt nguồn từ thực vật (do CPTPP tạm hoãn Điều 18.37(4)). Thứ hai, TPP đã quy định nghĩa vụ của các quốc gia thành viên trong việc kéo dài thời hạn bảo hộ sáng chế khi cơ quan cấp bằng sáng chế đã tạo ra “sự trì hoãn không hợp lý hoặc không cần thiết” trong việc cấp bằng sáng chế (theo Điều 18.46) hoặc có một sự “trì hoãn không hợp lý hoặc không cần thiết” trong việc cấp giấy phép lưu hành dược phẩm là đối tượng bảo hộ của bằng sáng chế (theo Điều 18.48). CPTPP tạm hoãn cả hai nghĩa vụ trên và do vậy Việt Nam không phải thực hiện nghĩa vụ ban hành ngay luật hoặc quy định cho phép khả năng điều chỉnh thời hạn bảo hộ sáng chế. Thứ ba, CPTPP tạm hoãn quy định về bảo vệ kết quả thử nghiệm và dữ liệu bí mật trong Điều 18.50 của TPP. TPP yêu cầu một quốc gia thành viên quy định một thời hạn bảo vệ dữ liệu ít nhất N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 12 là 5 năm khi yêu cầu chủ sở hữu bằng sáng chế của một dược phẩm mới cung cấp dữ liệu cho mục đích xin giấy phép lưu hành dược phẩm lần đầu tiên. Nếu không thể dựa vào những dữ liệu này, các nhà sản xuất sau này bắt buộc phải lặp lại các thử nghiệm lâm sàng thường kéo dài và tốn kém để được cấp giấy phép lưu hành dược phẩm lần đầu tiên. Hiện tại Việt Nam không có nghĩa vụ phải ban hành luật hoặc quy định về bảo vệ dữ liệu này. Thứ tư, CPTPP tạm hoãn toàn bộ quy định trong việc bảo vệ sinh phẩm (theo Điều 18.51 của TPP). Sinh phẩm là thuốc được tạo ra từ những sinh vật sống và TPP đã mở rộng vượt quá quy định pháp luật của nhiều quốc gia khi yêu cầu bảo vệ cho sinh phẩm. Việt Nam hiện tại không có nghĩa vụ phải thông qua luật hoặc quy định liên quan đến sinh phẩm. Thứ năm, CPTPP tạm hoãn Điều 18.36 của TPP - điều khoản quy định thời hạn bảo hộ quyền tác giả là 70 năm sau khi tác giả qua đời. Việt Nam chỉ cần đáp ứng yêu cầu như một thành viên WTO theo Hiệp định về các khía cạnh thương mại của quyền sở hữu trí tuệ, trong đó yêu cầu thời hạn bảo hộ quyền tác giả là ít nhất 50 năm sau khi tác giả qua đời. Thứ sáu, Việt Nam sẽ không còn phải thực hiện nghĩa vụ phát triển một hệ thống “các biện pháp công nghệ bảo vệ quyền” (do CPTPP tạm hoãn Điều 18.68). Việt Nam cũng sẽ không phải quy định sự bảo hộ rộng hơn cho “thông tin quản lý quyền” (do CPTPP tạm hoãn Điều 18.69). Đây là thông tin xác định một tác phẩm có bản quyền, chủ sở hữu bản quyền, và chỉ ra cả các điều khoản và điều kiện sử dụng những tác phẩm đó, nếu có. Thứ bảy, CPTPP tạm hoãn Điều 18.79 của TPP. Theo đó, Việt Nam sẽ không phải ban hành luật hoặc điều khoản để bảo hộ rộng hơn cho tín hiệu vệ tinh mang chương trình được mã hóa và tín hiệu chương trình cáp, ví dụ như dịch vụ truyền hình trả tiền. Thứ tám, CP-TPP tạm hoãn Điều 18.82 của TPP, theo đó, Việt Nam hiện tại không có nghĩa vụ ban hành quy định về nghĩa vụ của nhà cung cấp dịch vụ Internet khi có sự vi phạm bản quyền trực tuyến. Mặc dù nhiều quy định về sở hữu trí tuệ trong TPP đã được tạm hoãn bởi CPTPP, chương Sở hữu trí tuệ trong CPTPP vẫn đưa ra những tiêu chuẩn rất cao và chi tiết về sở hữu trí tuệ so với các hiệp định thương mại trước đó. 2.2. Nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ của Việt Nam theo CPTPP và lộ trình thực thi Chương Sở hữu trí tuệ trong CPTPP bao gồm khá nhiều nghĩa vụ mới đối với Việt Nam. Để đáp ứng yêu cầu trong chương này, hệ thống pháp luật liên quan đến sở hữu trí tuệ của Việt Nam phải có những sửa đổi nhất định để phù hợp với các nghĩa vụ quy định trong Chương này. Theo lộ trình mà Chính phủ đưa ra trong Quyết định số 121/QĐ-TTg về phê duyệt kế hoạch thực hiện Hiệp định CPTPP ngày 24/01/2019, trong nội dung công việc về xây dựng pháp luật, thể chế, đối với riêng Luật Sở hữu trí tuệ, Bộ Khoa học Công nghệ phải hoàn thiện các Tờ trình về dự án luật, Nghị định hướng dẫn thi hành Luật sửa đổi trong năm 2021 và Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phải hoàn thiện Tờ trình phê chuẩn các hiệp ước quốc tế trong năm 2022. Để trước mắt đáp ứng một số yêu cầu theo quy định của Hiệp định CPTPP, Cục Sở hữu trí tuệ đã ra Thông báo số 1926/TB-SHTT ngày 01/02/2019 về việc áp dụng một số quy định tại Hiệp định CPTPP. Đồng thời, Bộ Khoa học và Công nghệ cùng với Bộ Công thương đã gấp rút xây dựng dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ để thực thi CPTPP theo trình tự, thủ tục rút gọn. Ngày 14/6/2019, Quốc hội đã thông qua dự án Luật này. Tuy nhiên, Luật này chỉ sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Sở hữu trí tuệ nhằm nội luật hóa các nghĩa vụ mà Việt Nam phải thực hiện ngay từ ngày 14/1/2019. Để thực hiện các nghĩa vụ còn lại, từ nay đến năm 2022, Luật Sở hữu trí tuệ sẽ cần tiếp tục được sửa đổi, bổ sung. 2.2.1. Nhãn hiệu Về điều kiện bảo hộ nhãn hiệu, Điều 18.18 của CPTPP cấm các nước thành viên quy định rằng nhãn hiệu phải là dấu hiệu nhìn thấy được bằng mắt như một điều kiện để đăng ký nhãn hiệu, và cấm từ chối đăng ký nhãn hiệu là một N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 13 âm thanh đơn thuần. Ngoài ra, mỗi nước thành viên phải nỗ lực để cho phép đăng ký nhãn hiệu mùi hương. Theo Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), một trong những điều kiện bắt buộc để nhãn hiệu được bảo hộ là nhãn hiệu đó phải là dấu hiệu nhìn thấy được dưới dạng chữ cái, từ ngữ, hình vẽ, hình ảnh, kể cả hình ba chiều hoặc sự kết hợp các yếu tố đó, được thể hiện bằng một hoặc nhiều màu sắc. Như vậy, phạm vi nhãn hiệu được bảo hộ theo pháp luật Việt Nam hẹp hơn so với yêu cầu của CPTPP (không bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, nhãn hiệu mùi hương). Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019 (sau đây gọi là “Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019”) vẫn giữ nguyên quy định này. Theo lộ trình, Việt Nam sẽ phải sửa đổi điều kiện bảo hộ nhãn hiệu trong thời hạn 3 năm kể từ ngày CPTPP có hiệu lực. Do đó, trong tương lai, Luật Sở hữu trí tuệ vẫn phải tiếp tục được nghiên cứu sửa đổi để mở rộng phạm vi các nhãn hiệu được bảo hộ sang các dấu hiệu không nhìn thấy được, đặc biệt là nhãn hiệu âm thanh. Việc mở rộng phạm vi nhãn hiệu được bảo hộ sang nhãn hiệu không nhìn thấy được không chỉ nhằm thực hiện cam kết của Việt Nam theo CPTPP, mà còn xuất phát từ thực tiễn kinh doanh và xu hướng chung của pháp luật nhãn hiệu trên thế giới. Hình thức thể hiện của nhãn hiệu trong thế giới hiện đại ngày càng phong phú, đa dạng, sáng tạo; do đó, các chủ thể kinh doanh có nhu cầu được bảo hộ đối với cả các dấu hiệu không nhìn thấy được nhưng có khả năng phân biệt sản phẩm, dịch vụ của họ với sản phẩm, dịch vụ của các chủ thể khác. Có thể nêu một số ví dụ về nhãn hiệu âm thanh được bảo hộ và sử dụng rộng rãi trên thế giới như: Tiếng gầm của sư tử mở đầu cho phim của hãng MGM (Hoa Kỳ), tiếng chuông điện thoại mặc định của hãng NOKIA (Phần Lan), tiếng sấm rền của hãng môtô Harley - Davidson (Hoa Kỳ) hoặc bốn nốt nhạc lên xuống trầm bổng của hãng dược phẩm HISAMITSU (Nhật Bản)[2] Pháp luật một số quốc gia (Mỹ, Ba Lan, Đức) có những quy định trực tiếp cho phép đăng ký và bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, còn pháp luật Liên bang Nga cũng có những quy định cụ thể về yêu cầu đối với đơn, trình tự, thủ tục đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu âm thanh [3; 106]. Về đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu (hợp đồng li xăng nhãn hiệu), Điều 18.27 của CPTPP quy định các nước thành viên không được yêu cầu đăng ký việc chuyển quyền sử dụng nhãn hiệu để (1) xác lập hiệu lực của việc chuyển quyền sử dụng và (2) là điều kiện để xem việc sử dụng của bên nhận chuyển quyền là việc sử dụng của chủ sở hữu nhãn hiệu trong thủ tục xác lập, duy trì và thực thi quyền đối với nhãn hiệu. Về điểm này, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam năm 2005 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) chưa có sự tương thích [4; 36]. Khoản 2 Điều 148 Luật Sở hữu trí tuệ quy định hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp chỉ có hiệu lực nếu được đăng ký với cơ quan quản lý nhà nước về sở hữu trí tuệ. Do đó, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã ... tiến tới công bố các quyết định hành chính về sở hữu trí tuệ. Điều 18.74 đặt ra các nghĩa vụ chi tiết cho các nước thành viên liên quan đến thực thi quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân sự. Để thực thi quyền sở hữu trí tuệ một cách hiệu quả, pháp luật phải có các chế tài đủ mạnh đối với hành vi xâm phạm. Về chế tài bồi thường thiệt hại, Điều 18.74.4 quy định tòa án phải có thẩm quyền xem xét bất kỳ phương pháp xác định thiệt hại nào mà chủ thể quyền đề xuất, trong đó có thể bao gồm lợi nhuận bị mất, giá trị hàng hóa, dịch vụ bị xâm phạm thông qua giá thị trường hay giá bán lẻ đề nghị. Trong khi đó, khoản 1 Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ hiện hành của Việt Nam chỉ quy định hai căn cứ để tòa án quyết định mức bồi thường thiệt hại. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã khắc phục điểm chưa tương thích này bằng việc bổ sung một căn cứ nữa là “thiệt hại vật chất theo các cách tính khác do chủ thể quyền sở hữu trí tuệ đưa ra phù hợp với quy định của pháp luật”. Điều 18.74.6 và Điều 18.74.7 CPTPP quy định cụ thể: trong các vụ kiện dân sự liên quan đến hành vi xâm phạm quyền tác giả hoặc các quyền khác liên quan đến bảo hộ các tác phẩm, bản ghi âm và các chương trình biểu diễn, và trong các vụ kiện về giả mạo nhãn hiệu, mỗi nước thành viên phải quy định về các khoản tiền bồi thường thiệt hại đã được xác định trước (pre- established damages) tùy theo sự lựa chọn của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ; hoặc khoản bồi thường thiệt hại bổ sung (additional damages), bao gồm cả các khoản bồi thường mang tính chất trừng phạt, răn đe (punitive damages, hay exemplary damages). Khoản bồi thường thiệt hại bổ sung do tòa án quyết định có xem xét đến tính chất của hành vi xâm phạm và nhu cầu ngăn ngừa các hành vi xâm phạm tương tự xảy ra trong tương lai. Quy định này có ý nghĩa rất quan trọng bởi trong nhiều trường hợp, việc chứng minh thiệt hại thực tế trong vụ kiện về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ là rất khó khăn. Pháp luật nhiều nước đã có quy định về bồi thường thiệt hại xác định trước (hay còn gọi là bồi thường thiệt hại theo luật định – statutory damages) trong trường hợp khó xác định thiệt hại. Mức bồi thường theo luật định và mức bồi thường bổ sung phải đủ lớn để bảo đảm tính răn đe. Ví dụ, theo pháp luật Hoa Kỳ, mức bồi thường thiệt hại do luật định đối với vi phạm bản quyền tối thiểu là 750 USD trên 1 tác phẩm và tòa án có thể quyết định tới mức 30.000 USD trên 1 tác phẩm; nếu N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 17 là vi phạm cố ý thì mức này tối đa là 150.000 USD trên 1 tác phẩm [10]. Điều 68 Dự thảo sửa đổi, bổ sung Luật Sáng chế Trung Quốc cũng quy định tăng mức bồi thường thiệt hại luật định tối đa do xâm phạm quyền đối với sáng chế từ 1 triệu nhân dân tệ lên 5 triệu nhân dân tệ và tăng mức bồi thường mang tính trừng phạt (tối đa gấp 5 lần mức thiệt hại thực tế) đối với hành vi xâm phạm cố ý [11]. Trong khi đó, Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam chưa có quy định về bồi thường thiệt hại định trước và bồi thường thiệt hại bổ sung. Điều 205 Luật Sở hữu trí tuệ chỉ quy định một cách chung chung là mức bồi thường thiệt hại về vật chất do Tòa án ấn định nhưng không quá 500 triệu đồng, và không có quy định về việc tòa án có quyền tăng mức bồi thường đối với hành vi xâm phạm cố ý. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung quy định này cho phù hợp. Điều 18.74.10 đặt ra nghĩa vụ mỗi nước thành viên phải quy định rằng trong các trường hợp cần thiết, căn cứ theo kết luận của các vụ án dân sự liên quan đến hành vi xâm phạm, ít nhất là xâm phạm quyền tác giả hoặc các quyền liên quan, sáng chế và nhãn hiệu, tòa án phải có thẩm quyền yêu cầu bên thắng kiện trả cho bên thua kiện chi phí tòa án lệ phí và phí luật sư hợp lý, hoặc bất kỳ các chi phí nào khác theo quy định pháp luật của nước đó. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành mới chỉ quy định tại khoản 3 Điều 205 là chủ thể quyền sở hữu trí tuệ có quyền yêu cầu Tòa án buộc tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ phải thanh toán chi phí hợp lý để thuê luật sư, chứ chưa có quy định ngược lại đối với bên bị đơn Tòa án xác định là không xâm phạm. Để thực thi nghĩa vụ tại Điều 18.74.10, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã bổ sung khoản 4 Điều 198 như sau “Tổ chức, cá nhân là bị đơn trong vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, nếu được Tòa án kết luận là không thực hiện hành vi xâm phạm có quyền yêu cầu Tòa án buộc nguyên đơn thanh toán cho mình chi phí hợp lý để thuê luật sư hoặc các chi phí khác theo quy định của pháp luật.” Tuy nhiên, quy định được bổ sung này còn vượt quá yêu cầu của Điều 18.74.10 khi áp dụng cho tất cả các vụ kiện xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, trong khi CPTPP chỉ yêu cầu áp dụng cho các vụ kiện về xâm phạm quyền tác giả hoặc các quyền liên quan, sáng chế và nhãn hiệu và chỉ trong những trường hợp cần thiết hay thích hợp. Quy định này dẫn đến rủi ro lớn cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ khi khởi kiện vụ án dân sự tại tòa án về hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ và bị Tòa án bác yêu cầu, và Luật cần đặt ra những giới hạn hoặc tiêu chí nhất định về quyền yêu cầu nguyên đơn thanh toán phí luật sư trong trường hợp bị đơn thắng kiện, chứ không thể áp dụng trong mọi trường hợp. Điều 18.74.14 đặt ra nghĩa vụ cho mỗi nước thành viên phải ban hành các quy định cho phép tòa án trong vụ kiện về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ thuộc thẩm quyền của tòa án được áp dụng chế tài đối với các đương sự, luật sư, người giám định và những người khác vi phạm lệnh của tòa án về bảo mật thông tin được cung cấp hay trao đổi trong quá trình tố tụng. Pháp luật Việt Nam chưa có quy định về thẩm quyền ban hành lệnh bảo vệ bí mật thông tin tố tụng và cũng không quy định chế tài, thẩm quyền áp dụng chế tài đối với các vi phạm bảo mật thông tin trong tố tụng [4; 55]. Do đó, cần sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự để quy định thêm về thẩm quyền này của tòa án trong vụ kiện về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Điều 18.74.15 quy định mỗi nước thành viên phải bảo đảm rằng các cơ quan tư pháp có thẩm quyền buộc bên đã đưa ra yêu cầu thực hiện các biện pháp chế tài và đã lạm dụng các thủ tục thực thi liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ phải bồi thường cho bên bị áp dụng các biện pháp đó tương ứng với mức độ thiệt hại do sự lạm dụng gây ra, và phải có thẩm quyền buộc nguyên đơn phải trả cho bị đơn các chi phí, trong đó có thể bao gồm cả phí luật sư hợp lý. Luật Sở hữu trí tuệ Việt Nam hiện hành chưa có quy định này. Để thực thi nghĩa vụ tại Điều 18.74.15, Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 đã bổ sung khoản 5 Điều 198 như sau: “Tổ chức, cá nhân lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ mà gây thiệt hại cho tổ chức, cá nhân khác thì tổ chức, cá nhân bị thiệt hại có quyền yêu cầu Tòa án buộc bên lạm dụng thủ tục đó phải bồi thường cho những thiệt hại do việc lạm dụng gây ra, trong đó bao gồm chi phí hợp lý để thuê luật sư. N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 18 Hành vi lạm dụng thủ tục bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ bao gồm hành vi cố ý vượt quá phạm vi hoặc mục tiêu của thủ tục này.” CPTPP cũng đặc biệt quan tâm đến các biện pháp thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới. Điều 18.76 CPTPP quy định mở rộng thẩm quyền của cơ quan chức năng để có thể mặc nhiên (ex officio) tiến hành các thủ tục hải quan với đối tượng là hàng hóa nhập khẩu, tập kết để xuất khẩu, hoặc quá cảnh, và bị nghi ngờ là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu hoặc hàng hóa sao chép lậu, nghĩa là cơ quan hải quan có thể tiến hành các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất nhập khẩu mà không cần đơn yêu cầu của chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Hải quan hiện hành của Việt Nam chỉ quy định về việc tiến hành thủ tục biên giới khi có yêu cầu của chủ thể quyền (Điều 216 Luật Sở hữu trí tuệ), vì vậy chưa tương thích với CPTPP. Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019 cũng chưa quy định thẩm quyền mặc nhiên của cơ quan hải quan, mà chỉ bổ sung quy định về nghĩa vụ của cơ quan hải quan trong việc cung cấp thông tin cho chủ thể quyền sở hữu trí tuệ trong vòng 30 ngày kể từ ngày ra quyết định áp dụng biện pháp hành chính để xử lý đối với hàng hóa giả mạo về nhãn hiệu và hàng hóa sao chép lậu (khoản 1 Điều 218 Luật Sở hữu trí tuệ sửa đổi, bổ sung năm 2019). Về chế tài hình sự, CPTPP yêu cầu các nước thành viên quy định trách nhiệm hình sự đối với rất nhiều hành vi xâm phạm quyền SHTT (các điều 18.77, 18.78, 18.79) như cố ý giả mạo nhãn hiệu, cố ý nhập khẩu/xuất khẩu hàng hóa mang nhãn hiệu giả mạo, sao chép bản quyền hoặc các quyền liên quan trên quy mô thương mại, cố ý tiếp cận trái phép một bí mật kinh doanh được lưu trữ trong hệ thống máy tính, cố ý chiếm đoạt trái phép bí mật kinh doanh, cố ý tiết lộ trái phép bí mật kinh doanh hoặc tiết lộ bí mật kinh doanh mang tính chất gian dối; sản xuất, lắp ráp, chỉnh sửa, xuất/nhập khẩu, bán, cho thuê, hoặc phân phối thiết bị mà mình biết hoặc buộc phải biết rằng thiết bị đó được dùng để hỗ trợ việc giải mã hoặc tiếp nhận tín hiệu vệ tinh hoặc cáp mang chương trình đã được mã hóa... Ngoài các hành vi xâm phạm trực tiếp, CPTPP cũng yêu cầu phải có chế tài hình sự đối với việc giúp sức hoặc xúi giục thực hiện hành vi xâm phạm. Bộ luật hình sự Việt Nam năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) mới chỉ có 2 điều (225 và 226) quy định về Tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và Tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp với rất ít loại hành vi. Do đó, Bộ luật hình sự cần được sửa đổi, bổ sung để hình sự hóa các loại hành vi xâm phạm theo quy định của CPTPP, với lộ trình sửa đổi là 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực đối với Việt Nam. 3. Kết luận và kiến nghị Hiệp định CPTPP đã, đang và sẽ có tác động mạnh mẽ tới việc hoàn thiện pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam. Việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm, Luật Sở hữu trí tuệ năm 2019 mới chỉ là bước đầu để thực thi các nghĩa vụ trước mắt về sở hữu trí tuệ của Việt Nam, trong đó tập trung vào năm nhóm vấn đề lớn, bao gồm: (1) cách thức nộp đơn đăng ký xác lập quyền sở hữu công nghiệp; (2) tăng thời gian ân hạn đối với tính mới và trình độ sáng tạo của sáng chế; (3) không bắt buộc đăng ký hợp đồng chuyển giao quyền sử dụng nhãn hiệu; (4) quy định bổ sung các đối tượng không được bảo hộ dưới danh nghĩa là chỉ dẫn địa lý; (5) tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Trong thời gian tới, để thực thi đầy đủ các nghĩa vụ về sở hữu trí tuệ của Việt Nam trong CPTPP, cần tiếp tục sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ và các luật khác có liên quan theo hướng sau đây: Thứ nhất, sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ về phạm vi các nhãn hiệu được bảo hộ bao gồm cả các dấu hiệu không nhìn thấy được, đặc biệt là nhãn hiệu âm thanh. Thứ hai, sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ để quy định rõ về bảo hộ dạng dịch nghĩa hoặc phiên tự của chỉ dẫn địa lý và không bảo hộ thành phần riêng lẻ trong thuật ngữ đa thành phần được bảo hộ dưới dạng chỉ dẫn địa lý nếu thành phần đó đã trở thành tên gọi chung của hàng hóa có liên quan. N.T.Q. Anh, N.B. Thao / VNU Journal of Science: Legal Studies, Vol. 35, No. 3 (2019) 9-19 19 Thứ ba, sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ về cách thức và thời hạn bảo hộ dữ liệu thử nghiệm đối với nông hóa phẩm phù hợp với quy định của CPTPP. Thứ tư, bổ sung vào Luật Sở hữu trí tuệ quy định về bồi thường thiệt hại xác định trước và bồi thường thiệt hại bổ sung trong vụ kiện về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Thứ năm, sửa đổi, bổ sung Bộ luật tố tụng dân sự để quy định thêm thẩm quyền của tòa án trong việc ban hành lệnh bảo vệ bí mật thông tin trong tố tụng và chế tài, thẩm quyền áp dụng chế tài đối với các vi phạm bảo mật thông tin trong tố tụng trong vụ kiện về xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ. Thứ sáu, sửa đổi, bổ sung Luật Sở hữu trí tuệ và Luật Hải quan để quy định cơ quan hải quan có thẩm quyền mặc nhiên trong việc áp dụng các biện pháp kiểm soát hàng hóa xuất, nhập khẩu nhằm thực thi quyền sở hữu trí tuệ mà không cần có đơn yêu cầu của chủ thể quyền. Thứ bảy, sửa đổi, bổ sung Bộ luật hình sự để hình sự hóa các hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ mà CPTPP yêu cầu phải xử lý về hình sự. Thứ tám, hoàn thiện cơ chế công bố bản án theo hướng số hóa nội dung bản án thay vì chỉ scan bản gốc để thuận tiện cho việc tra cứu, tìm kiếm và xây dựng cơ sở dữ liệu riêng về bản án, quyết định về sở hữu trí tuệ; đồng thời tiến tới công bố các quyết định hành chính về sở hữu trí tuệ. Tài liệu tham khảo [1] World Bank, Legal Review and Gap Assessment for Vietnam’s Implementation of CPTPP, 15 July 2018. [2] VPLS Phạm và Liên danh, Tìm hiểu về bảo hộ nhãn hiệu âm thanh, https://www.pham.com.vn/chuyen- muc-binh-luan/tim-hieu-ve-bao-ho-nhan-hieu-am- thanh.htm (truy cập ngày 23/8/2019) [3] Nguyễn Thị Quế Anh, Phân loại nhãn hiệu theo hình thức của nhãn hiệu, Tạp chí Khoa học ĐHQGHN, Luật học 26 (2010) 99-107. [4] Nguyễn Thị Thu Trang (chủ biên), Rà soát pháp luật Việt Nam với các cam kết của Hiệp định Đối tác Xuyên Thái Bình Dương (TPP) về Sở hữu trí tuệ, NXB. Công thương, Hà Nội, 2017. [5] International Trademark Association, Board Resolution, Elimination of Mandatory Trademark License Recording Requirements, March 28, 1995, https://www.inta.org/Advocacy/Pages/Elimination ofMandatoryTrademarkLicenseRecordingRequire ments.aspx (truy cập ngày 23/8/2019) [6] Commission Regulation (EU) No 1122/2010 of 2 December 2010 entering a designation in the register of protected designations of origin and protected geographical indications [Gouda Holland (PGI)], https://eur-lex.europa.eu/legal- content/EN/TXT/?uri=CELEX%3A32010R1122 (truy cập ngày 23/8/2019). [7] Danny Friedmann, TPP’s Coup de Grâce: How the Trademark System Prevailed as Geographical Indication System, in PARADIGM SHIFT IN INTERNATIONAL ECONOMIC LAW RULE- MAKING, TPP AS A NEW MODEL FOR TRADE AGREEMENTS? (Julien Chaisse, Henry Gao, and Chang-fa Lo eds.) New York: Springer, Series “Economics, Law, and Institutions in Asia Pacific,” 2017, 273- 291, https://papers.ssrn.com/sol3/papers.cfm?abstract_i d=3090172 [8] Báo Nhân Dân điện tử, Tạo thuận lợi cho các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ, ngày 03/8/2019, https://www.nhandan.com.vn/khoahoc- congnghe/item/41083802-tao-thuan-loi-cho-cac- chu-the-quyen-so-huu-tri-tue.html (truy cập ngày 23/8/2019) [9] Trần Mạnh Hùng, CPTPP – Những điều cần biết trước thềm mùa xuân 2019, https://baodautu.vn/cptpp---nhung-dieu-can-biet- truoc-them-mua-xuan-2019-d93484.html [10] Luật bản quyền Hoa Kỳ, 17 U.S.C §504. [11] Baker & McKenzie, Proposed Amendments to the Patent Law and Draft IP Provision in the Foreign Investment Law, 12 February 2019, https://www.bakermckenzie.com/en/insight/public ations/2019/01/proposed-amendments-to-the- patent-law (truy cập ngày 23/8/2019).
File đính kèm:
- tac_dong_cua_cac_quy_dinh_ve_so_huu_tri_tue_trong_hiep_dinh.pdf